Data Loading...

DoiSongTamLinhT11-PhanTanThanh Flipbook PDF

DoiSongTamLinhT11-PhanTanThanh


181 Views
200 Downloads
FLIP PDF 1.68MB

DOWNLOAD FLIP

REPORT DMCA

ĐỜI SỐNG TÂM LINH XI

THẦN HỌC ĐỨC TIN

Phan Tấn Thành

ĐỜI SỐNG TÂM LINH XI

THẦN HỌC ĐỨC TIN

Học Viện Đa Minh 2013

Viết tắt  GLCG: Sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo  Ký hiệu các sách Kinh thánh dựa theo bản dịch của Nhóm Phiên dịch Các Giờ Kinh Phụng vụ

Mục lục Mục lục ..................................................................................... 5 Nhập đề ..................................................................................... 9 Phần thứ nhất KINH THÁNH VÀ VẤN ĐỀ TIN Chương Một. CỰU ƯỚC ........................................................ 17 Mục I. TỪ NGỮ VÀ Ý NIỆM ............................................. 17 I. Từ ngữ ............................................................................. 17 II. Ý niệm ........................................................................... 19 Mục II. CUỘC SỐNG ĐỨC TIN CỦA DÂN CHÚA ......... 22 I. Abraham .......................................................................... 29 II. Thời Xuất hành .............................................................. 34 III. Đức tin của các ngôn sứ ............................................... 46 IV. Niềm tin hướng đến tương lai ...................................... 56 Chương Hai. TÂN ƯỚC ......................................................... 65 Mục I. TỪ NGỮ VÀ Ý NIỆM ............................................. 66 I. Từ ngữ ............................................................................. 66 II. Khái niệm ...................................................................... 67 Mục II. NHỮNG BẢN VĂN VỀ ĐỨC TIN TRONG TÂN ƯỚC ..................................................................................... 72

6

Thần Học Đức Tin

I. Tin mừng nhất lãm .......................................................... 73 II. Công vụ Tông đồ ........................................................... 98 III. Các thư thánh Phaolô ................................................. 102 IV. Tin mừng Gioan ......................................................... 130 Kết luận Phần Thứ Nhất. ...................................................... 149 I. Tin và không tin ............................................................ 150 II. Đức tin của Đức Giêsu ................................................ 153 III. Đức tin của Mẹ Maria ................................................ 155 Phần Thứ Hai THẦN HỌC VỀ ĐỨC TIN TRONG LỊCH SỬ GIÁO HỘI Chương Ba. SỰ TIẾN TRIỂN ĐẠO LÝ ĐỨC TIN ............. 165 Mục I. HỘI THÁNH NGUYÊN THỦY ............................ 166 I. Những hoàn cảnh .......................................................... 166 II. Những mẫu thức đức tin .............................................. 170 Mục II. THỜI CÁC GIÁO PHỤ: CÁC TÍN BIỂU ............ 172 I. Khái niệm ...................................................................... 172 II. Phân loại ...................................................................... 173 III. Các tín biểu đạo lý ...................................................... 178 Mục III. TIN VÀ TÍN ĐIỀU .............................................. 181 I. Khái niệm ...................................................................... 181 II. Sự tiến triển đạo lý....................................................... 184 Chương Bốn. NHỮNG SUY TƯ VỀ BẢN TÍNH ĐỨC TIN ............................................................................................... 189 Mục I. THỜI GIÁO PHỤ................................................... 190 I. Đức tin và văn hóa ........................................................ 191 II. Thánh Augustinô ......................................................... 191

Mục lục

7

Mục II. THỜI TRUNG CỔ ................................................ 195 I. Lý trí hỗ trợ cho đức tin: thánh Anselmô ...................... 195 II. Ân sủng không phá hủy tự nhiên: thánh Tôma Aquinô .......................................................................................... 196 III. Lý trí tách rời khỏi đức tin: thuyết duy danh.............. 199 Mục. III THỜI CẬN ĐẠI .................................................. 201 Mục IV. CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II ............................ 206 I. Công đồng Vaticanô II .................................................. 208 II. Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo .............................. 210 Mục V. NHỮNG QUAN ĐIỂM THẦN HỌC VỀ ĐỨC TIN TỪ SAU CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II ........................... 216 1/ Chấp nhận những công thức đạo lý .............................. 217 2/ Ánh sáng siêu việt ........................................................ 218 3/ Tín thác cậy trông......................................................... 218 4/ Cảm nghiệm tâm linh ................................................... 219 5/ Vâng phục .................................................................... 219 6/ Hành động .................................................................... 220 7/ Tương quan liên bản vị ................................................ 220 Phần Thứ Ba SUY TƯ THẦN HỌC VỀ ĐỨC TIN Chương Năm. BẢN CHẤT ĐỨC TIN ................................. 225 Mục I. TRONG THÁNH LINH ......................................... 226 A. Hồng ân đức tin ........................................................... 227 B. Tác động của Thánh Linh ............................................ 229 C. Ân sủng và tự do .......................................................... 231 D. Đức tin và tín ngưỡng .................................................. 233 Mục II. VỚI ĐỨC KITÔ ................................................... 234

8

Thần Học Đức Tin

I. Christus solus ................................................................ 235 A. Đức tin và lý trí .......................................................... 237 B. Đức tin và ý chí .......................................................... 242 II. Christus caput Ecclesiae ............................................. 246 A. Hội thánh thông truyền đức tin .................................. 247 B. Hội thánh tuyên xưng đức tin .................................... 251 Mục III. ĐẾN CHÚA CHA ............................................... 255 I. Tin như “hành vi” và như “nhân đức” .......................... 256 II. Tin là một nhân đức hướng về Chúa ........................... 257 III. Đức tin và ơn cứu rỗi .................................................. 260 Chương Sáu. NHỮNG THĂNG TRẦM CỦA ĐỨC TIN .... 263 Mục I. ĐỨC TIN TRƯỞNG THÀNH ............................... 264 I. Sự tăng trưởng đức tin dựa theo thần học cổ điển ........ 265 II. Những chặng tiến triển đức tin dựa theo tâm lý học ... 268 III. Thanh luyện đức tin qua đêm tối ................................ 273 Mục II. THỰC HÀNH ĐỨC TIN ...................................... 282 I. Những nghĩa vụ kèm theo việc thực hành đức tin ........ 282 II. Những tội trái nghịch đức tin....................................... 286 III. Não trạng văn hóa thời đại ......................................... 291 Kết luận ................................................................................. 299 Thư tịch ................................................................................. 305 1. Từ điển ......................................................................... 305 2. Sách .............................................................................. 306

Nhập đề Trong tự sắc Porta fidei, mở Năm Đức tin, đức thánh cha Bênêđictô XVI đã đề ra nhiều mục tiêu, trong đó có việc “suy tư về đức tin” để ý thức hơn lòng gắn bó với Đức Kitô, rồi từ đó dẫn đến việc tuyên xưng, cử hành, làm chứng đức tin (x. số 8). Tập sách “Thần học về đức tin” được biên soạn để đáp lại lời mời ấy. Đề tài này sẽ được khai triển theo thứ tự của tiến trình nghiên cứu thần học, gồm ba chặng chính: 1. Trước tiên, chúng ta phân tích những đoạn văn Kinh thánh Cựu ước và Tân ước nói về đức tin. Chúng ta sẽ có dịp tìm hiểu những ý nghĩa và chiều kích khác nhau của đức tin: tin như là tin tưởng, phó thác; tin như là chấp nhận mạc khải; nhất là chúng ta sẽ có dịp nghiền ngẫm những mẫu gương sống đức tin, từ ông Abraham trong Cựu ước đến Đức Maria trong Tân ước, xuyên qua nhiều chứng nhân khác (tựa như Môsê, các ngôn sứ, các tông đồ). Bên cạnh đó là những trường hợp của những người “cứng lòng tin”, “kém tin”. 2. Tiếp đến, chúng ta sẽ theo dõi việc đào sâu những khía cạnh của đức tin trong lịch sử Hội thánh, từ thời các giáo phụ, trải qua kinh viện thời Trung cổ, rồi những cuộc tranh luận vào thời cận đại đưa đến những tuyên ngôn của công đồng Trentô, Vaticanô I và Vaticanô II, được tiếp nhận vào sách Giáo lý Hội thánh Công giáo. Đức thánh cha muốn chúng ta trong năm nay

10

Thần Học Đức Tin

hãy học hỏi sách Giáo lý Hội thánh Công giáo để đào sâu nội dung đức tin Kitô giáo. Thiết tưởng chúng ta nên chú trọng đến những đoạn trình bày bản chất và những đặc tính của đức tin ở trong phần nhập đề. 3. Chặng thứ ba. Những đoạn văn của sách Giáo lý Hội thánh Công giáo bàn về bản chất và các đặc tính của đức tin (số 142175) sẽ hướng dẫn chúng ta trong phần suy tư thần học: tìm hiểu bản chất của đức tin, vừa là ân ban của Thiên Chúa vừa là hành vi của con người; đồng thời cũng tìm hiểu sự tăng trưởng đức tin với những bước thăng trầm của nó. Thật ra có nhiều cách thức để trình bày bản chất đức tin. Nhiều tác giả bắt đầu từ việc Thiên Chúa mạc khải những chân lý vượt qua tầm hiểu biết của lý trí, và chúng ta phải chấp nhận bằng đức tin. Lối trình bày như vậy dễ đưa tới hai nguy cơ: thứ nhất, Thiên Chúa là một nhà độc tài, bắt buộc con người phải chấp nhận những chân lý mà nó không hiểu gì hết; nguy cơ thứ hai là quan niệm đức tin như là cái gì thuộc lãnh vực siêu nhiên, xa rời cuộc sống hằng ngày. Vì thế có người tìm lối tiếp cận cách khác, theo chuyển động ngược lại, nghĩa là khởi hành từ con người. Trước khi nói đến “nhân đức tin”, chúng ta hãy nghĩ đến “niềm tin, lòng tin”, hoặc đơn giản là “tin”. Chúng ta biết rằng “tin” là một điều kiện tất yếu của cuộc sống con người. Thật vậy, chuyện “tin” không chỉ liên quan đến thế giới thần phật, nhưng nó chi phối các mối tương quan hằng ngày trong xã hội, bắt đầu ngay từ trong gia đình: vợ chồng cần tin nhau thì mới dám trao thân cho nhau, chấp nhận xây dựng một gia đình. Trong công việc làm ăn buôn bán cũng vậy: cần phải tin nhau, dựa trên sự trung tín với lời hứa. Hiểu như vậy, chắc chắn không ai dám mạnh miệng tuyên bố rằng “tin là chuyện phù phiếm”, hoặc “tin là chuyện không cần thiết”. Không phải thế đâu, tin cần thiết lắm! Chỉ xin đan cử

Nhập đề

11

một thí dụ nho nhỏ thì đủ hiểu, đó là chuyện ăn uống: khi ngồi vào bàn ăn, ta đã phải vận dụng đến niềm tin: tin rằng không ai bỏ thuốc độc vào thức ăn của ta, trước khi tin rằng món ăn này thực sự bồi dưỡng cơ thể! Thí dụ vừa rồi đưa ta đến một nhận xét như sau: tin không chỉ giới hạn vào tương quan với tín ngưỡng, nhưng còn với những người sống chung quanh ta. Trước khi nói đến “tin cái gì”, cần nhấn mạnh đến “tin ai”: tin vào sự thành thực của họ, tin vào tình nghĩa của họ đối với ta. Như sẽ thấy sau, đây là khía cạnh mà Kinh thánh nói nhiều về lòng tin (hay đức tin): tin là tin tưởng, tín thác vào Chúa, trước khi là chấp nhận các chân lý, hay đạo lý. Khi mà mình đã tin ai hết lòng, thì ta không ngần ngại chấp nhận tất cả những gì người ấy nói, cũng như dám trao phó đời của mình cho họ dẫn dắt. Nếu biết rằng “tin” là một thái độ căn bản của cuộc đời (không thể nào sống mà không tin), thì thử hỏi: có ai thực sự là người “không tin” hay không? Nếu dựa theo từ ngữ, thì chắc câu trả lời là “không”! Tuy nhiên, trên thực tế, thường những người tự xưng là “vô tín ngưỡng” hoặc “vô thần” không phải là họ không có một niềm tin nào hết, nhưng là vì họ khước từ làm thành phần các tôn giáo lịch sử, và cụ thể hơn nữa, phủ nhận niềm tin của Kitô giáo. Nói cách khác, trên đời này không có ai “vô tín ngưỡng” hoặc “vô thần”: ai cũng tin một vị thần nào đó (chẳng hạn như: thần tài, thần lộc, và kể cả thần Lưu Linh, thần Phù Du, và rất nhiều thần tượng khác nữa). Vì thế, vấn đề xoay quanh câu hỏi này: Bạn đi theo thần nào? Bạn thờ thần nào? Ngoài ra cũng nên biết là hiện tượng vô thần chỉ mới xuất hiện bên Tây phương trong vài thế kỷ gần đây. Trong xã hội cổ truyền, xã hội nào cũng có thần linh, và thậm chí kẻ nào không thờ lạy thần của bộ lạc hay quốc gia sẽ bị kết án tử hình. Hiện tượng vô thần bên châu Âu không nhằm loại trừ hết mọi thần

12

Thần Học Đức Tin

thánh nhưng là muốn bài bác niềm tin vào Thiên Chúa của Kitô giáo. Những lời mào đầu này nhằm xác định rõ hướng đi của tập sách. Khi bàn về đức tin, Kinh thánh không nói với người vô thần, nhưng là nói với những người đã có tín ngưỡng, và cụ thể hơn nữa, nói với dân Chúa. Trong Cựu ước, dân Chúa là Israel. Tội lớn nhất của Israel không phải là vô thần, nhưng là bỏ quên Thiên Chúa để chạy theo các thần khác. Ta thường gọi đó là “tội thờ ngẫu tượng”. Các ngôn sứ khiển trách tội bất tín vô ơn của Israel, bởi vì đã không chung thủy với giao ước. Trong Tân ước, chúng ta cũng thấy một viễn ảnh tương tự. Chúa Giêsu không khiển trách các người vô thần, nhưng là trách dân Israel bởi vì họ không biết nhận ra sự can thiệp mới của Thiên Chúa trong lịch sử. Hơn thế nữa, Chúa Giêsu cũng trách các môn đệ của ngài vì “chậm tín, kém tin, yếu tin”. Chúng ta có thể nói cách tương tự về các tác phẩm của thánh Phaolô: ngài đã trách dân Israel vì không nhìn nhận Đức Giêsu là vị thiên sai; còn đối với các tín hữu, thánh tông đồ cảnh cáo họ vì đã không sống phù hợp với đức tin mà mình đã tuyên xưng lúc chịu phép rửa tội: họ tuyên xưng lòng tin vào Chúa Giêsu nhưng lại sống như con người cũ. Trong bối cảnh huấn giáo này mà các tác giả Tân ước khai triển những khía cạnh của đức tin, chẳng hạn như: đức tin và hành động; tin và biết; tin và kiên trì... Mặt khác, Hội thánh cũng sớm ý thức rằng mình không nên chỉ nghĩ đến đời sống đức tin của mình (được coi như một hồng ân của Chúa), nhưng còn phải chuyển thông đức tin cho những người chưa biết đạo, cần phải giải thích cho người đời về “lý lẽ của niềm hy vọng của mình” (1Pr 3,15). Nhu cầu này càng tăng thêm vào thời các giáo phụ, khi mà các Kitô hữu buộc phải bênh vực niềm tin của mình trước những cuộc bách hại, do hiểu lầm hoặc do ác ý. Những trường hợp bỏ đạo, lạc đạo cũng không phải là họa hiếm; vì thế các nhà

Nhập đề

13

hữu trách phải cố gắng trình bày chính xác các chân lý (hay đạo lý đức tin). Phải chăng giáo huấn của Kinh thánh và các giáo phụ chỉ gồm khía cạnh tiêu cực, nghĩa là cảnh giác những sai lầm lệch lạc trong đời sống đức tin? Không phải thế, chúng ta sẽ thấy rằng ngoài huấn giáo về việc đón nhận và bảo vệ đức tin, truyền thống Hội thánh còn nói đến khía cạnh năng động của đức tin: đức tin cần phải được bồi dưỡng, tăng trưởng. Trên hành trình này, nhiều lúc người tín hữu phải trải qua nhiều thử thách nhằm thanh luyện đức tin, để cho nó được trưởng thành cứng cáp. Công việc này không do nỗ lực của con người, nhưng tiên vàn là tác động của ơn thánh. Trong bối cảnh ấy, chúng ta dễ hiểu ý nghĩa của lời cầu xin của các môn đệ “Lạy Chúa, con tin, nhưng xin Chúa tăng thêm đức tin cho chúng con” (Lc 17,5). Như vậy, những bài tìm hiểu sau đây nhằm đến việc đào sâu đức tin của chúng ta, hơn là hướng đến những người bên ngoài Hội thánh. Tuy vậy, một khi đã khám phá ra tình yêu của Đức Kitô dành cho chúng ta, đương nhiên chúng ta muốn chia sẻ niềm vui ấy cho người khác, mời gọi họ đến với tình yêu của Đấng Cứu thế.

Phần Thứ Nhất

KINH THÁNH VÀ VẤN ĐỀ TIN

Chúng ta bắt đầu tìm hiểu thần học đức tin bằng việc nghiên cứu các bản văn Kinh thánh, Cựu ước và Tân ước, liên quan đến chủ đề này. Dĩ nhiên, theo một nghĩa rộng, tất cả Kinh thánh đều nói về đức tin; nhưng chúng ta giới hạn cuộc khảo sát vào những đoạn văn bàn về bản chất của đức tin, những thái độ của con người đối với Lời Chúa, xét theo lý tưởng cũng như xét trong thực trạng. Thật vậy, Kinh thánh cho chúng ta thấy nhiều con người mẫu mực đức tin (mà sách Giáo lý Hội thánh Công giáo trưng dẫn hai nhân vật điển hình ở các số 145-149: ông Abraham trong Cựu ước và Đức Maria trong Tân ước), cũng như những trường hợp “không tin”. Nói cho đúng, khi phân tích tâm lý con người, chúng ta thấy rằng kể cả những bậc mô phạm cũng có lúc cảm thấy phân vân, nghi nan giữa hai thái độ ấy.

Chương Một

CỰU ƯỚC Chúng tôi phân chia chương này làm hai mục. Trong mục thứ nhất, chúng ta sẽ tìm hiểu những từ ngữ dùng để ám chỉ lòng tin cũng như những đặc tính của nó. Trong mục thứ hai, chúng ta sẽ học hỏi đời sống đức tin của vài nhân vật được Sách thánh đề cao như khuôn mẫu của đức tin; đồng thời, chúng ta cũng sẽ quan sát đời sống đức tin của dân Israel trải qua các giai đoạn lịch sử. Mục I TỪ NGỮ VÀ Ý NIỆM I. Từ ngữ Mặc dù chúng ta đang tìm hiểu đức tin, nhưng thiết tưởng cần phải ghi nhận rằng không phải lúc nào “tin” cũng là “nhân đức”. Trong ngôn ngữ Do thái và các ngôn ngữ châu Âu, người ta chỉ

18

Thần Học Đức Tin

đơn thuần nói đến “tin”,1 và phải tùy mạch văn mà dịch: lòng tin, niềm tin, đức tin. Trên thực tế, như sẽ thấy sau, phải chờ đến thời các giáo phụ, người ta mới đặt vấn đề “tin” như là một nhân đức, nhân đức hướng Chúa (quen gọi là nhân đức đối thần: virtus theologalis). Như đã nhận xét trước đây, “tin” là một thái độ quan trọng trong cuộc sống hằng ngày, cách riêng trong tương quan xã hội, trước khi nói đến thế giới thần linh. Cứ điểm qua các từ ngữ gắn liền với “tin” hoặc “tín” thì đủ rõ điều ấy: tin cậy, tin tưởng; tín cẩn, tín thác, tín nhiệm, tín thành (thành tín), trung tín. Không những “tin” cần thiết trong tương quan xã hội, mà ngay cả trong cách ứng xử bản thân nữa, như khi nói đến sự “tự tin”. Kinh thánh cũng khởi đi từ nhận định đó. Tiếng Do thái có nhiều từ ngữ để nói đến việc tin, nhưng đặc biệt là hai động từ aman và batakh. 1. Động từ Aman, xét theo nguyên ngữ, có nghĩa là: đeo, mang (thí dụ mang đứa con trên tay: Ds 11,12; R 4,16; 2Sm 4,4); theo nghĩa bóng aman là dựa vào ai, nương tựa, tin tưởng. Do động từ aman mà có thán từ (hay trạng từ) amen, có nghĩa là: đúng thế, chắc rồi, chính xác! 2. Động từ batakh nói lên ý tưởng: trông cậy, tín thác. Như vậy, tin có nghĩa là: trông mong, hy vọng, tin tưởng. Những từ ngữ này được dùng trong đời sống hằng ngày, cách riêng trong bối cảnh của mối tương quan xã hội. Ở đây chúng ta chỉ xét đến tương quan giữa con người với Thiên Chúa. Những

Tiếng Anh: faith, belief, to believe; tiếng Pháp: foi, croyance, croire; tiếng La tinh: fides credere. 1

Cựu ước

19

ý tưởng vừa gợi lên (nương tựa, tín thác) sẽ được kiện toàn dần dần trải qua tiến trình mạc khải của Thiên Chúa cho Israel. II. Ý niệm Chúng ta hãy rảo qua sự tiến triển của khái niệm đức tin qua bốn chặng đường chính của lịch sử mạc khải: thời tổ phụ Abraham, thời xuất hành của Môsê, thời các ngôn sứ, thời các nhà hiền triết.2 1/ Lịch sử bắt đầu với ông Abraham. Hồi ấy ông tin thờ các thần khác. Thế rồi, Thiên Chúa hiện ra với ông, hứa ban cho ông một vùng đất màu mỡ và con cháu đông đúc (St 12,1). Lời hứa ấy xem ra xa vời, nhưng ông tin vào Thiên Chúa (St 15,6), tin vào lời hứa của Ngài. Ông tin rằng Thiên Chúa trung tín với lời hứa và có khả năng thực hiện. Ông tín thác vào Ngài, và thậm chí sẵn sàng hy sinh đứa con của mình khi Ngài đòi hỏi. Ông trở thành khuôn mẫu của một kẻ có lòng tin (Hc 44,20) và tổ phụ của những kẻ có lòng tin (Rm 4,9-11). Chúng ta sẽ trở lại với cuộc đời đức tin của ông Abraham trong mục tới. 2/ Lịch sử mạc khải Cựu ước bước sang một chặng quyết liệt khi Thiên Chúa can thiệp vào cuộc giải thoát dân Israel ra khỏi cảnh nô lệ Ai cập. Thiên Chúa của các tổ phụ đã thăm viếng đoàn dân đang bị áp bức. Thiên Chúa gọi ông Môsê, và hứa sẽ ở với ông trong công cuộc dẫn dắt Israel vào đất hứa (Xh 3,11-15). Ông Môsê đã đáp lại bằng niềm tin (Hr 11,23-29). Ông được đặt làm một kẻ môi giới giữa Thiên Chúa với dân: ông thông đạt chương trình của Chúa cho dân, và kêu gọi họ hãy tin vào Chúa, hết lòng tín thác vào ngài (Ds 14,11; Xh 19,9). Tin có nghĩa là vâng nghe (Đnl 9,23), đáp lại amen (Đnl 27,9-6) với lời Chúa, J. Duplacy, “Fede” in: Xavier Leon Dufour (dir.), Dizionario di Teologia Biblica, Marietti Torino 1971, col.380-385. 2

20

Thần Học Đức Tin

được biểu thị qua giao ước. Như vậy, tin không chỉ là một lời thưa chấp thuận nhưng còn là thái độ trung thành kéo dài qua năm tháng. Niềm tin thường được lặp lại qua những cuộc tuyên xưng (Đnl 6,4-9; 26,1-9; Tv 78; 105): dựa trên việc kỳ diệu của Thiên Chúa đã làm cũng như thâm tín quyền năng và lòng trung tín của Ngài (Tv 136), dân Israel khẳng định ý chí dành tất cả tâm trí để yêu mến một mình Thiên Chúa mà thôi. 3/ Tin có nghĩa là tín thác vào lời hứa; tin có nghĩa là chấp nhận giao ước, và biểu lộ qua việc tuyên xưng. Các ngôn sứ còn vạch ra những yêu sách khác của đức tin, khi đụng đến những hoàn cảnh khác nhau của lịch sử. - Hệ luận quan trọng của niềm tin vào Thiên Chúa là từ bỏ các ngẫu tượng. Israel luôn bị cám dỗ chạy theo các vị thần của các tôn giáo lân cận, nhất là khi niềm tin được gắn liền với những phúc lộc trước mắt: tiền của, hoa màu ruộng đất, thắng lợi quân sự. Khi thấy các dân lân bang được những thành quả ấy, Israel bị cám dỗ muốn chạy theo các thần của họ (chẳng hạn thần Baal) vì nghĩ rằng các thần ấy “thiêng” hơn là Giavê, Thiên Chúa của các tổ phụ. Các ngôn sứ không những tố cáo tội thờ ngẫu tượng (Hs 2,7-15; Gr 2,5-13) bởi vì đó là đồ hư ảo (Gr 2,25), mà cả việc cứu viện các cường quốc bởi vì làm như vậy là cậy dựa vào binh mã nhân loại thay vì tin tưởng vào sự che chở của Thiên Chúa (Hs 1,7; Is 31,1). Các ngôn sứ nhắc nhở dân Israel hãy bình tĩnh tín thác vào Thiên Chúa. Thiên Chúa là đá tảng của dân (Is 44,8; 50,10), Đấng trung tín với lời hứa, mạnh mẽ hơn các thần của Babylonia (Is 44,6; 43,8-12; Tv 115,7-11). - Đức tin của dân Israel đã trải qua một cuộc thử thách nặng nề khi họ chứng kiến cảnh tàn phá đền thờ và cảnh lưu đày sang Babylonia. Các ngôn sứ giải thích rằng đây là một hình phạt về tội bất trung với giao ước, đã được cảnh cáo nhiều lần. Không phải là Thiên Chúa bỏ rơi Israel, nhưng là Israel đã bỏ Chúa, khi

Cựu ước

21

họ tìm sự nương tựa nơi các thế lực nhân loại và ngay cả khi việc thờ phượng của họ rỗng tuếch. Dù nói gì đi nữa, nếu có ai nghi ngờ quyền năng Thiên Chúa trước thảm họa này thì cũng là điều dễ hiểu. Thế nhưng trong hoàn cảnh hầu như tuyệt vọng ấy, các ngôn sứ thời lưu đày đã đào sâu hơn khía cạnh bền bỉ của niềm tin vào Thiên Chúa: tin không những có nghĩa là giữ vững lòng tin tưởng kể cả lúc gặp thử thách, nhưng tin còn có nghĩa là hy vọng bất chấp mọi hoàn cảnh trái ngược. Thật vậy, giữa cảnh nước mất nhà tan, các ngôn sứ loan báo rằng Thiên Chúa sẽ đưa dân trở về quê hương, sẽ tái thiết xứ sở. Để củng cố niềm tin tưởng ấy, các ngôn sứ nại đến chân lý về sự tạo dựng: Thiên Chúa có quyền năng tạo dựng vạn vật từ hư vô, thì Ngài cũng có dư sức để tái lập dân Israel hiện đang tản mát nơi đất khách quê người. 4/ Những tác giả các sách Khôn ngoan mở rộng đối tượng của niềm hy vọng: người tín hữu tin tưởng rằng Thiên Chúa không chỉ hứa ban thưởng những phúc lộc ở đời này (tài sản phong phú, con cháu đầy đàn), nhưng nhất là những điều thiện ở đời sau. Vào giai đoạn cuối của Cựu ước, chúng ta thấy thêm một chiều kích mới của đức tin: tin vào Thiên Chúa kể cả vào những lúc bị thử thách, tựa như ông Giób, và thậm chí ngay cả khi người tín hữu bị bách hại (2Mcb 7; Đn 12,2; Kn 2,3; 3,1-9). Như vậy, quan niệm về niềm tin được tiến triển dần dần: từ chỗ tín thác vào lời hứa, đến chỗ chấp nhận giao ước; từ việc chấp nhận giao ước đến việc trung thành với giao ước; từ việc trung thành với giao ước đến chỗ mở tầm nhìn đến những thực tại không thuộc thế giới này. Song song với sự kiện toàn ý niệm là sự kiện toàn những tâm tình về phía con người: từ chỗ tin tưởng vào một thần linh quyền năng, đến chỗ lắng nghe Lời Chúa, tuyên xưng những kỳ công của Chúa, trung thành với Luật Chúa kể cả khi phải hy sinh mạng sống.

22

Thần Học Đức Tin

Chúng ta sẽ thấy rõ những ý tưởng này khi phân tích cuộc sống cụ thể của những con người cùng với những hoàn cảnh lịch sử cụ thể, tạm đặt tên là “cuộc sống đức tin của Dân Chúa”. Mục II CUỘC SỐNG ĐỨC TIN CỦA DÂN CHÚA Trong mục vừa rồi, chúng ta tìm hiểu những từ ngữ được Cựu ước sử dụng để diễn tả đức tin, cũng như nội dung tư tưởng kèm theo. Tuy nhiên Kinh thánh không tìm cách định nghĩa đức tin kiểu như một cuốn từ điển; Kinh thánh là hồi ký của những con người đã sống đức tin trong nhưng hoàn cảnh khác nhau, có khi họ đáng nêu gương cho ta noi theo, hoặc có khi họ đã không sống đúng với lý tưởng. Chúng ta hãy học hỏi những trường hợp điển hình, xét về mặt tích cực (mẫu gương đức tin) cũng như tiêu cực (những trường hợp không tuân hành đức tin). Dù sao, cũng nên lưu ý rằng không thể vạch ra một ranh giới rõ rệt giữa đôi bên, bởi vì chúng ta sẽ thấy kể cả những người được xem là mẫu mực (tựa như ông Abraham, Môsê) cũng không thiếu lần tỏ dấu nghi nan. Nhiều tác giả thường bắt đầu lịch sử đức tin với tổ phụ Abraham, “người cha của những ai có lòng tin” (xc. Rm 4,11). Tuy nhiên tác giả thư gửi Hípri còn đi lùi đến tận ông Abel. Mặt khác, nếu muốn tìm hiểu những khía cạnh tích cực cũng như tiêu cực của đức tin thì có lẽ phải bắt đầu với nguyên tổ. Thật vậy, xem ra câu chuyện nguyên tổ sa ngã không nhằm giải thích nguồn gốc của “tội tổ trông truyền” (nghĩa là tội mà tổ tông truyền lại cho con cháu) cho bằng giải thích nguồn gốc của tất cả các tội lỗi của con người. Tác giả Sách thánh ôn lại lịch sử của dân Israel, và ông thấy rằng cái tội di truyền của họ ở chỗ thiếu lòng tin vào Thiên Chúa; thay vì tin vào Thiên Chúa thì họ lại chạy theo các tà thần, cậy dựa vào sức mạnh quyền lực trần

Cựu ước

23

gian. Tất cả những điều này phản ánh ngay từ nguyên tổ: bà Evà nghi ngờ lòng tốt của Thiên Chúa, bà chiều theo lời phỉnh gạt của con rắn cho rằng Thiên Chúa giấu giếm một bí mật nào đó vì Ngài sợ mất quyền lợi. Thế là bà đã thuận tai chiều theo lời dụ dỗ. Như vậy nguồn gốc của tội lỗi nằm ở chỗ thiếu tin tưởng vào tình yêu của Thiên Chúa. Đây là điều mà các ngôn sứ không ngừng trách cứ dân Israel: thay vì nương tựa vào Thiên Chúa thì họ lại tin cậy dựa vào sức mạnh của mình (Đnl 28,66); họ cho rằng Thiên Chúa không hiểu họ, không đủ khả năng để giải thoát họ (Đnl 8,14-16; Tv 78,11; 106,7); họ nổi loạn chống lại Thiên Chúa, chống lại luật lệ của Ngài (Đnl 32,1; Is 1,11-13); họ đi tìm cứu trợ nơi thế lực trần thế (Is 18,1-6; Gr 7,4). Chúng ta nên ghi nhận lối giải thích này, nhưng thiết tưởng chúng ta nên bắt đầu bằng cái gì tích cực hơn, nghĩa là bắt đầu từ những kẻ sống đức tin. Trước hết, chúng ta hãy đọc lại đoạn văn của thư gửi Hípri kể lại một đoàn đông đảo “đám mây nhân chứng” (Hr 12,1) trong Cựu ước, và sau đó chúng ta sẽ học hỏi vài trường hợp điển hình. Bản dịch của Nhóm Phiên dịch các Giờ kinh Phụng vụ đặt tựa đề cho chương 11 thư gửi Hípri là “đức tin gương mẫu của các tổ phụ”, nhưng nếu gọi là “bài ca đức tin” thì cũng đúng, bởi vì thuật ngữ “nhờ đức tin” được lặp đi lặp lại 19 lần. Chương này có thể phân làm bốn đoạn: 1/ Đoạn thứ nhất (các câu 1-7), giới thiệu sơ lược “đức tin”, và trưng ra ba thí dụ: Abel (A-ben), Hênoch (Kha-noc), Nôê thuộc về thời xa xưa. 2/ Đoạn thứ hai (các câu 8-22) nói đến đức tin của ông Abraham, mà đặc trưng là không nhìn thấy phần thưởng đã hứa; kế đó là các tổ phụ Isaac, Giacob, Giuse. 3/ Đoạn thứ ba (câu 23-31) gợi lại đức tin của ông Môsê, đề cao sự kiên trì. 4/ Đoạn cuối cùng (câu 32-40) liệt kê vài anh hùng đức tin vào thời các thủ lãnh và vào cuối thời Cựu ước. Chúng ta hãy đọc bản văn, và thỉnh thoảng chúng tôi xen vào vài chú thích.

24

Thần Học Đức Tin

Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy. (Truyền thống thần học thường coi đây là định nghĩa của đức tin. Chúng ta sẽ giải thích ý nghĩa câu này trong chương tới khi chú giải thư gửi Hípri). 2 Nhờ đức tin ấy, các tiền nhân đã được Thiên Chúa chứng giám. 1

Nhờ đức tin, chúng ta hiểu rằng vũ trụ đã được hình thành bởi lời của Thiên Chúa; vì thế, những cái hữu hình là do những cái vô hình mà có (Khởi đầu của đức tin là lời của Thiên Chúa, lời có khả năng sáng tạo). 4 Nhờ đức tin, ông A-ben đã dâng lên Thiên Chúa một hy lễ cao quý hơn hy lễ của ông Ca-in: nhờ tin như vậy, ông A-ben đã được chứng nhận là người công chính, bởi vì Thiên Chúa đã chấp nhận những lễ phẩm ông dâng. Và cũng nhờ tin như thế, mà tuy đã chết rồi, ông vẫn còn lên tiếng. (Sự tích ông Abel được nói trong sách Sáng thế. Tác giả đã thêm một ý tưởng lấy từ truyền thống Do thái, theo đó hy tế của ông được Chúa chấp nhận nhờ đức tin). 3

Nhờ đức tin, ông Kha-nốc được đem đi nơi khác để khỏi chết, và người ta không tìm thấy ông nữa, bởi vì Thiên Chúa đã đem ông đi. Quả thật, Kinh Thánh chứng nhận rằng: trước khi được đem đi, ông đã làm đẹp lòng Thiên Chúa. 6 Mà không có đức tin, thì không thể làm đẹp lòng Thiên Chúa, vì ai đến gần Thiên Chúa, thì phải tin là có Thiên Chúa và tin Người là Đấng ban phần thưởng cho những ai tìm kiếm Người. (Việc ông Hênoch - hay Kha-nốc - được cất về trời được nói ở sách Sáng thế 5,24; nhưng tác giả thêm rằng ông đẹp lòng Thiên Chúa nhờ đức tin. Ngoài ra, tác giả còn thêm một chi tiết về nội dung đức tin là: tin rằng Thiên Chúa hiện hữu và ban thưởng cho kẻ tìm kiếm Ngài). 5

Nhờ đức tin, ông Nô-ê được Thiên Chúa báo cho biết những gì người ta chưa thấy; vì có lòng kính sợ Thiên Chúa, ông đã đóng một chiếc tàu để cứu gia đình ông. Tin như thế là ông đã 7

Cựu ước

25

lên án thế gian, và được phần gia nghiệp là sự công chính nhờ đức tin. (Đọc lại sách Sáng thế 6,13-22, tác giả ca ngợi ông Nôê vì đã tin vào Lời Chúa báo những điều mà mắt chưa thấy. Điều này củng cố luận đề về sự “công-chính-hóa nhờ đức tin” mà thánh Phaolô viết trong thư gửi Rôma). Nhờ đức tin, ông Áp-ra-ham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ được lãnh nhận làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu. 9 Nhờ đức tin, ông đã tới cư ngụ tại Đất Hứa như tại một nơi đất khách, ông sống trong lều cũng như ông I-xa-ác và ông Gia-cóp là những người đồng thừa kế cùng một lời hứa, 10 vì ông trông đợi một thành có nền móng do chính Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng. 11 Nhờ đức tin, cả bà Xa-ra vốn hiếm muộn, cũng đã có thể thụ thai và sinh con nối dòng vào lúc tuổi đã cao, vì bà tin rằng Đấng đã hứa là Đấng trung tín. 12 Vì thế, do một người duy nhất, một người kể như chết rồi mà đã sinh ra một dòng dõi nhiều như sao trời cát biển, không tài nào đếm được. 13 Tất cả các ngài đã chết, lúc vẫn còn tin như vậy, mặc dù chưa được hưởng các điều Thiên Chúa hứa; nhưng từ xa các ngài đã thấy và đón chào các điều ấy, cùng xưng mình là ngoại kiều, là lữ khách trên mặt đất. 14 Những người nói như vậy cho thấy là họ đang đi tìm một quê hương. 15 Và nếu quả thật họ còn nhớ tới quê hương mình đã bỏ ra đi, thì họ vẫn có cơ hội trở về. 16 Nhưng thực ra các ngài mong ước một quê hương tốt đẹp hơn, đó là quê hương trên trời. Bởi vậy, Thiên Chúa đã không hổ thẹn để cho các ngài gọi mình là Thiên Chúa của các ngài, vì Người đã chuẩn bị một thành cho các ngài. 8

Nhờ đức tin, khi bị thử thách, ông Áp-ra-ham đã hiến tế Ixa-ác; dù đã nhận được lời hứa, ông vẫn hiến tế người con một. 18 Về người con này, Thiên Chúa đã phán bảo: Chính do I-xaác mà sẽ có một dòng dõi mang tên ngươi. 19 Quả thật, ông Áp17

26

Thần Học Đức Tin

ra-ham nghĩ rằng Thiên Chúa có quyền năng cho người chết trỗi dậy. Rốt cuộc, ông đã nhận lại người con ấy như là một biểu tượng. Nhờ đức tin, khi nhìn về tương lai, ông I-xa-ác đã chúc phúc cho Gia-cóp và Ê-xau. 21 Nhờ đức tin, ông Gia-cóp, khi sắp chết, đã chúc phúc cho mỗi người con ông Giu-se; ông dựa vào đầu gậy, cúi mình xuống sụp lạy. 22 Nhờ đức tin, ông Giu-se, khi sắp lìa đời, đã nhắc lại cuộc xuất hành của con cái Ít-ra-en và ra chỉ thị liên quan đến hài cốt của ông. 20

(Trong đoạn thứ hai, tác giả ca ngợi của đức tin của các tổ phụ Abraham, Isaac, Giacob, Giuse. Abraham được nói dài hơn cả. Tác giả ôn lại cuộc đời của Abraham kể từ khi được Chúa gọi, được thuật lại ở đầu chương 12 của sách Sáng thế. Nghe theo lời Chúa, ông đã lên đường: đức tin được ví như một cuộc hành trình hướng về nơi không biết, chấp nhận nếp sống bấp bênh trong lều, đang khi tiến về thành phố do Thiên Chúa xây cất. Biến cố thứ hai được đề cao là lòng tin vào lời hứa sẽ sinh con tuy dù tuổi đã cao; bà Sara cũng được nhắc đến trong câu chuyện thuật ở chương 18 sách Sáng thế. Cao điểm của đức tin được chứng tỏ khi ông sẵn sàng dâng hiến người con ấy, với lời chú giải về niềm tin vào kẻ chết sẽ sống lại. Tác giả cũng kể thêm chứng tích của các ông Isaac, Giacob, Giuse, nhưng xem ra chỉ muốn lưu ý đến việc truyền thông đức tin qua các thế hệ). Nhờ đức tin, lúc chào đời, ông Mô-sê đã được cha mẹ giấu đi ba tháng, bởi vì ông bà thấy đứa trẻ khôi ngô, và không sợ sắc chỉ nhà vua. 24 Nhờ đức tin, ông Mô-sê, khi lớn lên đã từ chối không chịu cho người ta gọi là con của công chúa Pha-raô; 25 ông thà cùng chịu ngược đãi với Dân Thiên Chúa còn hơn là được hưởng cái sung sướng chóng qua do tội lỗi mang lại; 26 ông coi sự ô nhục của người được xức dầu là của cải quý báu hơn các kho tàng của người Ai-cập, vì mắt ông vẫn đăm đăm 23

Cựu ước

27

nhìn phần thưởng mai sau. 27 Nhờ đức tin, ông bỏ Ai-cập mà không sợ cơn thịnh nộ của nhà vua; ông vững vàng không nao núng, như thể xem thấy Đấng vô hình. 28 Nhờ đức tin, ông đã cử hành lễ Vượt Qua và rảy máu để Thần tiêu diệt khỏi đụng đến các con đầu lòng. 29 Nhờ đức tin, người Do-thái đã băng qua Biển Đỏ như đi trên đất khô, còn người Ai-cập lại bị chết chìm trong khi tìm cách rượt theo. Nhờ đức tin, tường thành Giê-ri-khô đã sụp đổ, sau khi dân Ít-ra-en đi vòng quanh trong bảy ngày. 31 Nhờ đức tin, cô kỹ nữ Ra-kháp đã không phải chết cùng với quân phản nghịch, vì cô đã hoà nhã tiếp đón những người do thám. 30

(Đoạn thứ ba chuyển sang giai đoạn Xuất hành. Tác giả đề cao đức tin của ông Môsê: đức tin chấp nhận hy sinh, đức tin dám thực hiện những sự việc vượt quá sự tính toán của loài người. Cách riêng, khi kể lại việc dân Chúa vào đất hứa, tác giả ca ngợi đức tin của bà Rahap, một điều được thêm vào câu chuyện trong sách Giosuê, chương 6. Nên ghi nhận là bà này không những là kỹ nữ mà còn là dân ngoại, chứ không phải là thành phần của Israel.) Tôi còn phải nói gì nữa đây? Tôi sợ không có đủ thời giờ để kể truyện các ông Ghít-ôn, Ba-rắc, Sam-sôn, Gíp-tác, Đa-vít, Sa-mu-en và các ngôn sứ. 33 Nhờ đức tin, các vị này đã chinh phục các nước, thực hành công lý, đạt được những gì Thiên Chúa đã hứa; các ngài đã khoá miệng sư tử, 34 dập tắt lửa hồng mãnh liệt, thoát khỏi lưỡi gươm. Các ngài đã lướt thắng bệnh tật mà trở nên mạnh mẽ, đã tỏ ra dũng cảm tại chiến trường, và đẩy lui được quân ngoại xâm. 35 Có những phụ nữ đã thấy thân nhân mình chết nay sống lại. Có những người bị tra tấn mà không muốn được giải thoát, để được hưởng một sự sống lại tốt đẹp hơn. 36 Có những người phải chịu nhạo cười và roi vọt, hơn nữa còn bị xiềng xích và bỏ tù; 37 họ bị ném đá, bị cưa đôi, bị 32

28

Thần Học Đức Tin

chết vì gươm; họ phải lưu lạc, mặc áo da cừu da dê, chịu thiếu thốn, bị áp bức và hành hạ. 38 Thế gian chẳng xứng với họ! Họ đi lang thang trong hoang địa, trên núi đồi, trong hang hốc và hầm hố. 39 Nhờ đức tin, tất cả các nhân vật đó đã được chứng giám, thế mà họ không đạt được những điều Thiên Chúa đã hứa. 40 Quả thật, Thiên Chúa đã trù liệu cho chúng ta một phần phúc tốt hơn, nên không muốn cho họ đạt tới hạnh phúc trọn vẹn mà không có chúng ta. Trong đoạn cuối cùng, tác giả lướt qua các chứng nhân đức tin thuộc về các thời đại khác nhau: Ghít-ôn (Geđêon: Tl 6-8), Ba-rắc (Tl 4-5), Sam-sôn (Tl 13), Gíp-tác (Giépthê: Tl 10-12) là những thủ lãnh. Kế đến là vua Đavít, ông Samuel, các ngôn sứ. Tuy không nói đích danh ngôn sứ nào cụ thể, nhưng có lẽ câu 33 nhắc đến Đaniel (ở trong hang sư tử), câu 36 nhắc đến ông Giêrêmia kẻ bị ngược đãi và ngồi tù (Gr 20,1-9) và câu 39 xem ra muốn nói ông Êlia lang thang trên núi đồi (1V 19). Ngoài ra, phần lớn những người chịu bách hại vì đức tin sống vào thời Macabê. Những người nói trên đây (trong đó có nhiều kẻ vô danh) họp thành “đám mây nhân chứng” (Hr 12,1). Tuy sống vào những thời buổi khác nhau, nhưng tất cả đều làm chứng cho đức tin của một dân tộc, những người đặt niềm tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng có thể thực hiện những điều quá lòng trông mong của chúng ta. Sau cái nhìn tổng quát về những chứng nhân đức tin trong Cựu ước, chúng ta hãy khảo sát chi tiết của vài nhân vật hoặc giai đoạn nổi bật: 1/ Ông Abraham. 2/ Thời Xuất hành, với nhiều

Cựu ước

29

ánh sáng và bóng tối, mà nhân vật chủ chốt là ông Môsê. 3/ Các ngôn sứ. 4/ Hướng đến tương lai: đoàn dân đức tin.3 I. Abraham Abraham được ba tôn giáo độc thần (Israel, Kitô giáo, Islam) nhìn nhận như là tổ phụ bởi vì không những ông là mẫu mực cho đức tin mà ông còn sinh một đoàn hậu duệ đông đúc nhờ phúc lành mà Thiên Chúa ban qua ông. Cuộc đời của ông được kể lại trong sách Sáng thế từ chương 12 đến chương 25. Ông được nhắc đến nhiều lần trong Tân ước, ở các sách Tin mừng cũng như các thư của thánh Phaolô. Theo các nhà chú giải Kinh thánh, cuộc đời của ông Abraham đã được nhiều thế hệ suy đi nghĩ lại, và mỗi thời thêm vài chi tiết mới như là bài học hiện thực cho cộng đoàn. A. Hành trình đức tin Bản văn của sách Sáng thế chịu ảnh hưởng của ba luồng tư tưởng thuộc nhiều thời đại khác nhau: luồng J (giavista) giới thiệu ông như là một người bạn hữu của Thiên Chúa; nguồn E (elohim) xem ông như là con người công chính; còn nguồn P (tư tế) nhìn ông như là con người liên đới với đồng bào.4 Trong Tân ước, thánh Phaolô đan cử Abraham để thuyết minh cho luận đề về con người được nên công chính nhờ đức tin. Ở đây chúng ta đặc biệt chú trọng đến bốn chương 12; 15; 17; 22 nói về đức tin của ông, và bỏ qua những đoạn khác không kém phần hấp dẫn, tựa như khi ông can thiệp cho dân thành Sôđôma.

Mario Cimosa, “Abramo e la fede del popolo di Israele”, in: AA.VV Come vivere il cammino di fede con Maria, Centro di Cultura Mariana, Roma 1990. 3

Xc. B. Marconcini, “Abramo, un uomo che si fida di Dio”, in: M.CimosaF. Mosetto (a cura di) Un Dio che libera, Torino 1982, pp. 67-77. 4

30

Thần Học Đức Tin

1. Chương 12 Chương này mở đầu sự tích về ông Abraham, và trình bày thái độ căn bản của đức tin. Thiên Chúa đòi hỏi ông phải từ bỏ tất cả những gì thân yêu nhất: quê hương, bà con thân thuộc, để đến miền đất mà Ngài sẽ chỉ. Ông Abraham không thưa “xin vâng”, nhưng ông trả lời qua hành động cụ thể: ông đã ra đi như lời Chúa bảo (St 12, 4). Tin là thế đó: tin là lắng nghe tiếng Chúa, và làm theo ý Chúa. Tin là tuân hành những đòi hỏi của Chúa, và để cho Ngài dẫn dắt, ngày qua ngày. Thái độ của ông diễn tả ý nghĩa của từ aman trong tiếng Do thái: nương tựa vào Thiên Chúa bởi vì ngài là đấng vững bền; tin tưởng vào Thiên Chúa vì ngài là đấng trung tín. 2. Chương 15 Thiên Chúa tự ràng buộc với ông Abraham bằng một lời thề. Qua một nghi thức trang trọng, Ngài đã kết ước với ông như thế này: “Ta hứa sẽ cho ngươi và con cháu ngươi thửa đất này trải dài từ sông Ai cập cho đến sông Cả, tức là sông Euphrat” (15,18). Trước đó, Thiên Chúa đã hứa rằng dòng dõi của ông sẽ đông đảo như sao trên trời” (15,5). Cả hai lời hứa nhắm đến tương lai, một tương lai xa vời. Trên thực tế, ông Abraham đã cao niên, bà vợ thì son sẻ, và hiện tại hai ông bà không có đứa con nào hết. Làm thế nào mà ông trở thành tổ tiên của một đoàn dân đông đảo? Thế nhưng, tác giả Sách thánh kể lại rằng: “ông Abraham tin Đức Chúa, và điều ấy Ngài kể cho ông là sự công chính” (15,6). Dịch sát nguyên văn là: “ông tin tưởng vào Đức Chúa, và vì thế Ngài chứng thực cho ông là kẻ công chính”. Thái độ chính đáng của con người trước mặt Thiên Chúa là tin tưởng vào Ngài. Tin là chấp nhận lời Chúa và phó thác tất cả cho Ngài. Trước một lời hứa không có dấu hiệu gì cụ thể, ông Abraham vẫn cứ tin tưởng vào Chúa. Một lần nữa, tin bao hàm việc trao phó cuộc đời mình,

Cựu ước

31

để cho Chúa dẫn dắt, vì biết rằng Ngài là kẻ “đáng tin cậy”. Nói gì thì nói, ông biết rằng chỉ có Chúa mới có thể cứu được mình. Câu văn 15,6 của sách Sáng thế sẽ được thánh Phaolô trích dẫn nhiều lần trong thư gửi Rôma (4,3.9.13) và thư gửi Galát (3,6). 3. Chương 17 Chương này thuộc về một nguồn khác (được đặt tên là nguồn tư tế). Đặc trưng của chương này là việc Thiên Chúa đổi tên cho ông, từ Abram trở thành Abraham, bởi vì Ab-ram có nghĩa là “cha cao cả” (hiểu về Thiên Chúa là cha), còn Abraham là “cha của đám đông”. Việc cải danh xác định một lần nữa lời hứa mà Chúa dành cho ông là sẽ được một dòng dõi đông đúc. Đây là lần thứ bốn (xc. 12,2; 13,16; 15,5), và lần này mang một thể thức trang trọng đặc biệt. Chúa phán: “Ta là Thiên Chúa toàn năng; ngươi hãy đi trước mặt Ta và hãy sống hoàn hảo. Ta sẽ đặt giao ước của Ta giữa Ta với ngươi, và Ta sẽ cho ngươi trở nên đông, thật đông” (17,1-2). Phản ứng của ông Abraham được ghi lại như thế này: “ông cúi rạp xuống” (câu 3). Có một bước tiến mới trong quan niệm về tin. Trước đây, tin được hiểu như là bỏ miền đất này để đến miền đất khác; bây giờ, tin nhằm đến tương quan trực tiếp với Thiên Chúa. Tin là đi trước mặt Chúa và sống hoàn hảo, nghĩa là thuộc về Chúa, không còn dè dặt gì nữa. 4. Chương 22 Đoạn văn này kể lại ông Abraham hiến tế con của mình. Ý nghĩa của hành vi này được nói ở đầu chương: “Sau đó một thời gian, Thiên Chúa thử lòng ông Abraham”. Thiên Chúa thử thách ông bằng cách yêu cầu ông khước từ tương lai của mình, và trả lại cho Chúa điều mà Chúa đã ban cho ông. Đối với ông, Isaac là sự thành hình của những gì mà Chúa hứa sẽ ban cho ông. Giờ đây Chúa đòi ông phải từ bỏ luôn cả niềm trông đợi mà từ đầu

32

Thần Học Đức Tin

cho đến lúc này là nền tảng cho đức tin của ông: ông đã tin tưởng vào lời Chúa hứa; bây giờ ông được yêu cầu bỏ luôn cả niềm tin ấy. Như vậy, sự hy sinh của ông không chỉ nằm trên bình diện tình cảm con người (một người cha phải hy sinh đứa con của mình), nhưng là trên bình diện đức tin (không còn gì để bám nữa). Cuộc thử thách mà ông phải đương đầu nằm ở chỗ ra như Chúa đã tự mâu thuẫn: chính Chúa phá hủy công việc của Chúa! Nói cách khác, ông cảm thấy bị Chúa bỏ rơi. Tuy nhiên, ông Abraham vẫn cứ tuân theo lệnh của Chúa, sẵn sàng sát tế con của mình. Ông thinh lặng lên đường đến nơi mà Thiên Chúa chỉ cho ông. Chính ở điểm này mà đức tin của ông trở thành gương mẫu. Tin Chúa có nghĩa là gắn bó với Chúa, chứ không phải bám vào những cái gì ngoài Chúa. Thiết tưởng đó là điều mà thánh Phaolô muốn nói qua nhận định: ông Abraham được nên công chính nhờ đức tin chứ không nhờ công trạng (Rm 4,1-3). B. Tin tưởng và nghi vấn Câu chuyện của ông Abraham khá dài và gồm nhiều chi tiết. Chúng ta chỉ chọn lọc vài đoạn liên quan đến đức tin nhằm cho thấy sự tăng trưởng của ông trong việc gắn bó với Thiên Chúa. Qua những đoạn văn vừa kể, chúng ta có thể nhận ra vì sao ông đáng được tuyên dương là “tổ phụ của những kẻ có lòng tin”. Tuy nhiên, sau khi đã đọc đi, bây giờ chúng ta hãy đọc lại. Ông Abraham không phải là một con người đanh thép, răm rắp tuân theo lệnh Chúa như cái máy. Thật vậy, những đoạn văn trên đây chỉ cho thấy hồi kết và đã bỏ qua những chuyện ở dọc đường. Kinh thánh không che giấu những tâm tình rất tự nhiên của con người đứng trước lời hứa của Thiên Chúa, đặc biệt khi lời hứa ấy xem ra không tưởng.

Cựu ước

33

Như đã biết, mở đầu chương 12, là lời hứa của Thiên Chúa quy về hai điểm: Ngài hứa ban một miền đất và một hậu duệ. Ông đã lên đường, cùng với bà vợ và đứa cháu. Dĩ nhiên, cuộc phiêu lưu về nơi vô định không phải là chuyện dễ dàng. Vì thế chúng ta nên ghi nhận công trạng của ông. Tuy ông có thể kiên nhẫn chờ đợi miền đất sẽ tới, nhưng ông cảm thấy sốt ruột đối với việc có hậu duệ. Ở chương 15, khi Chúa hiện ra và lặp lại lời hứa, thì ông đã đặt câu hỏi: “Lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, Ngài sẽ ban cho con cái gì? Con ra đi mà vô hậu? Và đứa con lo việc hương hỏa của gia đình con sẽ là Eliezer?” (câu 2). Ông Abraham lo lắng vì mình không có con, và gia tài sẽ chuyển sang tay của một gia nhân. Vài hàng sau đó, sau khi nghe lặp lại lời hứa sẽ được vùng đất làm sở hữu, ông thưa với Chúa: “Lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, làm sao con biết là con sẽ được sở hữu đất này?” (câu 8). Đến đây, Chúa cũng chiều lòng ông, khi long trọng kết ước với ông theo thủ tục thời đó. Người ta lấy một con vật, xẻ nó ra làm đôi, và trải ra giữa đất hoặc treo lên hai cái cột. Những người kết ước đi ngang ở giữa và đọc lời thề: “Nếu tôi không trung thành với lời hứa thì tôi sẽ bị phanh thây giống như con vật này”. Khác một điều là ở đây, chỉ có Chúa đi ngang qua giữa con vật mà thôi, bởi vì đây là một lời hứa đơn phương chứ không phải song phương. Chỉ có Chúa cam kết, còn ông Abraham chỉ được yêu cầu là hãy tín thác vào Ngài. Ông đã tin, và ông được Chúa coi là công chính (St 15,6), nghĩa là ông đã cư xử đúng như Chúa muốn. Tuy nhiên, sau mười năm chờ đợi mà vẫn chưa có con, bà Sara là vợ ông đã tìm cách giải quyết vấn đề cách khác. Bà cho phép ông ăn nằm với một nữ tì tên là Haga, và một đứa con đã được sinh ra và được đặt tên là Ismael. Lúc ấy ông Abraham đã được tám mươi sáu tuổi (Chương 16). Thế nhưng sang chương

34

Thần Học Đức Tin

17, độc giả được biết rằng Ismael không phải là đứa con mà Chúa hứa, bởi vì Chúa vẫn tiếp tục hứa sẽ ban cho một con trai do bà Sara. Lúc ấy, ông đã được một trăm tuổi và bà được chín mươi. Hai ông bà đều cười khi nghe tin báo (17,17; 18,12.13.15). Phải chăng đây là cái cười vì vui sướng, hay là cái cười của hoài nghi? Dù sao, trong bối cảnh này, Chúa đã lập giao ước với ông, qua việc đổi tên ông và đòi ông phải giữ luật cắt bì. Người con của lời hứa tên là Isaac. Thế rồi vào một ngày, ông được yêu cầu hãy sát tế Isaac (chương 22). Ông đã vâng lời, chứ không đặt câu hỏi. Nhưng đến khi vào việc, thì ông lại phải trả lời câu hỏi của Isaac: “Có lửa, có củi đây, còn chiên dê để làm lễ toàn thiêu đâu?” (St 22,8). Ông phải tìm câu trả lời, bởi vì lúc này Chúa đã rút lui. Như vậy, hành trình đức tin của ông Abraham không trơn tru. Ông tin vào Chúa, nhưng điều này không có nghĩa là ông không gặp những nghi nan, phân vân. Ông không phải là một anh hùng tráng sĩ, không hề gặp nao núng. Điều quan trọng là ông đã vượt qua những cuộc thử thách ấy, và gắn bó chặt chẽ với Chúa hơn. Câu chuyện của ông Abraham cũng là câu chuyện của tất cả mọi tín hữu. Ông Abraham nêu gương cho chúng ta về việc tín thác tuyệt đối vào Thiên Chúa, nhưng đồng thời ông cũng cho ta thấy rằng đức tin cần được thanh luyện liên lỉ, ngõ hầu chỉ gắn bó vào Chúa, kể cả vào lúc xem ra Chúa im hơi lặng tiếng. Nhưng có lẽ hơn thế nữa, sự thanh luyện này giúp cho ông khám phá ra Thiên Chúa thật, chứ không phải Thiên Chúa theo hình ảnh mà mình nặn ra. Điều này sẽ rõ rệt hơn nữa trong các mẫu gương mà chúng ta sẽ học trong các chặng kế tiếp. II. Thời Xuất hành Cuộc xuất hành đánh dấu một cuộc can thiệp đặc biệt của Thiên Chúa vào lịch sử của dân tộc Israel. Biến cố này trở nên

Cựu ước

35

trọng tâm của lời tuyên xưng đức tin, và được phụng vụ long trọng cử hành hằng năm. Nhìn dưới khía cạnh hành trình đức tin, chúng tôi muốn dừng lại ở hai điểm chính: thứ nhất, đức tin của ông Môsê; thứ hai, đức tin của dân Israel. Ông Môsê thường được trình bày như một ngôn sứ, một nhà lập pháp quyền uy, nhưng có lẽ ít khi được nhìn như một mẫu gương đức tin kèm theo những khó khăn của nó. Dù sao, ông Môsê trở thành môi giới để truyền thông ý định của Thiên Chúa cho dân Israel. Thiên Chúa mong đợi nơi dân tộc này sự đáp trả bằng đức tin; thế nhưng, trước những thử thách gian truân của cuộc lữ hành trên sa mạc, nhiều lần dân Israel đã lẩm bẩm kêu ca, và thậm chí đặt nghi vấn về quyền năng của Thiên Chúa. Thái độ bất khẳng của dân cũng trở thành một duyên cớ gây ra do dự nghi nan cho ông Môsê. Vì thế mặc dù chúng ta tách ra làm hai đề mục, nhưng thực sự đôi bên liên hệ với nhau. Trước hết, chúng ta hãy bắt đầu với ông Môsê. A. Đức tin của ông Môsê Thánh Phaolô đã nhiều lần ca ngợi đức tin của ông Abraham, chứ không đả động đến đức tin của ông Môsê. Ông Môsê thường được đồng hóa với lề luật Cựu ước, đối lập với thời ân sủng của Đức Kitô, như thánh Gioan đã viết: “Lề luật được Thiên Chúa ban cho ông Môsê, còn ân sủng và chân lý thì nhờ Đức Giêsu Kitô mà có” (Ga 1,17). Thánh Mátthêu ra như muốn trình bày Đức Giêsu như là đấng kiện toàn luật Môsê, còn thánh Phaolô có khuynh hướng coi Đức Giêsu hủy bỏ luật Môsê (xc. Galát chương 3). Tuy nhiên, nếu đi sâu vào các bản văn Kinh thánh, chúng ta thấy rằng trước khi là một nhà lãnh đạo và lập pháp cho dân Israel, ông Môsê là một con người của đức tin, với một đức tin gương mẫu không thua gì ông Abraham. Thật vậy, trong chương

36

Thần Học Đức Tin

11 của bức thư gửi Hípri, tác giả đã dành 12 câu (câu 8 đến câu 19) để ca ngợi ông Abraham và 7 câu (câu 23 đến câu 29) để ca ngợi ông Môsê (với 5 lần tuyên dương “nhờ đức tin”). Những dòng vắn tắt đã được quảng diễn thêm trong bài diễn từ của thánh Stêphanô được ghi lại ở chương 7 sách Công vụ Tông đồ (câu 20-44). Dựa theo những bản văn ấy, chúng ta hãy theo dõi hành trình đức tin của ông Môsê, dưới khía cạnh tích cực cũng như khía cạnh tiêu cực. Thời gian 40 năm ông Môsê dẫn dắt dân Israel trên sa mạc đã quá quen thuộc với chúng ta. Nhưng theo thánh Stêphanô trong sách Công vụ Tông đồ, con số 40 còn đánh dấu những chặng khác trong cuộc đời của ông: 40 năm đầu đời sống bên Ai cập (Cv 7,23), rồi 40 năm lưu vong ở Mađian cho đến khi được Chúa gọi (câu 30), cộng thêm 40 năm trong sa mạc (câu 36.42). Có lẽ đó chỉ là những dữ kiện truyền khẩu.5 Điều đáng nói hơn nữa là tác giả thư Hípri ca ngợi đức tin của ông ngay cả trước khi ông mở mắt chào đời (Hr 11,23). Đúng ra, đây là lời ca ngợi song thân của ông vì họ đã hợp tác với chương trình của Thiên Chúa bất chấp lệnh của vua Pharaô buộc phải sát hại tất cả các nam nhi (Xh 6,20). Hình như một cách gián tiếp, tác giả muốn nói rằng ông Môsê đã được thừa hưởng đức tin nhờ cha mẹ truyền lại. Xét về bản thân ông, tác giả thư Hípri bắt đầu lịch sử đức tin của ông kể từ khi ông rời bỏ cung điện của vua Pharaô, sau khi đã bênh vực một người đồng bào của mình chống lại sự bóc lột của người Ai cập: “Nhờ đức tin, ông Môsê, khi lớn lên đã từ chối không chịu cho người ta gọi là con của công chúa Pharaô; ông thà cùng chịu ngược đãi với Dân Thiên Chúa còn hơn là được hưởng cái sung sướng chóng qua do tội lỗi mang lại; ông coi sự 5

Nói chung, người ta cho rằng ông Môsê sống vào thế kỷ XIII tCN.

Cựu ước

37

ô nhục của người được xức dầu là của cải quý báu hơn các kho tàng của người Ai cập, vì mắt ông vẫn đăm đăm nhìn phần thưởng mai sau. Nhờ đức tin, ông bỏ Ai cập mà không sợ cơn thịnh nộ của nhà vua; ông vững vàng không nao núng, như thể xem Đấng vô hình” (Hr 11,24-27). Dù sao, đó mới chỉ là những bước chuẩn bị. Cuộc hành trình đức tin của ông thực sự bắt đầu kể từ khi ông được lãnh nhận một sứ mạng là đưa dân Israel ra khỏi Ai cập và tiến vào đất hứa. Từ đây bắt đầu một cuộc giằng co liên miên giữa ông với Thiên Chúa: ông được Chúa đặt làm ngôn sứ để truyền đạt ý của ngài cho nhân dân, nhưng ông luôn gặp phải những chống đối về phía nhân dân. Trước cảnh trên đe dưới búa, ông dễ chia sẻ nỗi lòng của nhân dân, còn Thiên Chúa mới thật là khó xử! 1. Chúng ta hãy bắt đầu với việc ông được Thiên Chúa kêu gọi để ủy thác một sứ mạng, (được kể lại ở chương 3 của sách Xuất hành): ông phải đi vào triều đình Pharaô và bảo vua hãy để cho dân ra đi. Phản ứng tự phát của ông là thoái thác với 5 nghi vấn được đặt ra: a) Lý do thứ nhất: con chẳng là gì hết. “Con là ai mà dám đến gặp Pharaô và đòi đưa con cái Israel ra khỏi Ai cập?” (3,11) b) Lý do thứ hai: con chẳng biết ất giáp chi cả, con không biết danh tánh của Đấng đã sai con như thế nào (3,13). c) Lý do thứ ba: “Thiên hạ chẳng chịu nghe con đâu” (4,1). d) Lý do thứ bốn: “Con không phải là người biết ăn biết nói, vì con cứng miệng cứng lưỡi” (4,10). e) Lý do cuối cùng: Lạy Chúa, xin xá lỗi cho con, xin Ngài sai ai khác thì sai” (Xh 4,13).

38

Thần Học Đức Tin

Thiên Chúa đã kiên nhẫn trả lời từng vấn nạn để thuyết phục ông, kể cả làm dấu lạ để củng cố lời nói. 2. Bước kế tiếp là sự can thiệp với vua Pharaô. Quả đúng như đã dự đoán, vua Pharaô đâu chịu nghe lời ông Môsê và ông Aharon. Vua lại còn tăng gia công tác lao động cho dân Israel để họ không còn thời giờ để nghĩ đến chuyện đi thờ lạy Thiên Chúa nữa. Điều đáng buồn là chính nhân dân lại than trách ông Môsê: “Xin Đức Chúa nhìn xuống các ông mà xét xử! Các ông đã làm cho tiếng tăm chúng tôi trở nên xấu xa trước mắt Pharaô và bề tôi của vua: các ông đã trao gươm vào tay họ để giết chúng tôi!”. Ông Môsê chỉ còn nước là kêu trời: “Lạy Ngài, tại sao Ngài đã làm khổ dân này? Tại sao Ngài đã sai con đi thế này? Từ khi con đến với Pharaô để nhân danh Ngài mà nói, thì vua ấy làm khổ dân này, và Ngài chẳng chịu giải thoát dân của Ngài!” (Xh 5,2123). 3. Chặng thứ ba là chính lúc rời bỏ Ai cập. Khi đối diện với Biển Đỏ, ông không biết xoay sở thế nào. Dân Israel đứng giữa hai cửa chết: một bên là biển, lội qua cũng chết; bên kia là nguy cơ sẽ bị đội quân Ai cập tàn sát. Sách Xuất hành ở chương 14 đã thuật lại cho chúng ta nhiều chi tiết liên quan đến biến cố này. Dân Israel không ngừng nhắc lại công trình mà Thiên Chúa đã thực hiện như dấu chỉ của lòng Chúa tín trung, chẳng hạn trong thánh vịnh 136. Tuy nhiên, ai đã từng sống trong cuộc mới biết những giây phút căng thẳng. Khi thấy quân Ai cập tới gần, dân nói với ông Môsê: “Bên Ai cập không có mồ chôn hay sao, mà ông lại đưa chúng tôi vào chết trong sa mạc? Ông làm gì chúng tôi vậy, khi ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai cập? Đó chẳng phải là điều chúng tôi đã từng nói với ông bên Ai cập sao? Chúng tôi đã bảo: cứ để mặc chúng tôi làm nô lệ Ai cập! Thà làm nô lệ Ai cập còn hơn chết trong sa mạc” (câu 11). Trong tình hình căng thẳng như vậy, ông đã tìm cách trấn an họ: “Đừng sợ! Cứ đứng vững

Cựu ước

39

và xem việc Đức Chúa thực hiện hôm nay để cứu thoát anh em: những người Ai cập anh em thấy hôm nay không bao giờ anh em thấy lại họ nữa. Đức Chúa sẽ chiến đấu cho anh em. Còn anh em, cứ ở yên” (câu 13). Thử hỏi, những lời trấn an này có hiệu lực gì không? Ai phải vận dụng đức tin nhiều hơn: dân Israel cần tin ông Môsê, hay là ông Môsê cần tin vào Chúa? 4. Vượt qua Biển Đỏ, ai nấy tưởng rằng từ nay mọi sự sẽ êm thắm, nào ngờ đây chỉ là khởi đầu của một cuộc phiêu lưu đầy gian nan thử thách. Những sự chống đối kêu trách của dân Israel trước khi ra đi lại tái diễn, khi khát nước (Xh 15,23-24; 17,2-3; Ds 20,2-5), khi đói (Xh 16,2-3; Ds 11,4-6), khi gặp kẻ thù (Ds 14,2-3). Tuy là dân chống đối Thiên Chúa, nhưng kẻ hứng mũi chịu sào là ông Môsê. Nhiều lần dân tức tối đòi ném đá ông. Đối lại, cũng không thiếu lần ông bực tức họ. Nhưng sau cùng, ông lại đến than thở với Chúa, khi thì bầu cử cho dân, khi thì xin từ nhiệm. Khi dân đòi nước uống mà không có, ông Môsê kêu lên cùng Chúa: “Con phải làm gì cho dân này đây? Chỉ còn chút nữa là họ ném đá con!” (Xh 17,4). Chúa bảo ông dùng cây gậy đập vào tảng đá trên núi Khorép, từ tảng đá, nước sẽ chảy ra cho dân uống. Tuy nhiên, khi thuật lại sự kiện này, sách Dân số thêm một chi tiết thật bi đát. Ông Môsê và ông Aharon triệu tập đại hội trước tảng đá; ông Môsê nói với họ: Nghe đây, hỡi quân phản nghịch! Từ tảng đá này, chúng tôi có thể làm cho nước chảy ra cho các người được không? Ông Môsê giơ tay, dùng cây gậy đập vào tảng đá hai lần; nước trào ra lai láng cho cộng đồng và súc vật uống. Bấy giờ Đức Chúa phán với ông Môsê và ông Aharon: “Bởi vì các ngươi đã không tin vào Ta để biểu dương sự thánh thiện của Ta trước mắt con cái Israel, nên các ngươi sẽ

40

Thần Học Đức Tin không được đưa đại hội này vào đất Ta hứa ban cho chúng” (Ds 20,10-12).

Thật là khó hiểu: tại sao ông Môsê lại bị trách là “không tin” trong trường hợp này? Tuy vậy, ông không tỏ ra bực bội với dân, nhưng ngược lại, ông còn chuyển cầu cho họ. Thật vậy, Sách thánh đã nhiều lần kể lại vai trò chuyển cầu của ông.6 Ông chuyển cầu cho dân khi họ giao tranh với người Amalech (Xh 17,11), nhất là chuyển cầu cho dân để xin Chúa đừng nổi giận với họ vì đã phạm tội, chẳng hạn khi họ ca thán trước những cảnh thiếu thốn (thiếu bánh, thiếu nước, thiếu thịt: Ds 11,2; 21,7), hoặc tệ hơn nữa, họ đã tạc tượng bò vàng để thờ lạy (Xh 32,11). Đành rằng có lúc chán nản, ông đã xin Chúa cất ông đi khỏi mặt đất (Ds 11,14-15), nhưng khi tình hình trở nên đen tối, ông tình nguyện chết cùng với dân, còn hơn là sống sót để lãnh đạo một dân mới (Xh 32,9-10). Đến đây chúng ta cần phải khâm phục đức tin của ông Môsê. Ông đã trung thành với sứ mạng của mình: ông trung thành với Thiên Chúa và ông cũng trung thành với những người mà ông được sai đến để phục vụ, Không lạ gì mà ông được ca ngợi như là một “tôi tớ rất trung thành” (Ds 12,7), một người bạn hữu có thể nói chuyện mặt giáp mặt với Thiên Chúa (Xh 33,11). Truyền thống Do thái giáo và Kitô giáo không thiếu lần đã lấy ông làm mẫu gương cho tiến trình huyền bí, với những giai đoạn thanh luyện tối tăm.7 Các nguồn khác nhau của Ngũ Thư đưa ra những lý do giải thích khác nhau liên quan đến việc ông Môsê không

6

Xh 5,22-23; 32,11-14.30-32; Ds 11,2; 14,13-19; 16,22; 21,7; Đnl 9-25-29.

Chẳng hạn, thánh Grêgoriô Nyssa, Cuộc đời ông Môsê, (De vita Moysis: PG 44,428), xc. Đời sống tâm linh, tập V, trang 137-138. 7

Cựu ước

41

được vào đất hứa.8 Dù sao đi nữa, ông được Cựu ước và Tân ước nhìn nhận như là ngôn sứ vĩ đại nhất của Israel (Đnl 12,6; 34,10) B. Đức tin của dân Israel Trên đây chúng ta đã theo dõi đức tin của ông Môsê, quan sát tương quan của ông đối với Thiên Chúa. Bây giờ chúng ta tìm hiểu đức tin của dân Israel. Phần nào, khi nhìn lại cuộc đời của ông Môsê, chúng ta đã chứng nghiệm tội “cứng đầu cứng cổ” của họ, một thuật ngữ được nói đi nói lại nhiều lần trong Cựu ước,9 và được thánh Stêphanô lặp lại trước phiên họp của Thượng hội đồng (Cv 7,51). 1. Thái độ “không tin” Một thuật ngữ khác liên hệ trực tiếp đến đề tài đang bàn là “không tin”. Chúng ta đừng nghĩ rằng dân Israel chối Chúa, bỏ đạo, hay trở thành “vô thần”. Không phải thế, vấn đề là họ không tin rằng Thiên Chúa có thể làm được điều đã hứa. Chuyện này đã xảy ra khi còn ở Ai cập, khi ông Môsê loan báo rằng Thiên Chúa của các tổ phụ sẽ đến giải thoát họ. Thái độ này lại càng tăng thêm khi áp lực người Ai cập đè nặng lên họ, và đến mức tột độ khi chạm đến Biển Đỏ. Dù sao, thái độ “không tin” bị các ngôn sứ vạch ra cách đặc biệt trong thời gian ở trên sa mạc10. Họ đã nhiều lần lẩm bẩm kêu trách Thiên Chúa trước những thiếu Ds 20,12 giải thích là tại ông Môsê đã thiếu tin tưởng một cách công khai; Tv 106,32 cho rằng ông cùng chia sẻ một tội cùng với nhân dân. 8

9

Xh 32,9; 33,3; Đnl 9,13; Gr 7,26; Is 48,4.

Tội thờ ngẫu tượng không chỉ xảy ra một lần khi tạc bò vàng trên sa mạc (Xh chương 32) nhưng còn tái diễn nhiều lần trong lịch sử, chẳng hạn như thời vua Giêrôboam (1V 12,26-33) và các vua khác (2V 17,35-41). Có người nhận xét rằng khi kể lại ba cơn cám dỗ của Chúa Giêsu trên sa mạc, thánh Mátthêu (4,2-10) đã lấy lại thứ tự những cơn cám dỗ của dân Israel: Xh chương 16, 17, 32. 10

42

Thần Học Đức Tin

thốn. Điều này cũng dễ hiểu thôi. Tuy nhiên, tội mà họ bị khiển trách hơn cả là sự ngờ vực quyền năng của Thiên Chúa: họ không tin rằng Thiên Chúa có thể thực hiện được kế hoạch của ngài (Ds 14,11). Sách Dân số ra như đã được viết ra để ghi lại những cuộc thử thách đức tin của dân Israel, đặc biệt từ chương 11. Thái độ bất tín đạt đến cao độ khi họ khước từ đất mà Chúa hứa và muốn trở về Ai cập (chương 14). Họ nổi loạn (Tv 106-16-18), và coi Chúa như là kẻ tàn sát dân: Ngài đưa họ lên sa mạc để giết họ, chứ không phải để họ được hạnh phúc (Ds 14,3; 21,5). Sự nghi ngờ này cũng giống như bà Evà xưa kia: bà chiều theo lời dụ dỗ của con rắn hơn là lời của Chúa. Ra như hình phạt con rắn hổ lửa ở đây muốn nhắc nhớ điều đó (Ds 21,6-9). Thế nhưng, chính trong bối cảnh ấy mà ông Môsê có trách nhiệm phải giáo huấn họ. Ông được trao nhiệm vụ truyền đạt Lề luật của Chúa cho họ. 2. Chiều kích mới của đức tin: tin là chấp nhận giao ước Chúng ta nên ghi nhận một bước tiến triển trong quan điểm về đức tin kể từ biến cố xuất hành. Trước đây, vào thời các tổ phụ, ra như mối tương quan đức tin chỉ được nhìn trên bình diện cá nhân, nghĩa là giữa Thiên Chúa với ông Abraham, và sau đó là các ông Isaac, Giacob, Giuse. Từ giai đoạn xuất hành trở đi, tương quan đức tin diễn ra giữa Thiên Chúa với một cộng đồng. Chủ thể đức tin là dân Israel: tin có nghĩa là chấp nhận giao ước được Thiên Chúa thiết lập. Theo sách Xuất hành chương 19, việc thiết lập giao ước diễn ra trên núi Sinai, vào tháng thứ ba sau khi con cái Israel ra khỏi Ai cập. Nói đúng ra, cuộc xuất hành và việc ban bố giao ước trên núi Sinai chỉ là hai bộ mặt của một thực tại: Thiên Chúa tỏ mình ra như là một kẻ giải thoát dân Israel khỏi cảnh nô lệ. Một bên là cảnh nô lệ hữu hình của sự đàn áp bóc lột kinh tế xã hội; một

Cựu ước

43

bên là cảnh nô lệ vô hình của những đam mê dục vọng. Thiên Chúa muốn cho dân được tự do hoàn toàn. Sau khi đã cho Israel chứng kiến cuộc giải thoát thứ nhất, bây giờ Thiên Chúa muốn cho họ được cảm nghiệm cuộc giải thoát thứ hai. Điều này tùy thuộc vào sự lựa chọn tự do của họ: hoặc nghe lời của Chúa, hoặc bất tuân ý Chúa. Chúa gọi ông Môsê và phán: “Ngươi sẽ nói với nhà Giacob, sẽ thông báo cho con cái Israel thế này: Các ngươi đã thấy những gì Ta đã làm đối với Ai cập, và đã nâng các ngươi trên cánh chim bằng mà đem đến với Ta thế nào. Vậy giờ đây, nếu các ngươi thật sự nghe tiếng Ta và giữ giao ước của Ta, thì giữa hết mọi dân, các ngươi sẽ là sở hữu riêng của Ta, vì toàn cõi đất thuộc về Ta. Đối với Ta, các ngươi sẽ là một vương quốc tư tế, một dân tộc thánh. Đó là những lời ngươi sẽ nói với con cái Israel”. Ông Môsê về triệu tập các kỳ mục trong dân, trình bày trước mặt họ tất cả những lời Đức Chúa đã truyền cho ông. Toàn dân đồng thanh đáp lại, họ nói: “Mọi điều Đức Chúa phán bảo, chúng tôi xin làm theo”. Ông Môsê thuật lại với Đức Chúa những lời dân nói (Xh 19,3-8).

Qua đoạn văn này, chúng ta thấy rằng Thiên Chúa đòi hỏi dân Israel hãy vâng theo lời của Ngài. Cụ thể hơn nữa, nghe Chúa tức là “tin Chúa” (Đnl 9,23; Tv 106, 24-25). Vì vậy giao ước đòi hỏi đức tin (xc. Tv 78,37). Sự sống hay sự chết của Israel từ này tùy thuộc vào lòng trung thành với lời amen của đức tin (xc. Đnl 27,9-26). Thiên Chúa không muốn những lời cam kết trên mây trên gió. Ngài đã ban bố một bản tóm tắt những điều mà Israel phải thi hành qua “Mười Lời” (quen dịch là “mười điều răn”: Xh 20,1-

44

Thần Học Đức Tin

17).11 Bản văn mở đầu bằng lời tự giới thiệu như thế này: “Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, Đấng đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập, khỏi nô lệ” (câu 2). Ngài không tự xưng là Đấng Tự hữu hoặc Đấng Tạo hóa, nhưng là Đấng giải phóng dân. Ngài muốn ký kết giao ước với những con người tự do, chứ không phải với những người nô lệ. Qua “Mười Lời” này, Ngài tỏ cho họ con đường đạt tới tự do đích thực. 3. Cốt lõi của giao ước Người ta quen chia “Mười Lời” thành hai tấm bia: tấm bia thứ nhất gồm ba điều, bao hàm những nghĩa vụ đối với Thiên Chúa; tấm bia thứ hai gồm các điều còn lại, chi phối tương quan đối với tha nhân. Nói đúng ra, có mối liên hệ chặt chẽ giữa đôi bên. Niềm tin vào Thiên Chúa duy nhất loại trừ các thần tượng khác. Một khi con người tạo ra các ngẫu tượng thì không những xúc phạm đến Thiên Chúa mà còn tạo ra sự chia rẽ tranh chấp trong xã hội. Thật vậy, nhìn nhận một Thiên Chúa duy nhất có nghĩa là đặt Ngài làm trung tâm của cuộc đời, của xã hội. Tha nhân trở thành các anh em của cùng một cha. Ngược lại, khi thay thế Thiên Chúa bằng các thần tượng khác, thì sẽ gây ra những tranh chấp xâu xé, bởi vì nói cho cùng, ngẫu tượng chẳng qua chỉ là đặt cái tôi ích kỷ làm trung tâm của vũ trụ. Không ngờ, chính lúc mà ta tưởng mình làm bá chủ lại là lúc ta trở thành nô lệ của những đam mê, dục vọng. Như vậy, đức tin vào Thiên Chúa bao hàm cả những tương quan đối với tha nhân nữa. 4. Tuyên xưng đức tin Tin là vâng nghe lời Chúa. Sự vâng nghe được diễn tả qua hành động, chứ không chỉ trên môi miệng. Tuy vậy, Kinh thánh Tiếp theo “Mười Lời” là “Bộ luật giao ước” (Xh từ 20,22 đến 23,19), khai triển thêm những quy định chi tiết liên quan đến việc tế tự cũng như các tương quan xã hội. 11

Cựu ước

45

cũng cho ta thấy nhiều mẫu “tuyên xưng đức tin” của Israel dưới nhiều thể văn, có khi tự phát có khi thành công thức cố định. Nội dung của các bản tuyên xưng này không phải là những chân lý siêu hình về bản tính Thiên Chúa cho bằng tường thuật những kỳ công mà Thiên Chúa đã thực hiện cho dân tộc. Vì thế không thiếu lần những bản tuyên xưng mang giọng điệu chúc tụng tạ ơn. Chúng ta hãy trưng dẫn vài mẫu. “Bài ca tự phát” đầu tiên sau cuộc giải phóng được ghi lại ở chương 15 của sách Xuất hành (“Bấy giờ ông Môsê cùng với con cái Israel hát mừng Đức Chúa bài ca sau đây”12). Tuy nhiên lời lẽ của bài ca chắc chắn đã được viết đi viết lại nhiều lần theo dòng lịch sử; nhưng tiếp theo đó, Sách thánh ghi lại một bài ca ngắn gọn hơn của bà Myriam như thế này: “Hãy hát mừng Đức Chúa vì Người thật cao cả, kỵ binh cũng chiến mã, Người quăng xuống biển sâu” (Xh 15,21). Những biến cố của cuộc xuất hành sau này sẽ được nhắc nhở trong các thánh vịnh, khi thì để răn dạy (Tv 78; 106), lúc thì để tạ ơn (Tv 136: “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”, được đọc trong Phụng vụ Giờ kinh, Kinh Chiều thứ Hai tuần IV). Công thức ngắn hơn có thể tóm lại trong đoạn văn sau đây trích sách Đệ nhị luật (26,5-9): Ông tổ tôi là người Aram phiêu bạt, đã xuống Ai cập và trú ngụ tại đó cùng với một nhúm người; tại đó, người đã trở thành một dân tộc lớn, mạnh và đông. Người Ai cập đã ngược đãi, hành hạ chúng tôi và đặt ách nô lệ trên chúng tôi. Bấy giờ chúng tôi đã kêu lên cùng Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông chúng tôi; Đức Chúa đã nghe tiếng chúng tôi, Xh 15, 1-18, được trích lại một phần trong Phụng vụ Giờ kinh, Kinh Sáng thứ Bảy tuần I. 12

46

Thần Học Đức Tin đã thấy cảnh khổ cực, lầm than, áp bức chúng tôi phải chịu. Đức Chúa đã ra tay mạnh mẽ và giương cánh tay uy quyền, đã gây kinh hồn tán đởm và thực hiện những dấu lạ điềm thiêng, để đưa chúng tôi ra khỏi Ai cập. Người đã đưa chúng tôi đến đây, ban cho chúng tôi đất này, đất tuôn chảy sữa và mật. Và bây giờ, lạy Đức Chúa, này con xin dâng sản phẩm đầu mùa của đất đai mà Ngài đã ban cho chúng con.

Lời tuyên xưng vừa rồi được đọc trong nghi thức dâng của lễ đầu mùa. Một công thức khác được người Do thái đọc mỗi ngày ba lần là kinh “Hãy nghe đây” trích từ chương 6 sách Đệ nhị luật (câu 4-9): Nghe đây, hỡi Israel! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh, hết lòng hết dạ, hết sức anh. Những lời tôi truyền cho anh hôm nay, anh phải ghi tạc vào lòng. Anh phải lặp lại những lời ấy cho con cái, phải nói lại cho chúng, lúc ngồi trong nhà cũng như lúc đi đường, khi đi ngủ cũng như khi thức dậy, phải buộc những lời ấy vào tay làm dấu, mang trên trán làm phù hiệu, phải viết lên trên trụ cửa nhà anh, và lên cửa thành của anh.

Ông Môsê đã đặt những nền tảng cho đức tin của Israel: tin là trung thành với giao ước mà Chúa đã ký kết với dân, biểu hiệu của lòng ưu ái của Ngài. Liệu Israel có duy trì lòng trung thành ấy không? Thưa rằng: không. Đó là lý do hiện hữu của các ngôn sứ vào các giai đoạn tiếp theo. III. Đức tin của các ngôn sứ Trong khoa tôn giáo đối chiếu, một khuynh hướng khởi đầu với Nathan Soderblom (1866-1931) và Friedrich Heiler (18921967)13,chia các tôn giáo trên thế giới làm hai khối: tôn giáo 13

Xc. Đời sống tâm linh IV, trang 16

Cựu ước

47

huyền bí và tôn giáo ngôn sứ. Đối với tôn giáo “huyền bí”, (tiêu biểu nơi Ấn giáo), mối bận tâm chính yếu không phải là sự hiện hữu của Thiên Chúa cho bằng sự đau khổ của con người. Tôn giáo tìm cách giải thích: tại sao có đau khổ? Làm thế nào giải thoát khỏi đau khổ? Đối với các tôn giáo “ngôn sứ” (tiêu biểu là Israel), sự hiện hữu của Thượng đế là chân lý đệ nhất: Thiên Chúa là Đấng Tạo thành trời đất; con người là một thụ tạo. Thiên Chúa mạc khải ý định của ngài cho con người qua các “ngôn sứ”. Hạnh phúc của con người tùy thuộc vào việc tuân hành ý muốn của Thiên Chúa. Dĩ nhiên, không phải mọi người đều chấp nhận lối phân chia này, cách riêng khi đối lập hai khái niệm “huyền bí” với “ngôn sứ”, xét vì trên thực tế, một ngôn sứ đồng thời cũng có thể là một nhà huyền bí. Tuy vậy ý kiến ấy đã lưu ý rằng không phải tất cả các tôn giáo trên thế giới đều có một ý tưởng như nhau khi nói đến tôn giáo, ngay cả trong quan niệm về tương quan giữa Thiên Chúa và con người. Dù sao thì đối với Israel, các ngôn sứ giữ một vai trò rất quan trọng. Các ngôn sứ, kể từ ông Môsê trở đi, đã trở nên một “định chế” của Israel: họ là những sứ giả của Thiên Chúa ở giữa dân tộc, nhắc nhở dân hãy tuân giữ giao ước, cảnh cáo dân về những hậu quả của sự bất tuân, an ủi dân khi họ thất vọng. Đa số các ngôn sứ để lại các văn phẩm được nhìn nhận như là Sách thánh. Dựa theo tiêu chuẩn thời gian, các ngôn sứ thường được phân chia làm ba giai đoạn: trước lưu đày, thời lưu đày, sau lưu đày. - Trước lưu đày (thế kỷ VIII-VI): Amos, Hôsê, Isaia, Mica, Nakhum, Xôphônia, Giêrêmia, Khabacuc; - Thời lưu đày: Êdêkiel, Hậu Isaia; - Sau lưu đày: Khaggai, Zacaria, Malaki, Giona, Đaniel. Đôi khi trong các tác phẩm này, ta đọc thấy những đoạn “tự thuật”, qua đó ngôn sứ kể lại ơn gọi của mình, những khó khăn

48

Thần Học Đức Tin

và khủng hoảng của bản thân. Nói cách khác, các ngôn sứ không những được sai đến để củng cố niềm tin cho dân Israel, mà chính họ cũng phải chiến đấu để củng cố đức tin của mình. Câu chuyện đã xảy ra cho ông Môsê vẫn còn tiếp diễn nơi các ngôn sứ khác. Vì thế, khi nói đến “đức tin của các ngôn sứ”, chúng ta hãy phân tích hai khía cạnh: thứ nhất, đức tin của bản thân ngôn sứ; thứ hai, sứ mạng của ngôn sứ trong việc củng cố đức tin của dân Israel. A. Đức tin của các ngôn sứ Các ngôn sứ là những người được chọn để thi hành một sứ vụ rao giảng Lời Chúa (xc. Gr 1,9; 18.18). Họ không phải là những cái loa phóng thanh, nhưng họ nói lên điều mà họ đã cảm nhận. Nhiều ngôn sứ đã thuật lại nguồn gốc “ơn gọi” của mình (xc. Am 7,14-15; Is 6,1-13; 40,6-11; Gr 1,4-8; Ed 1-3). Họ được Thiên Chúa mời gọi hợp tác với Ngài, một cách tự do, tuy dù họ cảm thấy ra như không thể nào cưỡng lại được áp lực của Chúa. Dù sao, nói đến “ơn gọi” có nghĩa là nói đến một hồng ân phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải là kết quả của một nỗ lực tập luyện. Theo ông Giêrêmia, sự tuyển chọn đã xảy ra trước khi ông lọt lòng mẹ nữa (Gr 1,5). Dù sao, việc nhận ra ơn gọi được mô tả như một cuộc gặp gỡ kỳ diệu. Các ngôn sứ đã lớn lên trong niềm tin rằng Lời Chúa vốn điều khiển dòng lịch sử của toàn dân Israel. Giờ đây, họ nhận ra rằng cũng Lời đó xâm nhập vào cuộc đời của bản thân mình. “Giavê nắm lấy tôi ... Giavê phán bảo với tôi như thế này” (Am 7,15). “Rồi tôi nghe tiếng Chúa nói với tôi như vầy ... Tôi thưa lại ... Ngài đáp” (Is 6,8-9). “Có lời Giavê phán với tôi rằng ... Nhưng tôi thưa ... Giavê phán với tôi” (Gr 1,4.6.7). “Tiếng đó

Cựu ước

49

bảo tôi: Hỡi con người, hãy đứng cho vững, Ta sắp nói với ngươi đây...” (Ed 2,1). Cuộc gặp gỡ Thiên Chúa được ông Isaia và Êdêkiel mô tả dưới hình thức của một “thị kiến”, nghĩa là Thiên Chúa hiện ra với họ, tỏ lộ cho thấy “hào quang” của Ngài (Is 6,1-13; Ed 1,28), và truyền đạt ý muốn của Ngài. Ấn tượng đầu tiên gây cho họ là cảm giác về sự hèn hạ nhớp nhúa của mình, vì thế cần được thanh luyện. Thực ra, tâm tình về sự bất xứng không chỉ là phản ứng tất nhiên của loài thụ tạo hữu hạn khi đối diện với Đấng Cực Thánh, nhưng cũng là sự ngại ngùng khi phải chấp nhận thi hành một sứ mạng vượt quá sức mình. Không thiếu lần kẻ được chọn muốn thoái thác, kiếm cớ trốn chạy. Ai ai cũng biết tích truyện ông Giôna được Chúa sai đi giảng thống hối cho thành Ninivê, nhưng ông bỏ trốn sang Tharsis để tránh né (Gn 1,2-3). Trước đây, ông Môsê lấy cớ là mình không có tài ăn nói để xin Chúa chọn người khác (Xh 4,10); ông Giêrêmia cũng trưng ra một lý do tương tự, đó là mình còn trẻ dại non nớt, còn nói bặp bẹ (Gr 1,6). Nhưng rồi cuối cùng, các ông đành khuất phục. Lời Chúa ra như dụ dỗ, quyến rũ, cưỡng đoạt (Gr 20,7-9). Ông Amos ví tiếng Chúa gọi như sư tử gầm rống, không sao mà cưỡng được (3,8), ra như vồ chộp lấy mình: Tôi không phải là ngôn sứ, cũng chẳng phải là người thuộc nhóm ngôn sứ. Tôi chỉ là người chăn nuôi súc vật và chăm sóc cây sung. Chính Giavê đã bắt lấy tôi khi tôi đi theo đàn vật, và Giavê đã truyền cho tôi: “Hãy đi tuyên sấm cho Israel dân Ta” (7,15).

Lời Chúa ví như bàn tay túm lấy họ (xc. Ed 3,22; 8,1), và thúc đẩy đi khắp hang cùng ngõ hẻm để rao giảng sứ điệp. Những hình ảnh đó có thể gây ra cảm tưởng về sự cưỡng bách, chứ không còn là tự do lựa chọn nữa. Tuy nhiên, nếu nhìn dưới góc độ của cảm nghiệm huyền bí, thì kết luận sẽ khác: ngôn

50

Thần Học Đức Tin

sứ là người đã bị Chúa chiếm đoạt đến nỗi họ thuộc trọn về Chúa: không nỗi khó khăn trở ngại nào có thể tách rời họ khỏi Thiên Chúa. Thực vậy, sứ vụ của các ngôn sứ rất bạc bẽo. Họ được phái đến với một dân tộc tự hào là được Chúa chọn, để cảnh cáo lối sống chẳng mấy phù hợp với giao ước. Họ có bổn phận phải thức tỉnh dân chúng hãy trở về với giao ước, chứ đừng tin tưởng mù quáng vào kinh kệ lễ bái, hay vào đền thánh Giêrusalem. Từ đó ta dễ đoán được phản ứng của nhân dân khi nghe những lời giảng chói tai ấy. Có người yêu cầu họ hãy dẹp bỏ kiểu ăn nói ngược đời đi, và tìm những lời lẽ ngon ngọt bùi tai, hợp thời (xc. Is 30,10-11; Am 2,12; Mk 2,6-11; 3,5-8; Gr 11,21; 2V 22,8-27). Có người đòi xử tử họ về tội lộng ngôn phạm thượng (Gr 18,18). Ông Giêrêmia đã để lại nhiều đoạn tự thuật, than trách những nỗi khổ tâm của mình khi bị chống đối phản kháng (Gr 11,1812,6; 15,10-21; 17,14-18; 18,18-23; 20,7-18). Duy chỉ sự gắn bó chặt chẽ với Chúa mới giải thích được lòng kiên trì của họ: Lạy Giavê, Ngài đã quyến rũ con và con đã để cho Ngài quyến rũ. Ngài mạnh hơn con, và Ngài đã thắng. Suốt ngày con đã nên trò cười cho thiên hạ, để họ nhạo báng con. Mỗi lần con nói năng là con phải la lớn, phải kêu lên: “Bạo tàn! Phá hủy!”. Vì lời Giavê mà con đây bị sỉ nhục và chế giễu suốt ngày. Có lần con tự nhủ: “Tôi sẽ không nghĩ đến Người, cũng chẳng nhân danh Người mà nói nữa”. Nhưng lời Ngài cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim, âm ỉ trong xương cốt. Con nén chịu đến nỗi phải hao mòn, nhưng làm sao nén được! Con nghe biết bao người vu cáo: “Kìa, lão Tứ-phíakinh-hoàng! hãy tố cáo, hãy tố cáo nó đi! Tất cả những bạn bè thân thích đều rình xem con vấp ngã ... Nhưng Giavê hằng ở bên con như một trang chiến sĩ oai hùng. (Gr 20,7-11). Xc. Gr 1,8.19; Mk 3,8; Ed 2,6.

Cựu ước

51

Trước ông Giêrêmia, ông Êlia cũng đã có tâm trạng tương tự. Khi bị hoàng hậu Izabel truy nã vì tội đã giết các tiên tri Baal, ông Êlia đã phải chạy trốn để thoát mạng. Sau một ngày đàng trên sa mạc, ông kiệt sức và than thở: “Lạy Chúa, nay đã đủ rồi, xin cất mạng con đi, con cũng chẳng hơn gì tổ tiên của con” (1V 19,4). May thay, một thiên sứ đã hiện ra trấn an ông, cung cấp lương thực để ông đủ sức đến núi Horeb, nơi ông được gặp gỡ Chúa, và lãnh nhận sứ mạng mới. Ngoài ra thiết tưởng không nên bỏ qua một hiện tượng đau lòng khác trong lịch sử của dân Israel, đó là sự xuất hiện của các “ngôn sứ giả hiệu”: họ là những người xu thời, tìm cách chiều theo thị hiếu của nhà vua hay của nhân dân; họ cũng tự nhận là được Chúa sai đến. Chúng ta có thể thấy một trường hợp điển hình ở chương 28 của sách Giêrêmia. Ông này gặp phải ngôn sứ Khanania ở trong đền thờ, và cả hai đều tuyên bố “Đây lời Chúa phán”. Ông Giêrêmia cảnh cáo tai họa sắp xảy đến cho dân; còn ông Khanania thì loan báo bình an. Chúng ta có thể dễ hình dung được tâm tình hoang mang của người dân trước hai sứ điệp trái nghịch nhau! Khổ một điều là ông Giêrêmia đi trái ngược với dư luận và chuốc lấy cho mình ác cảm, trái với những hạng người mị dân. Thật ra, nói cho cùng, nỗi dằn vặt mà ngôn sứ cảm thấy không hoàn toàn phát sinh từ sự chống đối của thính giả cho bằng từ phía Thiên Chúa. Ngôn sứ cũng là một con người, với tầm suy luận hữu hạn giống như bao nhiêu con người khác, thế mà ông phải đi rao giảng cho dân chúng về ý định của Thiên Chúa. Nhưng thử hỏi: ai biết được ý Chúa ra sao? Đường lối của Chúa đâu có giống như đường lối con người? (x. Is 40,13). Nếu lòng người mà đã khó dò thì làm sao mà dò được ý Chúa? Không lạ gì mà ông Isaia đã thốt lên: “Lạy Thiên Chúa của Israel, lạy Đấng Cứu độ, Ngài quả thật là Thiên Chúa ẩn mình” (45,15). Deus

52

Thần Học Đức Tin

absconditus (Thiên Chúa ẩn mình): đây là một thuật ngữ chuyên môn của các nhà huyền bí. Chắc chắn các ngôn sứ là những người đầu tiên đã nếm được cảm nghiệm ấy. Đó chẳng phải là “đêm tối đức tin” đấy ư? B. Sứ mạng củng cố đức tin Sứ mạng của ngôn sứ là thanh luyện đức tin của dân Israel, luôn bị nhiễm độc bởi cơn cám dỗ thờ ngẫu tượng. Các ngài không những kêu gọi dân hãy trung thành với giao ước đã được ký kết, nghĩa là trở về với Thiên Chúa, nhưng các ngài còn giáo dục họ về bản chất của đức tin nữa. 1/ Tội thờ ngẫu tượng trở thành một đề tài then chốt trong các bài giảng của các ngôn sứ, từ ông Êlia cho đến các ngôn sứ thời lưu đày. Các ngẫu tượng không chỉ các thần linh (tựa như Baal: 1V 18,18-19), mà còn là các thế lực quân sự ngoại bang (Hs 1,7; Is 31,1-3). Các ngôn sứ không ngừng nhắc nhở dân hãy trung thành với giao ước mà Thiên Chúa đã thiết lập với họ. Giao ước được ví với hôn ước, đòi hỏi sự chung thủy tình yêu. Thiên Chúa luôn trung thành với giao ước, duy Israel là bội tín, và như vậy là đã phạm tội ngoại tình. Đây là hình ảnh thường gặp nơi các ngôn sứ Hôsê, Giêrêmia. 2/ Trong bối cảnh này, chúng ta gặp vài đoạn văn cổ điển mà các tác giả Tân ước sẽ trưng dẫn để mô tả những đặc tính của đức tin, đó là: Isaia (7,9)14 và Khabacuc (2,4). Các nhà chú giải nhận xét rằng ý nghĩa của các câu văn này đã biến đổi không nhỏ

Bản văn Vulgata. Isaias 7,9: “Si non credideritis, non permanebitis”. Habacuc 4,2: “justus autem in fide sua vivet”. 14

Cựu ước

53

trải qua dòng thời gian, khi đối chiếu giữa mạch văn trong khung cảnh lịch sử với những lời giải thích về sau này. a) Trước hết, chúng ta hãy đọc lại đoạn văn của chương 7 sách Isaia. Chuyện xảy ra dưới thời của Akhaz, vua nước Giuđa. Quốc gia này đang bị tấn công bởi liên minh của hai nước Aram và Israel. Vua Akhaz cũng như toàn dân Giuđa hoảng hốt. Ông Isaia được Chúa sai đến gặp vua Akhaz và nói rằng: “Ngài hãy coi chừng, cứ bình tĩnh, đừng sợ, chớ sờn lòng trước hai cái đầu que củi chỉ còn khói đó, trước cơn giận của vua Aram và vua Israel ... hai vua này mưu tính giết vua... Chuyện đó sẽ không xảy ra, sẽ không có. Nếu các ngươi không vững tin, thì các ngươi sẽ không đứng vững” (Is 7, 4. 7.9). Ông Isaia muốn nói cho nhà vua biết rằng chuyện ngai vàng được giữ vững hay lật đổ là việc của Chúa chứ không phải là kết quả của sự tính toán chính trị của ngoại bang. Thiên Chúa chỉ đòi hỏi nhà vua một điều, đó là: hãy tin vào Chúa, chứ đừng đi cầu viện nước Assyria. Câu chuyện xem ra đơn giản nhưng kỳ thực mang một nội dung thần học quan trọng. Ngôn sứ không khuyến cáo nhà vua hãy từ bỏ ngẫu tượng và trở về với Thiên Chúa; nhưng ở đây, việc tin vào Thiên Chúa đòi hỏi nhà vua hãy tin tưởng vào sức mạnh của ngài: ngài sẽ cứu thoát dân Giuđa khỏi quân xâm lăng. Nói khác đi, việc “tin” được diễn tả qua một sự chọn lựa chính trị quân sự: hãy vững tin vào quyền năng Thiên Chúa, chứ dừng dựa vào thế lực quân sự, “nếu các ngươi không vững tin thì các ngươi sẽ không đứng vững” (Is 7,9).15 Các nhà chú giải ghi nhận rằng đây là một thứ “chơi chữ” trong tiếng Hípri trong câu văn

Tư tưởng này sẽ còn lặp lại ở các đoạn văn khác: “Ai tin tưởng sẽ không hề nao núng” (Is 28,16). “Giả như các ngươi trở lại và ở yên, hẳn các ngươi đã được cứu thoát; giả như các ngươi bình tĩnh và tin tưởng, ắt các ngươi đã nên hùng mạnh” (Is 30,15). 15

54

Thần Học Đức Tin

này, bởi vì “vững tin” và “đứng vững” đều có một gốc aman, vừa có nghĩa là “tín thác” vừa có nghĩa là “bền vững”. Chúng ta dễ đoán được phản ứng của vua Akhaz: trước tình hình tổ quốc lâm nguy, lời khuyên của ngôn sứ thật là lạc đề! Biết như vậy cho nên ngôn sứ đã để cho nhà vua hãy xin một dấu hiệu để củng cố niềm tin. Nhưng nhà vua vẫn nghi ngờ, vì thế ngôn sứ đã gửi cho ông một dấu hiệu, quen gọi là dấu hiệu Emmanuel: “Chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: này đây, một thiếu nữ sẽ mang thai, sẽ sinh hạ con trai, và đặt tên là Emmanuel...” (Is 7,14). Trước khi thiếu nhi này biết sử dụng trí khôn, thì tai họa sẽ giáng xuống các nước thù nghịch. Tóm lại, ông Isaia trở lại với ý nghĩa nguyên thủy của việc “tin” (tin có nghĩa là “tín thác, trông cậy”, cũng giống như ông Abraham) nhưng rút thêm hệ luận mới, áp dụng cả vào lãnh vực chính trị. Thực ra, việc nới rộng phạm vi nằm trong mạch lạc của tư tưởng: tin có nghĩa là tìm thấy sự an toàn của và nơi Thiên Chúa là Đấng trung tín. Nhờ lòng tin mà con người cảm nhận được sự trung tín của Thiên Chúa. b) Đoạn văn Khabacuc 2,4 được nổi danh bởi vì được thánh Phaolô trích dẫn hai lần: Rm 1,17; Gl 3,11: “người công chính sống vì đức tin”. Câu này nằm trong bối cảnh của một cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa với dân của Ngài. Thay mặt cho dân, ngôn sứ nêu lên vấn nạn: ông phàn nàn với Thiên Chúa bởi vì Ngài đã để cho những kẻ bất lương đàn áp người lành. Ông đã nhận được câu trả lời như sau: Đây là một thị kiến sẽ xảy ra vào thời ấn định. Nó đang tiến nhanh tới chỗ hoàn thành, chứ không làm cho ai thất vọng. Nếu nó chậm tới, thì cứ đợi chờ, vì thế nào nó cũng đến, chứ không trì hoãn đâu. Này đây, ai không có tâm hồn ngay thẳng sẽ ngã gục, còn người công chính thì sẽ được sống, nhờ lòng thành tín của mình.

Cựu ước

55

Theo mạch văn, xem ra ông Khabacuc muốn nói rằng lòng trung tín của người công chính cần được biểu lộ qua nếp sống phó thác vào Thiên Chúa, chứ không bằng môi mép. Lòng thành tín giúp cho người công chính sống yên ổn và sống lâu dài. Muốn được vậy, cần phải giữ lời của Chúa và thực thi ý Ngài (x. Hs 2,22; Gr 5,1.3). Như vậy, trong nguyên bản Do thái, ý tưởng mà ông Khabacuc muốn nêu bật là người công chính cần bày tỏ lòng tín trung của mình. “Tin” có nghĩa là trung tín; nhưng về sau này, khi được dịch sang tiếng Hy lạp, emunah biến thành pistis mang ý nghĩa của việc chấp nhận lời mạc khải: người công chính là kẻ sống đức tin, chấp nhận Lời Chúa. Nói cách khác, đã có sự thay đổi điểm nhấn trong việc “tin”: lúc đầu “tin” được hiểu là trung tín với lề luật (sự trung tín của người công chính), về sau “tin” được hiểu về sự chấp nhận lời Chúa, nghĩa là tin vào sự trung thành của Thiên Chúa. Dù sao, chúng ta nhận thấy có sự liên hệ giữa “tin” và “trung tín”: đức tin là nền tảng của lòng trung tín, và lòng trung tín biểu thị đức tin cách cụ thể. Ngôn sứ Khabacuc đại diện cho toàn thể dân Israel. Vào một thời điểm lịch sử, họ cảm thấy mình bị chao đảo bởi vì sự ác thắng thế, còn người lành thì phải thua thiệt. Thiên Chúa trả lời cho dân rằng ngài sẽ gửi quân Babylonia đến để trừng trị quân gian ác. Nhưng ngôn sứ không thấy an tâm, và vì thế ông tiếp tục kêu gào Thiên Chúa, và ông nhận được câu trả lời nơi bản văn mà chúng ta đang bàn (2,4): ông được mời gọi hãy kiên nhẫn, bởi vì sau cùng, kẻ ác sẽ phải chết và người công chính sẽ tồn tại. 3/ Chúng ta đã nhận thấy có một sự mở rộng quan niệm về đức tin: tin vào Chúa có nghĩa là trung tín với luật Chúa, từ bỏ ngẫu tượng, hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa kể cả trong lãnh vực chính trị quân sự. Trên thực tế, những ý tưởng ấy đều có liên hệ với nhau. Dân Israel bị cám dỗ chạy theo ngẫu tượng của các

56

Thần Học Đức Tin

dân khác khi họ bị thua trận trước những dân tộc ấy. Họ dễ kết luận rằng thần linh của các dân tộc mạnh hơn Thiên Chúa của mình. Sự cám dỗ này gia tăng khi thành Giêrusalem bị thất thủ và họ bị lưu đày sang Babylonia. Trong hoàn cảnh này, các ngôn sứ thấy cần nhấn mạnh nhiều đến sự tín thác vào quyền năng của Thiên Chúa (Gr 32,37; Ed 37,14): Thiên Chúa là đấng tạo dựng nên muôn loài, là chủ tể của mọi dân nước, là đấng điều khiển lịch sử (Is 40,28t.; 41,1-7). Các thần linh chẳng là gì hết (Is 44,920): “ngoài Giavê, chẳng còn thần linh nào khác” (Is 46,6t; 43,812). Vì thế Ngài đáng được Israel tín thác tuyệt đối, mặc dù xem ra Ngài im hơi lặng tiếng. IV. Niềm tin hướng đến tương lai Vào thời lưu đày, các ngôn sứ một mặt khuyến khích dân Israel hãy tiếp tục giữ vững niềm tin vào lời Chúa, mặt khác cũng mở ra một chiều hướng mới. Thiên Chúa không chỉ khôi phục lại dân Israel, đưa họ trở về quê cha đất tổ, nhưng còn thực hiện một cuộc canh tân đổi mới. Sự đổi mới này được diễn tả ở nhiều bình diện: có khi là ở trong nội tâm của người tín hữu, có khi là nơi việc gầy dựng một cộng đoàn mới, không hoàn toàn đồng hóa với dân tộc Israel. Cả hai khía cạnh đều liên quan đến sự thanh luyện hoặc kiện toàn đức tin. Thật vậy, cho đến nay các ngôn sứ không ngừng kêu gọi dân Israel hãy trở về với giao ước đã được Thiên Chúa thiết lập trên núi Sinai. Đứng trước những lần thất trung của dân, việc kêu gọi trở về là chuyện dễ hiểu. Nhưng vào thời lưu đày các ngôn sứ còn hướng đến một hình thức “giao ước mới”, “giao ước đặt ở trong con tim chứ không khắc trên bia đá”. Đề tài này được đề cập đặc biệt nơi Giêrêmia (32,39tt) và Êdêkiel (36,26) Điều này giả thiết rằng người tín hữu được thấm nhuần sự hiểu biết đường lối Thiên Chúa, chứ không chỉ dừng lại ở việc tuân hành các mệnh lệnh (Gr 31,33; Ed 36,27).

Cựu ước

57

Sứ điệp này làm thay đổi nền tảng của dân Thiên Chúa. Trong quá khứ, dân Thiên Chúa được đồng hóa với dân Israel, một dân tộc được cấu tạo theo những mối dây tự nhiên của dòng tộc, máu mủ. Trong tương lai, “dân mới” được xây dựng trên đức tin (Mk 6,5; Xp 3,12-18). Hình ảnh của những con người “mới” được phác họa qua vài khuôn mẫu tiêu biểu mà chúng tôi muốn trình bày dưới đây: đức tin của “nhóm nghèo của Giavê”, đức tin của ông Gióp, đức tin của các vị tử đạo, đức tin của dân ngoại. A. Đức tin của “nhóm nghèo Giavê” Vào thời lưu đày, nảy sinh ra giữa lòng dân Israel một luồng linh đạo mang danh là “nhóm nghèo của Giavê”. “Người nghèo của Giavê” là một thuật ngữ chuyên môn, không ám chỉ một điều kiện xã hội cho bằng một linh đạo. Sự “nghèo khó” diễn tả một thái độ cởi mở đối với Thiên Chúa, khiêm tốn trước mặt Ngài. Ngôn sứ Xôphônia có thể coi như đại biểu của họ. Hướng về đồng bào của mình đang bị tước đoạt tài sản lẫn nhân quyền, ngôn sứ khuyên nhủ họ rằng thay vì nuôi dưỡng căm hờn thù oán, thì hãy lợi dụng để đi xa hơn nữa trên đường “tự bóc lột”, tiến đến tình trạng nghèo nàn thiêng liêng, biết phó thác và tin tưởng nơi Chúa. Ngôn sứ viết: “Ta sẽ chừa lại giữa ngươi một dân bé nhỏ nghèo hèn ani)” (3,12). “Hỡi tất cả những người nghèo hèn trong xứ sở, hãy tìm kiếm Thiên Chúa... hãy tìm sự công chính, hãy tìm sự khó nghèo để được an toàn của ngày giận dữ của Chúa” (2,3). Đây là lần đầu tiên, các ngôn sứ mời gọi Israel hãy suy nghĩ về việc Chúa có thể ban ơn cứu rỗi kể cả giữa lúc dân tộc bị thất trận, nhục nhã thay vì lúc chiến thắng oai hùng. Thật là cả một sứ điệp mới lạ mà dân Israel đã chín mùi giữa cảnh lưu đày. Một phong trào đạo đức lớn dần, kết thành “nhóm nghèo của Giavê”. Isaia đã nhiều lần cất lên tiếng hoan ca bởi vì Thiên Chúa đã đến an ủi những tâm hồn rã rượi (49,13); vì Chúa gần gũi những người bị đè nén (57,15); vì Chúa đoái

58

Thần Học Đức Tin

nhìn những ai có tinh thần khiêm tốn, thống hối (66,2). Từ đó, các ngôn sứ không bận tâm đến việc rèn luyện lòng ái quốc nổi dậy quật cường, nhưng họ gắng gợi lên ý thức về thân phận hèn yếu của con người: chính lúc bị đời coi rẻ như vậy mà con người khám phá ra sự thành công, bởi vì họ khám phá ra sức mạnh thực của mình. Khi tâm hồn càng biết khiêm tốn bao nhiêu, thì lại càng gần Thiên Chúa bấy nhiêu: sự “thánh thiện” được đồng hóa với: “nghèo khó”, “công chính”, “kính sợ Chúa”. Linh đạo này bộc lộ cách đặc biệt trong các thánh vịnh (9; 10; 11; 12; 14; 15; 20; 22; 26; 34; 37; 69; 74; 76; 86; 113; 149). Cũng trong bối cảnh ấy mà Đấng thiên sai được loan báo như là một tôi tớ nghèo hèn của Thiên Chúa (Is 42,1-4; 49,1-6; 50,4-8; 52,13-53,12; Tv 22) chứ không phải như là hoàng thân của nhà Đavít nữa. Người sẽ là một tôi tớ nhu mì, hiền hậu, mang tin mừng cho người nghèo (Is 61,1-2). Hiểu như vậy, chính những người nghèo của Giavê sẽ là những người đầu tiên lãnh nhận ơn cứu rỗi, giải thoát (Is 29,18-19). Dĩ nhiên tư tưởng “tinh thần khó nghèo” trở thành một chủ đề của Tin mừng (Mt 5,3) cũng như của toàn Tân ước (1Cr 1,21-31; 2Cr 8,9). Chúng ta hãy phân tích tư tưởng nơi vài thánh vịnh làm thí dụ. Thánh vịnh 34: Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi. Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa, xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên. Hãy cùng tôi ngợi khen Đức Chúa, ta đồng thanh tán tụng danh Người. Tôi đã tìm kiếm Chúa, và Người đáp lại, giải thoát cho khỏi mọi mỗi kinh hoàng. Ai nhìn lên Chúa sẽ vui tươi hớn hở, không bao giờ bẽ mặt hổ ngươi. Kẻ nghèo này kêu lên và Chúa đã nhận lời, cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn.

Vịnh gia mời gọi mọi người hãy cùng với mình tạ ơn Thiên Chúa vì ngài đã thương nhìn đến thân phận nghèo của mình. Thế

Cựu ước

59

nào là “nghèo”? Tác giả đã mô tả tâm tình “nghèo” bằng bảy đặc tính như sau: Người nghèo là kẻ “kính sợ Chúa” (câu 8.10); là “kẻ ẩn náu bên Chúa” (câu 9); là “kẻ tìm kiếm Chúa” (câu 11); là kẻ “trung thành với Chúa” (câu 10); là kẻ “công chính” (câu 16.20.22), là kẻ có “tấm lòng tan nát”, là một người “đã mất hết mọi hy vọng” (câu 19); sau cùng đó là người “tôi tớ” của Chúa (câu 23). Như vậy, ta có thể coi thánh vịnh 34 như là bản tuyên ngôn của “đạo nghèo” trong Cựu ước, một linh đạo của kẻ kính sợ và tín thác vào Thiên Chúa. Thánh vịnh 37 là một bài học khôn ngoan dành cho một người sốt ruột khi thấy Thiên Chúa chậm chạp trong việc thi hành công lý. Tác giả viết: “Hãy lặng thinh trước mặt Chúa và đợi trông Người. Bạn chẳng nên nổi giận với kẻ được thành công hay với người xảo trá” (câu 7). Ta có thể hình dung một bạn trẻ gặp thắc mắc khi sống đạo và đến tham vấn một vị lão thành. Người này từng nghiền ngẫm về đường lối của Chúa, và đưa ra câu trấn an khi cho thấy rằng “Ít lâu nữa ác nhân sẽ chẳng còn ... Còn kẻ nghèo hèn được đất hứa làm gia nghiệp và vui hưởng cảnh an lạc chan hòa” (câu 10-11). Đứng trước cảnh xã hội tràn đầy bất công, người tín hữu dễ cảm thấy nổi lên nhiều nỗi bất bình trong tâm hồn. Nhưng vịnh gia mời gọi họ hãy đứng vững trong đức tin, biết đánh giá sự việc theo nhãn giới của Thiên Chúa. Người đạo hạnh chân chính là “kẻ trông đợi Chúa” (câu 9), “công chính” (câu 17), họ biết thông cảm và cho không, và họ được Thiên Chúa chúc lành (câu 22); họ là kẻ “hiếu trung” (câu 28), “thiện toàn”, “chính trực” (câu 37), “ẩn náu bên Chúa” (câu 40). Nơi thánh vịnh 25, chúng ta gặp thấy một tín hữu gặp hoàn cảnh khó khăn đang giãi bày tâm sự với Chúa. Họ tin rằng Ngài dẫn dắt kẻ nghèo đi theo đường công chính. Người công chính là kẻ giữ giao ước và lề luật Chúa (câu 9.10), kẻ kính sợ Chúa (câu 12), trông cậy Chúa, tin tưởng vào Chúa (câu 13.14). Lời

60

Thần Học Đức Tin

khẩn nài kết thúc với một điều quyết tâm: “Ước gì lòng trong sạch và ngay thẳng che chở giữ gìn con, vì con trông cậy Chúa” (câu 21). Một niềm xác tín ấy cũng có thể nhận thấy nơi thánh vịnh 27, mở đầu bằng lời khẳng định: “Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, tôi còn sợ người nào? Chúa là thành lũy bảo vệ đời tôi, tôi còn khiếp gì ai nữa?”. Thánh vịnh tiếp tục với những lời diễn tả lòng tin tưởng nơi Thiên Chúa, qua đó ta biết rằng ông đã gặp nhiều tai ương hoạn nạn, bị cha mẹ bỏ rơi, bị nhiều kẻ rình rập để tố cáo; dầu vậy, ông đã cảm nhận được sự che chở của Thiên Chúa, tựa như được giấu ẩn ở trong đền thánh hoặc được đặt an toàn trên tảng đá. Như vậy, qua hình ảnh của “người nghèo Giavê”, chúng ta thấy phác họa chân dung của một người đặt tin tưởng vào Thiên Chúa. Ở đây không chỉ là chuyện tuân thủ lề luật của Chúa để được hưởng phúc lộc, nhưng cương quyết trung tín với Chúa, bất chấp những cuộc tấn công của địch thù. Người tín hữu phải trả giá cho lòng trung tín của mình. B. Đức tin của ông Giób Nơi câu chuyện của ông Giób ta có thể đọc thấy một cuộc thanh luyện đức tin của dân Israel. Xưa nay, phúc họa trên đời thường được xem như hậu quả của việc trung thành với giao ước: nếu ai giữ luật Chúa thì sẽ được chúc lành với tài sản và con cái. Tuy nhiên, ông Giób là một người trung thành với Chúa lại bị tan gia bại sản. Vợ ông cũng như các bạn của ông đặt lại vấn đề: trung thành với luật Chúa nào được ích gì? Và chính bản thân ông cũng có lúc than trách với Chúa: “Tại sao Ngài lại kéo con ra khỏi lòng mẹ? Phải chi lúc đó con tắt thở cho rồi, chẳng con ai nhìn thấy con nữa!” (10,18). Đây là một phản ứng tự nhiên của một con người cảm thấy sự tương phản giữa lòng tin và thực

Cựu ước

61

tế phũ phàng. Tuy vậy, ông Giób không bỏ rơi niềm tin. Ông biết rằng con người không nắm được chìa khóa của mọi bí ẩn chung quanh mình. “Chính Chúa nắm trong tay hồn của mọi sinh vật cũng như hơi thở của tất cả người phàm... Nếu Người phá hủy, chẳng ai xây lại được, nếu Người giam cầm, không ai cứu thoát nổi” (12,10.14). Sự thú nhận giới hạn của mình chính là thái độ căn bản của người “nghèo”. Ông Giób cố gắng xoay xở hết cách để tìm hiểu đường lối Chúa: phải chăng Chúa đã quên tôi rồi? Phải chăng Chúa đã thay đổi ý định rồi? Tuy nhiên, mặc dầu có lúc ông cảm thấy đuối lý khi tranh luận với các bạn hữu, nhưng ông vẫn duy trì lòng tin tưởng vào Thiên Chúa: “Ngay giờ đây, trên trời, tôi đã có một nhân chứng, nơi chốn cao xanh, tôi đã có một người bảo lãnh. Bạn bè tôi chế nhạo tôi, nhưng tôi hướng nhìn lên Thiên Chúa, mắt đăm đăm giọt lệ” (16,19-20). Giữa cảnh cùng cực, ông biết chỉ còn cách cầu nguyện, chứ còn tranh luận với mấy nhà thần học thì chẳng thấy vấn đề sáng sủa hơn, xét vì không thể nào dùng những phạm trù tư tưởng nhân loại để phân tích đường lối của Chúa. Thực vậy, tác giả cuốn sách cho thấy rằng cuối cùng, nhờ đức tin, ông đã được chính Thiên Chúa hiện ra để chiếu dọi một tia sáng: phải nhờ đức tin suy phục Thiên Chúa kể cả khi gặp thử thách, tâm hồn sẽ tìm được bình an. Cuối cùng ông đã thưa với Chúa: Con biết rằng việc gì Ngài cũng làm được. Không có gì Ngài đã định trước mà lại không thành tựu. Ngài đã nói: “Ai là kẻ dám dùng những lời thiếu khôn ngoan hiểu biết để làm cho kế hoạch của Ta không còn được rõ ràng minh bạch?” Phải, con đã nói dù chẳng hiểu biết gì về những điều vượt quá sức con... Vì thế điều đã nói ra, con xin rút lại, trên tro bụi, con sấp mình thống hối ăn năn (42,2-3.6).

62

Thần Học Đức Tin

Trong văn bản hiện hành, quyển sách Giób có một đoạn kết: ông đã được Chúa cho phục hồi tất cả các điều tốt lành (con cái, tài sản) gấp bội. Có lẽ tầm nhìn của Cựu ước không thể đi xa hơn các của cải đời này. Dầu vậy, thiết tưởng kết luận thâm thúy nằm ở chỗ khác, đó là: ông Giób đã đi tìm Chúa giữa những dòng lệ, nhưng thực sự là Chúa đã tìm ông trước bởi vì Chúa thương ông. C. Đức tin của các người chết vì đạo Những tác phẩm lịch sử cuối cùng của Cựu ước (hai quyển sách Macabê) đã thuật lại tấm gương của nhiều chứng nhân đức tin, nghĩa là những kẻ đã chết vì muốn sống trung thành với đức tin. Tác giả thư gửi Hípri (11,35-40) đã dành cho họ nhiều lời ca ngợi: Có những người bị tra tấn mà không muốn được giải thoát, để được hưởng một sự sống tốt đẹp hơn, Có những người phải chịu nhạo cười và roi vọt, hơn nữa còn bị xiềng xích và bị bỏ tù; họ bị ném đá, bị cưa đôi, bị chết vì gươm; họ phải lưu lạc, mặc áo da cừu da dê, bị thiếu thốn, bị áp bức và hành hạ. Thế gian chẳng xứng với họ! Họ đi lang thang trong hoang địa, trên núi đồi, trong hang hốc và hầm hố. Nhờ đức tin, tất cả các nhân vật đó đã được chứng giám, thế mà họ không đạt được những điều Thiên Chúa đã hứa. Quả thật, Thiên Chúa đã trù liệu cho chúng ta một phần phúc tốt hơn, nên không muốn cho họ đạt tới hạnh phúc trọn vẹn mà không có chúng ta.

Chúng ta khâm phục sự can trường bất khuất của các ngài. Tuy nhiên, một điểm đáng khâm phục hơn nữa là họ đã giữ vững niềm tin khi mà xem ra Thiên Chúa bỏ rơi họ, không ra tay cứu họ. Nói khác đi, họ là chứng nhân của sự kiên trì kể cả lúc Thiên Chúa thinh lặng; qua đó họ làm chứng nhân cho niềm hy vọng vào lòng trung tín của Chúa: ngài sẽ thực hiện những lời hứa. Dù sao, khi kể lại cái chết của các anh em nhà Macabê, Kinh

Cựu ước

63

thánh cũng ghi nhận sự tiến triển trong đối tượng đức tin của Cựu ước: hạnh phúc của con người không nằm trong những thiện ích ở đời này, nhưng là ở nơi Thiên Chúa, Đấng sẽ cho những tôi trung được sống lại (2Mcb 7; Đn 12,2). Sách Macabê và sách Khôn ngoan đã mở ra một chân trời cánh chung rộng hơn là sách Giób: phần thưởng dành cho người công chính là sự trường sinh bất tử, sự kết hợp với Thiên Chúa (x. Kn 3,1-9). D. Đức tin của dân ngoại Dân tộc “mới” không chỉ gồm bởi những con dân của Israel mà đức tin đã được thanh luyện. Sau thời lưu đày, vài đoạn văn cho thấy rằng cả những người ngoại cũng sẽ được kết nạp vào dân Thiên Chúa. Cũng như ông Naaman vào thời ông Êlisa (2V 5), nhiều dân tộc sẽ tin vào Thiên Chúa của ông Abraham (x. Tv 47,10). Sách Giôna, kể lại chuyện dân thành Ninivê đã sám hối do lời giảng của ngôn sứ, muốn cho thấy rằng tình thương của Thiên Chúa bao bọc chư dân nữa. Các tích chuyện trở lại của vua Nabucodonosor (Đn 3-4) và tướng Akhiô cho thấy rằng “ai tin thì sẽ được gia nhập dân Israel” (Gđt 14,10; 5,5-21). Thiên Chúa để dành thời gian để cho các dân nước tin vào Ngài (Kn 12,2; x. Hc 36,4). Kết luận Trên suốt quá trình hai mươi thế kỷ, thần học về đức tin đã tiến triển khá nhiều từ ông Abraham, qua ông Môsê, đến các ngôn sứ trước và sau thời lưu đày. Sự tiến triển này tùy thuộc vào việc Thiên Chúa mạc khải kế hoạch cứu độ của Ngài cho dân Israel; nói cách khác, đức tin tiến triển tùy theo lời Chúa mạc khải: thần học gọi đây là “đức tin hiểu theo nghĩa khách thể” (fides obiectiva).

64

Thần Học Đức Tin

Tương ứng với sự tiến triển mạc khải về phía Thiên Chúa, chúng ta cũng thấy sự tiến triển trong phần đáp trả về phía con người: thần học gọi đây là “đức tin hiểu theo nghĩa chủ thể” (fides subiectiva). Nói cách chung, “tin” trong Cựu ước có nghĩa là tin tưởng, phó thác. Niềm tin tưởng phó thác này đã được thấy nơi ông Abraham khi ông nhận được tiếng gọi của Thiên Chúa. Nhưng với việc Thiên Chúa giải thoát dân Israel khỏi cảnh nô lệ và thiết lập giao ước với họ, thì niềm tin cũng gắn liền với lòng trung thành tuân giữ giao ước. Theo nghĩa này, “tin” vừa là tín thác, vừa là trung tín. Lòng trung tín này được thanh luyện liên tục: nó đòi hỏi không những không được chạy theo các tà thần, mà kể cả không được dựa theo các thế lực quân sự ngoại bang. Đức tin sẽ còn được thanh luyện hơn nữa ở nơi những người công chính, nơi các ngôn sứ, khi họ cương quyết giữ vững lòng trung thành với Thiên Chúa bất chấp các nghịch cảnh. Một đức tin được thanh luyện cũng là một đức tin gắn bó tuyệt đối với Thiên Chúa, nhờ đó cũng được đi vào sự kết hiệp huyền nhiệm với Ngài (như ông Môsê, ông Êlia). Tân ước sẽ tiếp tục những đường hướng này, dĩ nhiên là ở một cấp độ cao hơn khi lời Thiên Chúa đến cư ngụ giữa nhân loại nơi Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời của Thiên Chúa, và tìm được mẫu gương đón nhận phó thác nơi Đức Maria, Đấng tự đồng hóa với kẻ nghèo hèn, khiêm hạ của Thiên Chúa.

Chương Hai

TÂN ƯỚC Chúng ta có thể tìm hiểu thần học về đức tin trong Tân ước bằng nhiều lối tiếp cận: hoặc là dựa theo từng tác giả (thí dụ: Tin mừng, các thư thánh Phaolô), hoặc là chọn lựa vài chủ đề nổi bật (chẳng hạn: tin và cứu rỗi, tin và biết, tin và thấy, tin và hành động), hay là những mẫu gương đức tin. Chúng tôi vừa muốn tìm hiểu quan điểm của các tác giả Tân ước, vừa theo dõi cảm nghiệm đức tin nơi một vài mẫu gương, vì thế sẽ trình bày đề tài trong hai mục theo thứ tự như sau: 1/ Mục thứ nhất giới thiệu một cái nhìn tổng quát về từ ngữ cũng như những điểm nhấn khác nhau của các tác giả Tân ước. 2/ Sang mục thứ hai, chúng ta sẽ khảo sát những bản văn liên quan đến đức tin, dựa theo Tin mừng nhất lãm, Công vụ Tông đồ, các thư của Phaolô (cùng với thư gửi Hípri), các tác phẩm Gioan. Những đoạn văn này giải thích bản chất của đức tin, đồng thời cũng trình bày những gương mẫu của đức tin nữa.

66

Thần Học Đức Tin

Mục I TỪ NGỮ VÀ Ý NIỆM I. Từ ngữ Xét về từ ngữ, Tân ước sử dụng danh từ pistis và động từ pisteuein.16 Hai từ này đã được gặp thấy trong bản dịch LXX của Cựu ước. Trong nguyên ngữ Hy lạp, pistis ám chỉ lòng trung thành của các hội viên đối với quy ước; hoặc là tính khả tín của những lời hứa; rồi từ đó, dần dần ý nghĩa được mở rộng đến việc tin tưởng, chịu thuyết phục, tuân theo. Dù sao, đối với các tác giả Tân ước, vấn đề từ ngữ không được đặt ra bởi vì đã được sử dụng từ Cựu ước rồi. Tuy nhiên, mặc dù có sự đồng nhất về từ ngữ giữa Cựu ước và Tân ước, nhưng cũng cần nêu bật sự khác biệt về nội dung giữa đôi bên. Trong Cựu ước, tin là tín thác vào Thiên Chúa, Đấng hoạt động trong lịch sử của dân tộc Israel. Trong Tân ước, sự can thiệp của Thiên Chúa dồn vào thân thế và công trình của Đức Kitô. Tin bao gồm nhiều khía cạnh: - “Tin” có nghĩa là chấp nhận sứ điệp mà Đức Kitô mang lại, nghĩa là ơn cứu độ được Thiên Chúa ban cho nhân loại qua cái chết và phục sinh của Đức Giêsu. Tuy đó là một biến cố lịch sử nhưng nó được diễn tả thành sứ điệp, vì thế nó bao hàm khía cạnh đạo lý. Tin là một hành vi có chiều kích tri thức: chấp nhận sứ điệp được rao giảng qua ngôn ngữ và nếp sống.

Thật ra, batak được chuyển sang tiếng Hy lạp là elpìs, elpìzo, pèpoitha (và sang tiếng La tinh Vulgata là spes, sperare, confido); còn ʾaman là pìstis, pistúein, alétheia (La tinh: fides, credere, veritas). Trong Tân ước danh từ pistis xuất hiện 243 lần và động từ pisteúein 241 lần. 16

Tân ước

67

- Tuy nhiên, “tin” không chỉ giới hạn vào lãnh vực hiểu biết. Tin đòi hỏi sự tuân phục, tín thác vào tình yêu của Thiên Chúa được biểu lộ nơi việc trao ban Con của Ngài. Tin cũng kèm theo một cuộc thay đổi não trạng và nếp sống. II. Khái niệm Đó mới chỉ là những nét khái quát. Mỗi tác giả Tân ước khai triển một vài khía cạnh đặc thù tùy theo nhu cầu của mỗi giáo đoàn cụ thể. Chúng ta hãy lược qua ba nhóm quan trọng hơn cả: Tin mừng nhất lãm, Tin mừng thánh Gioan, các thư thánh Phaolô. A. Tin mừng nhất lãm “Tin” có ba nghĩa: tin tưởng vào quyền năng của Đức Giêsu (x. Mc 2,5; 5,34); chấp nhận Tin mừng mà Đức Giêsu rao giảng (Mc 1,15; 16,16.17); chấp nhận chính Đức Giêsu. 1/ “Tin” có nghĩa là tín thác vào lòng tốt và quyền năng của Đức Giêsu. Điều này được nêu bật nơi thánh Marcô. Tin là điều kiện tiên quyết để Chúa làm phép lạ: họ phải tin tưởng Người. Người không thể làm phép lạ nào ở Nazareth bởi vì dân thiếu lòng tin (Mc 6,5-6). Ngược lại, Người nói với ông Giairô đã mất người con gái: “Đừng sợ; chỉ cần tin thôi” (Mc 5,36). 2/ “Tin” có nghĩa là chấp nhận Tin mừng do Đức Giêsu rao giảng. Điều này được thấy ngay từ đầu Tin mừng Marcô: “Thời gian đã viên mãn, và triều đại Thiên Chúa đã gần kề; hãy thống hối và tin vào Tin mừng” (Mc 1,15) cũng như vào lúc kết thúc cuốn sách: “Hãy ra đi khắp thế giới, rao giảng Tin mừng cho mọi thụ tạo. Ai tin và lãnh phép rửa thì sẽ được cứu rỗi” (Mc 16,15-16). Tin vào Tin mừng có nghĩa là chấp nhận rằng Thiên Chúa đã can thiệp vào thế giới nơi bản thân, lời nói và lời giảng của Đức Giêsu. Vì thế, ai muốn vào vương quốc Thiên Chúa thì

68

Thần Học Đức Tin

phải chấp nhận những điều kiện mà Đức Giêsu đặt ra. Điều này đòi hỏi một cuộc hoán cải, thay đổi não trạng. 3/ “Tin” có nghĩa là chấp nhận bản thân Đức Giêsu. Đây là bước thứ ba: từ chỗ chấp nhận lời giảng về Đức Giêsu đến chỗ chấp nhận bản thân Người: Người là “Chủ tể” (Kyrios). Điều này xảy ra sau cuộc phục sinh, và được nhấn mạnh trong sách Công vụ Tông đồ (x. các kerygma). Dù sao, thánh Luca diễn tả thái độ tin vào Chúa Giêsu bằng những hành động cụ thể, đó là: đi theo Đức Kitô, vác thập giá (Lc 9,23), làm chứng và tuyên xưng (Lc 12,8-9). B. Thánh Gioan “Tin” chiếm một địa vị nổi bật trong các tác phẩm của thánh Gioan. Động từ pisteuein (tin) được dùng 98 lần trong Tin mừng thứ tư và 9 lần trong các thư; còn danh từ pistis chỉ được dùng 1 lần trong 1Ga 5,4 (“Đây là điều làm cho chúng ta thắng được thế gian: lòng tin của chúng ta”). Xem ra thánh Gioan quan tâm đến lối sống hơn là đến đạo lý. Tuy vậy, ở cuối Tin mừng, tác giả viết như sau: “Những điều này đã được ghi chép ngõ hầu anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để nhờ tin mà được sự sống đời đời” (20,31). Chúng ta hãy tìm hiểu ba điểm liên quan đến: đối tượng, bản chất, hiệu quả của việc tin. 1/ Đối tượng: tin vào Thiên Chúa và tin vào Đức Giêsu (8,31.45.46; 10,37.38; 14.11). Đức Giêsu là Đấng Kitô (11,27; 20,31), kẻ được Chúa Cha sai đến (11,42; 17,8.21), là Con Thiên Chúa (20,31), kẻ từ Chúa Cha mà đến (16,27.30). Chúa Cha với Đức Giêsu là một (10,30; 17,21). 2/ Bản chất. Thánh Gioan quan niệm “tin” như là một tiến trình gặp gỡ. Cùng với động từ “tin”, tác giả còn dùng những động từ đồng nghĩa tựa như: “đến với” (5,40; 6,35.44tt.65; 7,37),

Tân ước

69

“tiếp đón” (1,12; 5,43), “yêu mến” (8,42; 14,15.21.23t.28; 16,27). Tin là một tiến trình năng động: nó tăng trưởng tiệm tiến, từ những bước khởi đầu đến chỗ hoàn bị, từ chỗ đón nhận Đức Giêsu vì phép lạ đến chỗ chấp nhận Người mà không cần phép lạ (20,26-28). Vài thí dụ: 4,46-53 (sĩ quan cận vệ, động từ “tin” được nói đến ở câu 50 và 53, với hai cấp độ); 4,39-42 (người dân Samaria tin vì nghe lời thuật của người phụ nữ và tin vì nghe lời của Chúa); chương 9 (người mù: so sánh câu 17 với câu 38). 3/ Hiệu quả. Tin liên quan đến chuyện sinh tử: số phận vĩnh cửu của con người tùy thuộc vào việc tin hay không tin: “Ai tin thì sẽ không bị xét xử, ai không tin thì đã bị xét xử rồi” (3,18). Ai tin vào Con thì được sự sống hằng hữu (3,36; 6,40.47; 20,31). Tin dẫn đến sự sống vĩnh cửu; không tin dẫn tới hư vong. Tin mang tính quyết định đến số phận vĩnh hằng. Tin mở đường đến hạnh phúc đời đời; nhờ tin mà chúng ta biết Chúa, ở lại trong Đức Kitô. Ngoài ra, “tin” và “yêu” liên kết với nhau: tin dẫn đến yêu; nhưng tin cũng là kết quả của yêu, bởi vì tin là kết quả của ơn thánh Chúa. Tin là một hồng ân. C. Thánh Phaolô Chúng ta cũng có thể nói đến ba điểm chính: bản chất, nội dung, hiệu quả 1/ Bản chất. Tin là vâng theo lời Chúa được biết nhờ việc rao giảng (Rm 10,17; 16,26; 1,5; 2Cr 9,13; 10,5; 2Tx 1,8). Ông Abraham là tấm gương của đức tin bởi vì ông vâng theo lời Chúa nói cho ông. Tin là một tâm tư nội tâm nhưng cũng bao hàm việc tuyên xưng bên ngoài miệng nữa (Rm 10,9). 2/ Nội dung. Lời giảng và lời tuyên xưng đều có một nội dung: “Đức Giêsu là Chúa; Người đã chịu chết trên thập giá vì

70

Thần Học Đức Tin

tội chúng ta, nhưng Thiên Chúa đã cho Người chỗi dậy vào ngày thứ ba” (1Cr 15,3; xc. 1Tx l,9t; Rm 10,4; Cl 2,12; Ep 1,20; Gl 1,1; Rm 4,25, ...). Tin mừng là chính Đức Kitô. Phàm ai tin vào Thiên Chúa thì cũng chấp nhận kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện nơi Đức Kitô. Vì thế Đức Kitô là đối tượng của đức tin. 3/ Hiệu quả. Đức tin là khởi đầu của tiến trình cứu độ, được đặt tên là “ơn được nên công chính” (công chính hóa). Tiếc rằng sự nhấn mạnh đến chỗ “duy chỉ đức tin mới làm nên công chính chứ không vì giữ luật” (Rm 3,28) đã đưa đến những giải thích cực đoan khiến cho thánh Giacôbê phải lên tiếng (Gc 2,14-16; xem thêm Mt 7,21). Thực ra trong các lá thư, ở phần khuyến thiện, thánh tông đồ đã nói nhiều đến việc uốn nắn cuộc đời sao cho phù hợp với Tin mừng. Người ta nhận thấy rằng trong những thư đầu tiên, thánh Phaolô nhấn mạnh đến quyền năng và sức mạnh của Lời Chúa hay của Tin mừng, nhưng trong những thư mục tử, người bận tâm đến “đạo lý” và khuyên răn Timôthê hãy “giữ gìn đạo lý” (1Tm 6,20; 2Tm 1,14), “đạo lý lành mạnh” (1Tm 1,10; 2Tm 4,3; Tt 1,9; 2,1). Đây là một “gia sản” (depositum: paratheke) được ủy thác và cần phải giữ gìn cẩn thận. Tuy ngày nay các học giả không coi thánh Phaolô là người viết Thư gửi người Hípri, nhưng tư tưởng của nó gần gũi với thánh tông đồ. Tác giả dành trọn chương 11 để trưng bày mẫu gương của các chứng nhân đức tin, với lời mở đầu như sau: “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy”. Thánh Tôma Aquinô đã nhận thấy nơi đây một định nghĩa cho nhân đức tin,17 gồm bởi hai yếu tố:

17

Tôma Aquinô, Summa Theologica, II-II, q.4.a.1.

Tân ước

71

a) Đối thể: những điều tương lai mà ta trông mong; b) Chủ thể: xác tín, kiên trì.18 Tóm lại, pistis trong Tân ước là một thực thể phong phú, bao hàm nhiều khía cạnh. 1. Khía cạnh tri thức: hiểu biết về bản thân và sứ điệp của Đức Giêsu. 2. Khía cạnh tin tưởng vào sự chân thành của Thiên Chúa mạc khải cho chúng ta nơi Đức Kitô. Sự tín thác kèm theo niềm hy vọng rằng những lời Chúa hứa sẽ được thực hiện (Hr 11,9-11; Rm 4,17-20; 1Pr 1,5-9). Hy vọng phát sinh sự kiên trì và chung thủy (2Tm 4,7; Rm 1,5; Gl 5,6). 3. Hiệu quả: đức tin mang lại đời sống mới (ơn trở nên công chính; thụ tạo mới). Khi đối chiếu giữa quan niệm “tin” trong Cựu ước và Tân ước, các tác giả nhận thấy sự liên tục và sự mới mẻ. Sự liên tục ở chỗ tin bao hàm thái độ tín thác, tin tưởng vào Thiên Chúa can thiệp trong lịch sử; sự mới mẻ ở chỗ đối tượng của sự can thiệp của Thiên Chúa được biểu lộ cách cụ thể nơi Đức Giêsu Kitô: kể từ nay, ai tin vào Thiên Chúa thì cũng phải tin vào Đức Giêsu Kitô. Như vậy trong Tân ước, tin mang thêm một chiều kích, đó là chấp nhận Đức Kitô. Riêng về điểm này, các sách Tân ước cũng cho thấy một sự tiến triển. Thực vậy, vào lúc bắt đầu rao giảng Tin mừng, Đức Giêsu chỉ đòi hỏi nơi người nghe sự tin tưởng vào lời của Người và cải hoán cuộc đời; vai trò của Người có thể ví như một đại ngôn sứ. Dần dần, và cách riêng là kể từ cuộc phục sinh, Đức Giêsu đòi hỏi các môn đệ và người nghe hãy tin vào Người, tin rằng Người là vị Cứu thế, và hơn thế nữa, Về ý nghĩa đoạn văn này, xem thông điệp Spe salvi của đức thánh cha Bênêđictô XVI, số 7. 18

72

Thần Học Đức Tin

tin rằng Người là Thiên Chúa. Ta có thể nhận thấy sự tiến triển ấy khi bắt đầu với các bản văn tương đối thô sơ của Tin mừng nhất lãm cho đến cao điểm nơi các tác phẩm của thánh Phaolô và thánh Gioan. Một điều trớ trêu là khi đọc Tin mừng, ta thấy những kẻ không tin Đức Kitô là những người Do thái. Họ đâu phải là người vô thần; trái lại, họ đã tin vào Thiên Chúa, và đa số rất trung thành với luật Môsê. Trong bối cảnh ấy, ta dễ hiểu vì sao Tân ước nhấn mạnh đến sự cần thiết phải tiến thêm một bước nữa, đó là nhìn nhận rằng Thiên Chúa đang can thiệp vào lịch sử nơi bản thân của Đức Giêsu: từ đó vấn đề được đặt lên về việc tin vào lời giảng của Đức Giêsu và lời giảng của Hội thánh về Đức Giêsu. Đức tin cần thiết để được cứu rỗi. Đức Giêsu đã làm nhiều phép lạ để chứng minh sứ mệnh của mình, nhưng phép lạ chưa đủ để tin. Cần có thái độ cởi mở với những hình thức mới của sự can thiệp của Thiên Chúa, cũng như hợp tác với ân sủng để đón nhận đức tin. Ngoài ra, vài vấn nạn khác cũng được nêu lên trong cộng đoàn tiên khởi, chẳng hạn như: tương quan giữa tin và biết, tin và thấy, tin và làm. Đó là bối cảnh của các bản văn Tân ước về đức tin. Mục II NHỮNG BẢN VĂN VỀ ĐỨC TIN TRONG TÂN ƯỚC Như vừa nói, một điểm liên tục giữa Cựu ước và Tân ước là niềm tin vào Thiên Chúa. Tin vào Thiên Chúa không những chấp nhận sự hiện hữu của một Đấng Tạo thành trời đất, nhưng còn tin vào tình yêu và sự quan phòng của Ngài: “Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi” (Mt 22,37; Đnl 6,4). Đức Giêsu muốn làm sáng tỏ chân lý này hơn nữa khi nêu bật rằng Thiên Chúa là Cha, một người cha dành tình yêu đặc biệt cho những kẻ bé nhỏ, những người tội lỗi. Đối

Tân ước

73

lại, Thiên Chúa mong muốn cho con người yêu mến và tin tưởng vào Cha. Tuy nhiên điểm độc đáo của Tân ước nằm ở chỗ khẳng định rằng Thiên Chúa đã biểu lộ tình yêu cách đặc biệt qua việc cử Đức Giêsu, Con Một của Ngài, đến cứu chuộc nhân loại. Con người được mời gọi đón nhận tình yêu ấy bằng việc tin vào Đức Giêsu. Chúng ta hãy khảo sát những đoạn văn của Tân ước theo thứ tự: Tin mừng nhất lãm, thánh Phaolô, thánh Gioan. I. Tin mừng nhất lãm Ngày nay, mọi người đều chấp nhận rằng các sách Tin mừng không phải là cuốn tiểu sử về cuộc đời Đức Giêsu Nazareth. Sách Tin mừng đã được viết sau khi Đức Giêsu đã chịu chết và sống lại, và đã được các tông đồ rao giảng như là Đấng Mêsia. Khi phân tích lòng tin của các môn đệ về Người, các học giả phân biệt hai chặng (được đặt tên là: “Đức Giêsu của lịch sử” và “Đức Kitô của niềm tin”) để diễn tả sự tiến triển nơi cảm nhận của các môn đệ: vào giai đoạn đầu, họ nhìn Người như một ngôn sứ, một vị thiên sai; nhưng dần dần, nhờ sự tiếp xúc với Người, đặc biệt là nhờ tác động của Thánh Linh sau khi Người đã sống lại, họ khám phá chân dung đích thực của Người. Mặc dù không phải lúc nào sự phân biệt cũng đơn giản, nhưng đại khái, có thể nói rằng các sách Tin mừng nhất lãm mô tả khía cạnh thứ nhất, còn Công vụ Tông đồ, thánh Phaolô và thánh Gioan chú ý đến khía cạnh thứ hai. Tương ứng với sự tiến triển về đức tin “khách thể” vào thân thế Đức Giêsu, chúng ta cũng có thể nói đến sự tiến triển “chủ thể”, nghĩa là xét về tương quan của các người thấy và nghe Người. Thực vậy, không phải hết mọi người đều có “đức tin hoàn hảo” nhưng nhiều lần chỉ là một thứ “tin tưởng” (tạm gọi là “lòng tin, niềm tin”); điều này cũng xảy ra cho các môn đệ, bởi vì nhiều lần họ bị trách là “thiếu tin, kém tin”, theo nghĩa là tuy họ đã tin rồi nhưng còn ở trình độ sơ khởi, và cần được huấn luyện để tiến đến chỗ hoàn thiện.

74

Thần Học Đức Tin

Chúng ta hãy khảo sát những đoạn văn liên quan đến việc tin, được chia thành bốn nhóm, dựa theo tiến trình từ chỗ “không tin” đến chỗ “tin” với nhiều cấp độ: - Nhóm thứ nhất: những người không tin, mặc dù đã nghe giảng và thấy việc làm của Người, điển hình là các người đồng hương với Đức Giêsu. - Nhóm thứ hai là những người tin Đức Giêsu và được Người chữa lành: đứng đầu là dân ngoại, rồi đến những người thuộc dân Israel. - Nhóm thứ ba là các môn đệ: họ đã được chứng kiến nhiều phép lạ và họ bị quở trách là thiếu lòng tin; họ được giáo dục để tăng trưởng lòng tin: tin là chấp nhận Đức Giêsu và đi theo Người. - Sau cùng, nhóm thứ bốn gồm những đoạn văn liên quan đến việc tin sau khi Chúa sống lại. A. Những người không tin Thánh Marcô thuật lại rằng Đức Giêsu đã mở đầu sứ vụ bằng những lời hiệu triệu như sau: “Thời kỳ đã mãn, và Triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin mừng” (Mc 1,14-15), và ông kể tiếp những lời giảng và việc làm của Người để chứng tỏ rằng Triều đại ấy đã đến: trừ quỷ, chữa bệnh. Người cũng đã lôi cuốn được vài môn đệ. Xem ra mọi chuyện diễn tiến cách tốt đẹp. Tuy nhiên, theo thánh Luca, ngay từ khi khai mạc sứ vụ, Đức Giêsu đã gặp nhiều kháng cự ngay từ quê hương của mình. Thật vậy, theo Tin mừng thứ ba, Đức Giêsu ra mắt dân chúng tại hội đường Nazareth. Người mở Sách thánh và gặp một đoạn văn của Isaia chép rằng: “Thần khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin mừng cho kẻ nghèo hèn.

Tân ước

75

Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,18-19). Thoạt tiên, những người nghe đều sửng sốt, nhưng chẳng mấy chốc, họ quay ra bàn tán: “ông này không phải là con ông Giuse đó sao?”. Thế là nổi lên cuộc tranh luận sôi nổi, đến nỗi họ phẫn nộ, đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành, để xô Người xuống vực. Như vậy, Đức Giêsu đã gặp sự chống đối ngay tại làng của mình. Điều này được xác nhận bởi tất cả các tác giả Tin mừng, tuy rằng mỗi người đặt trong một bối cảnh khác nhau. Marcô đã kể lại chuyện này cách khá chi tiết ở chương 6 (câu 1-5): Đức Giêsu ra khỏi đó và đến nơi quê quán của Người, có các môn đệ đi theo. Đến ngày sabat, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên. Họ nói: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế nghĩa là gì? Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria, và anh em của ông Giacôbê, Giôxết, Giuđa và Simôn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao? Và họ vấp ngã vì Người. Đức Giêsu bảo họ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương của mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi. Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó. Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. Người lấy làm lạ vì họ không tin.

Mátthêu cũng mô tả sự kiện cách tương tự như vậy, tuy muộn hơn, nghĩa là ở cuối chương 13, và cũng với lời bình luận: “Người không làm nhiều phép lạ tại đó, vì họ không tin” (Mt 13,58). Marcô và Mátthêu đều xác nhận rằng dân Nazareth không tin

76

Thần Học Đức Tin

vào Đức Giêsu, vì thế Người không làm phép lạ tại đó. Nên lưu ý rằng vào giai đoạn này, “tin” chưa có nghĩa là đức tin vào thiên tính của Đức Giêsu. Ở vào giai đoạn đầu của sứ vụ Đức Giêsu, các sách Tin mừng nhất lãm hiểu việc “tin” ở một cấp độ nhân bản, đó là tin tưởng vào quyền năng của Đức Giêsu có thể làm phép lạ. Chúng ta sẽ thấy nhiều trường hợp trong đó “tin” là điều kiện để Đức Giêsu làm phép lạ (như vậy là khác với quan điểm của thánh Gioan, theo đó Đức Giêsu làm phép lạ để củng cố lòng tin). Thực ra tuy cũng là “tin”, nhưng nó ám chỉ nhiều cấp độ khác nhau. Trở lại với trường hợp đang bàn, dân làng Nazareth không tin Đức Giêsu, bởi vì họ nghĩ rằng họ quá biết về lai lịch và gia thế của Người. Một con người gốc gác tầm thường đâu thể làm được chuyện lớn lao phi thường? Đúng là “bụt nhà không thiêng”, như tục ngữ thường nói. Thậm chí có ý kiến cho rằng không những dân làng mà ngay cả gia đình cũng chẳng chấp nhận Người. Ý kiến này dựa trên đoạn văn Mc 3,20-21: “Người trở về nhà và đám đông lại kéo đến, thành thử Người và các môn đệ không sao ăn uống được. Thân nhân của Người hay tin ấy, liền đi bắt Người, vì họ nói rằng Người đã mất trí”. Thoạt tiên, câu văn có thể gây cho độc giả cảm tưởng là người nhà của Chúa cho rằng Người hóa điên rồi. Tuy nhiên, trong Kinh thánh, tiếng “mất trí” (Hy lạp: ekseste, ra khỏi) không nhất thiết có nghĩa là “điên”; đôi khi nó chỉ có nghĩa là: bàng hoàng, ngỡ ngàng, ngạc nhiên (tựa như phản ứng của dân chúng sau khi chứng kiến phép lạ của Chúa Giêsu: Mt 12,23; Mc 2,12; 5,42), hoặc: xuất thần. Như vậy, ở đây có thể giải thích là thân nhân của Chúa lo ngại vì Người hăng say với công việc quá đáng đến nỗi bỏ cả ăn ngủ. Dù sao, sau này, khi nghiền ngẫm lại cuộc đời của Chúa Giêsu, thánh Gioan và thánh Phaolô đưa ra những kết luận xa hơn. Thánh Gioan viết rằng: “Người đã đến nhà mình, nhưng

Tân ước

77

người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11). Ở đây, “người nhà” có thể hiểu về dân Do thái và thậm chí về toàn thể nhân loại. Còn thánh Phaolô (2Cr 5,16) lại nghĩ đến nhiều cấp độ quen biết Đức Giêsu: có thứ quen biết theo tình cốt nhục, có thứ quen biết theo đức tin; những ai chỉ nhìn thấy Đức Giêsu theo nhục huyết thì khó lòng khám phá ra căn tính của Người. Cuối cùng, như chúng ta đã biết, Đức Giêsu đã không được dân tộc của mình chấp nhận, đặc biệt là giới lãnh đạo. Tuy vậy, chúng ta sẽ thấy cũng có những người Do thái tin vào Chúa Giêsu. B. Những người tin Đức Giêsu 1/ Thật là một điều trớ trêu, đang khi những người đồng hương không chấp nhận Đức Giêsu thì lại có những người ngoại đạo lại tin Người. Những trường hợp này không phải là hiếm trong các trình thuật của Tin mừng nhất lãm. Thậm chí Tin mừng thứ tư đặt họ vào số những người đầu tiên tin vào Chúa Giêsu, ngay từ chương Bốn, khi kể lại mẫu gương của người phụ nữ Samari và của một sĩ quan cận vệ. a) Luca kể chuyện viên sĩ quan ở chương 7, còn Mátthêu đặt ở chương 8. Đại khái nội dung câu chuyện như thế này. Một viên sĩ quan có một đầy tớ bị đau liệt và ông đến xin Đức Giêsu chữa lành. Người nhận lời đi tới nơi để gặp bệnh nhân. Nhưng ông sĩ quan đáp: “Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi được khỏi bệnh. Vì tôi đây, tuy dưới quyền kẻ khác, tôi cũng có lính tráng dưới quyền tôi. Tôi bảo người này: “Đi!” là nó đi, bảo người kia: “Đến!” là nó đến, và bảo người nô lệ của tôi: “Làm cái này!” là nó làm (Mt 8,7-9). Thánh sử kể tiếp: Nghe vậy, Đức Giêsu ngạc nhiên và nói với những kẻ theo Người rằng: “Tôi bảo thật các ông: tôi không

78

Thần Học Đức Tin

thấy một người Israel nào có lòng tin như thế” ... Rồi Người nói với ông sĩ quan: “Ông cứ về đi! Ông tin thế nào thì được như vậy! Và ngay giờ đó, người đầy tớ được khỏi bệnh. (Mt 8,10.13). Trong câu chuyện này, ta thấy rằng lúc đầu ông sĩ quan đã tin rằng Đức Giêsu là người tốt lành và có quyền năng chữa bệnh, vì thế ông mới tìm đến Người; nhưng ông còn tỏ ra mạnh tin hơn nữa khi nghĩ rằng một lời nói của Người từ xa cũng đủ sức chữa bệnh rồi chứ không cần đụng chạm đến bệnh nhân. Chính vì thế mà Đức Giêsu đã ca ngợi lòng tin của ông. b) Một tích chuyện nữa về lòng tin của dân ngoại được Mátthêu (15,21-28) và Marcô (7,24) thuật lại là cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và một phụ nữ Canaan. Chúng ta hãy đọc bản văn của Matthêu: Ra khỏi đó, Đức Giêsu lui về miền Tyr và Xiđôn, thì này có một người đàn bà Canaan, ở miền ấy đi ra, kêu lên rằng: “Lạy Ngài là con vua Đavít, xin rủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!” Nhưng Người không đáp lại một lời. Các môn đệ lại gần xin Người rằng: “Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi!” Người đáp: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi”. Bà ấy đến bái lạy mà thưa Người rằng: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!” Người đáp: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”. Bà ấy nói: “Thưa Ngài, đúng thế, những mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Bấy giờ Đức Giêsu đáp: “Này, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy. Từ giờ đó, con gái bà được khỏi”.

Chúng ta nhận thấy rằng lòng tin của bà thật là mạnh bởi vì bà đã kiên trì kêu xin bất chấp hai trở ngại: thứ nhất, lúc đầu Đức Giêsu xem ra phớt tỉnh, chẳng quan tâm đến lời xin của bà; thứ hai, Đức Giêsu nói cho bà biết rằng chưa đến lúc phải mang ơn

Tân ước

79

cứu độ cho dân ngoại. Thế nhưng, bất chấp hai trở ngại đó, bà cứ nài xin. Lòng tin của bà thật là mạnh, và đáng được ca ngợi. Vài độc giả có thể phê bình thái độ của Đức Giêsu là cứng cỏi. Chúng ta có thể giải thích như sau: tuy kế hoạch cứu độ mang tính cách phổ quát, dành cho tất cả mọi dân, nhưng được thực hiện cách tiệm tiến. Đức Giêsu muốn giới hạn hoạt động của Người trong vùng đất dân Israel; sau khi sống lại, Người sẽ sai các tông đồ mang Tin mừng đến với muôn dân. Câu trả lời của Đức Giêsu diễn tả chương trình tiệm tiến đó; thế nhưng lòng tin của bà Canaan mạnh mẽ đến nỗi đã làm cho Chúa đốt thời gian, tương tự như lời khẩn nài của Đức Maria tại tiệc cưới Cana. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể đọc câu chuyện theo một viễn tượng khác. Đức Giêsu đang thử thách lòng tin của bà, huấn luyện cho bà từ lòng tin sơ khởi tới đức tin trưởng thành hơn. Đức tin của bà được ca ngợi là mạnh mẽ, bởi vì bà vẫn giữ vững niềm tin kể cả khi Chúa xem ra thinh lặng. Đức Giêsu cũng sẽ trải qua cảm nghiệm ấy trên thập giá, khi thốt lên “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mc 15,34). Chính đức tin mạnh mẽ của bà mẹ đã cứu đứa con khỏi ma quỷ. Có lẽ đó là bài học mà các thánh sử muốn dành cho chúng ta. c) Một mẫu gương khác về lòng tin của người ngoại đạo có thể thấy nơi người Samari được chữa lành bệnh phong. Chỉ có Luca kể lại chuyện này ở chương 17 (câu 11-19). Trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu đi qua biên giới giữa hai miền Samari và Galilê. Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người mắc bệnh phong đến gặp Người. Họ dừng lại đằng xa và kêu lớn tiếng: “Lạy thầy Giêsu, xin rủ lòng thương xót chúng tôi!”. Thấy vậy, Đức Giêsu bảo họ: “Hãy đi trình diện với các tư tế”. Đang khi đi thì họ được sạch. Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn. Anh ta là người Samari. Đức Giêsu mới nói: “Không phải cả mười người đều được sạch

80

Thần Học Đức Tin

sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?”. Rồi Người nói với anh ta: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”. Không rõ thánh Luca có ý định gì khi chen đoạn văn này vào chương 17. Ở câu 8, các tông đồ đã nài xin Chúa Giêsu: “Xin tăng thêm lòng tin cho chúng con”, và Người trả lời: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thì dù anh em bảo cây dâu này: ‘hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc’, thì nó cũng sẽ vâng lời anh em”. (Chúng tôi sẽ trở lại với câu này khi học hỏi những lời giáo huấn của Đức Giêsu về đức tin dành cho các tông đồ). Và rồi, thánh sử kể tiếp câu chuyện trên đây. Tuy vậy, xem ra trọng tâm của vấn đề không phải là lòng tin nhưng là lòng biết ơn; trước đây, một người Samari đã được khen về lòng thương cảm bác ái đối với tha nhân (Lc 10,30-37), bây giờ một người Samari lại được khen về lòng biết ơn Thiên Chúa. Riêng về lòng tin, chúng ta có thể nói được rằng, dưới một phương diện nào đó, tất cả mười người phong đều có lòng tin vào quyền năng của Đức Giêsu cho nên họ mới kêu xin Người cứu chữa. Họ cũng tin vào lời Đức Giêsu khi họ vâng lời Người đi lên đền thờ để trình diện tư tế; và rồi trên đường đi, họ đã nhận được phép lạ. Thế nhưng khi người Samari trở lại để tạ ơn Người thì Người đã nói với anh ta: “Lòng tin đã cứu chữa anh”. Có lý do để nghĩ rằng ở đây cần phải dịch là: “đức tin đã cứu rỗi anh”. Trước đây, anh đã tin vào Đức Giêsu như là “Thầy”, và anh đã được lành bệnh. Bây giờ anh quay lại, sấp mình dưới chân Người vì đã chứng kiến phép lạ: đây phải là đức tin sau khi đã cảm nhận một sự can thiệp phi thường của Thiên Chúa trong cuộc đời. Kết quả của đức tin là ơn cứu độ, là một điều còn quý giá hơn sự lành bệnh. Dù sao, chắc chắn là thánh Luca viết cho các độc giả là những người đã tin vào Chúa Kitô, để họ suy gẫm chứ không chỉ dừng lại ở bình diện thuật chuyện.

Tân ước

81

2/ Sau khi khảo sát ba trường hợp kể lại lòng tin mạnh mẽ của dân ngoại, chúng ta hãy tìm hiểu bốn trường hợp nói về lòng tin nơi dân Israel, với những ngụ ý sâu xa dành cho các Kitô hữu: chữa lành một người bại liệt, chữa lành một phụ nữ xuất huyết, phục hồi sự sống cho con gái ông Giairô, chữa lành người mù ở Giêricô. a) Việc chữa người bại liệt đã được Marcô kể lại ở chương 2 (câu 1-12), và câu chuyện này cũng được Mátthêu (9,1-8) và Luca (5,17-26) thuật lại. Hôm ấy, người ta mang đến một người bại liệt để xin Đức Giêsu chữa lành. Lúc ấy Người đang giảng dạy, và đám đông vây kín chung quanh. Người ta dỡ mái nhà, ngay trên chỗ Người ngồi, làm thành một lỗ hổng, rồi thả người bại liệt nằm trên chõng xuống. Chúng ta đã biết câu chuyện tiếp diễn ra sao rồi. Đức Giêsu nói với người bại liệt: “Này con, con đã được tha tội rồi”. Thế là một cuộc tranh luận nảy lên về quyền tha tội của Đức Giêsu. Vì thế phép lạ chữa bệnh trở thành bằng chứng là Người có quyền tha tội. Tuy nhiên, điều đáng nêu bật ở đây là tất cả ba thánh sử đều ghi nhận rằng: “Thấy họ có lòng tin, Đức Giêsu bảo người bại liệt ...” (Mc 2,5; Mt 9,2; Lc 5,20). Câu văn nói đến lòng tin của những người đã mang bệnh nhân đến với Chúa, chứ không phải là lòng tin của chính đương sự. Ắt hẳn đàng sau câu chuyện này, tác giả muốn ám chỉ vai trò của cộng đoàn Kitô hữu đối với ơn chữa lành và giao hòa. Đành rằng ơn tha thứ tùy thuộc vào tấm lòng thống hối của con người khi đối diện với Đức Kitô, nhưng đức tin của cộng đoàn cầu nguyện có thể giúp cho kẻ chưa có đức tin được lãnh nhận hồng ân cứu độ. Nói khác đi, trình thuật này muốn cho thấy rằng cá nhân nhận được đức tin trong lòng Hội thánh. Đức tin là hồng ân Chúa ban cho mỗi người qua tác vụ của Hội thánh. Hội thánh rao giảng, dạy dỗ đạo lý đức tin, và Hội thánh cử hành các bí tích đức tin. Thêm vào đó, đức tin của tôi được nâng đỡ nhờ những chứng tá sống động trong cộng đồng Hội thánh.

82

Thần Học Đức Tin

b) Đề tài “lòng tin” còn được Tin mừng nhất lãm đề cập trong trường hợp một phụ nữ bị băng huyết được chữa lành và con gái ông Giairô sống lại (Mc 5,21-43; Mt 9,18-26; Lc 8,40-56). Ông Giairô có đứa con bị bệnh nguy kịch, và ông đến xin Đức Giêsu cứu chữa. Thế rồi đang khi Người còn trên đường đến nhà ông, thì em bé qua đời. Người đã khích lệ ông rằng: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (Mc 5,36). Xảy ra là cùng lúc ấy, một phụ nữ mắc bệnh băng huyết đã chạm vào áo của Người và bà đã được khỏi bệnh. Đức Giêsu nói với bà rằng: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con” (Mc 5,43). Trong cả hai trường hợp, Đức Giêsu đều nói đến lòng tin. Đối với người phụ nữ, thì chính lòng tin của bà đã cứu bà; trong trường hợp ông Giairô, lòng tin của người cha đã cứu được đứa con. Hai sự việc được ghép lại với nhau, và không dễ quả quyết ai mạnh tin hơn ai. Người cha được khuyến khích hãy cứ giữ vững lòng tin khi mọi sự hầu như đã tuyệt vọng rồi. Người phụ nữ thì tin rằng chỉ cần chạm đến Đức Giêsu thì sẽ được lành, cho dù Người không để ý đến. Tuy Người chẳng nói chẳng rằng nhưng điều này không có nghĩa là Người không ý thức việc chữa lành bà. Có lẽ nên nói rằng lòng tin mạnh mẽ của bà có sức mạnh lôi kéo lòng thương của Chúa. Dù sao, chúng ta nên lưu ý đến câu nói: “lòng tin của con đã cứu chữa con”: ý tưởng này được gặp thấy nhiều lần trong Tin mừng nhất lãm (Mc 5,34 và ss; 10,52 và ss; Mc 7,29; Mc 9,14-29 và ss; Lc 7,50; 17,29), và có thể hiểu cả về sự cứu chữa bệnh tật cũng như sự cứu độ thiêng liêng. Sau này tư tưởng này sẽ được khai triển nơi thánh Phaolô (Rm 10,9t). c) Liền sau hai phép lạ vừa nói, thánh sử Mátthêu kể tiếp việc chữa lành hai người mù (Mt 9,27-31). Khi Đức Giêsu đi đường, họ đi theo và kêu lên: “Lạy Con vua Đavít, xin thương xót chúng tôi!”. Khi Đức Giêsu về tới nhà, thì hai người mù này tiến lại gần. Người nói với họ:

Tân ước

83 “Các anh có tin là tôi làm được điều ấy không?”. Họ đáp: “Thưa Ngài, chúng tôi tin”. Bấy giờ Người sờ vào mắt họ và nói: “Các anh tin thế nào thì được như vậy”. Mắt họ liền được mở ra.

Hai người này đã tin vào Đức Giêsu, và kiên nhẫn tiếp tục nài nẵng trong suốt quãng đường cho đến khi Người về đến nhà. Có lẽ Người muốn làm phép lạ ở nơi kín đáo chứ không muốn làm nơi đô hội. Cũng có thể là Người muốn cho họ thêm lòng tin tưởng vào Người, bởi vì Người hỏi họ: “Các anh có tin là tôi làm được điều ấy không?”. Một ý kiến nữa muốn đọc bản văn trong khung cảnh Hội thánh: Đức Giêsu muốn đưa họ vào nhà để chữa lành họ: “nhà” ám chỉ Hội thánh, nơi mà Chúa Giêsu hiện diện để ban ơn cứu độ cho những ai tuyên xưng đức tin. Sang đến chương 20, Mátthêu kể lại một phép lạ khác chữa người mù, nhưng lần này câu chuyện được nhắc đến trong cả ba cuốn Nhất lãm, đó là chuyện anh mù ở Giêricô (Mc 10,46-52; Mt 20,29-34; Lc 18,35-43), và xem ra các tác giả không chỉ ghi lại sự kiện nhưng còn muốn áp dụng vào hành trình đức tin của người Kitô hữu. Theo Marcô, hôm ấy Đức Giêsu và các môn đệ đến thành Giêricô. Một người hành khất mù tên là Bartimê đang ngồi ở vệ đường. Vừa nghe nói đó là Đức Giêsu Nazareth, anh ta bắt đầu kêu lên rằng: “Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin rủ lòng thương tôi!”. Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta lại càng kêu lớn tiếng: “Lạy Con vua Đavít, xin rủ lòng thương tôi!”. Đức Giêsu đứng lại và nói: “Gọi anh ta lại đây!”. Người ta gọi anh mù và bảo: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy”. Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu. Người hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?”. Anh mù đáp: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được”. Người nói: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu

84

Thần Học Đức Tin anh!”. Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi.

Câu chuyện xem ra đơn giản, nhưng các nhà chú giải đã đọc thấy nơi câu chuyện này hành trình của một con người muốn đến cùng đức tin: anh ta gặp phải nhiều trở ngại. Trước hết bởi vì anh mù cho nên anh không thấy và không biết được Đức Giêsu đi ngang qua. Phải có ai mách bảo thì anh mới biết. Luca đã nêu bật chi tiết này. Thế rồi anh bắt đầu kêu gào xin Đức Giêsu cứu anh. Tuy nhiên tiếng kêu của anh đã bị dư luận lấn át đi: họ muốn bịt miệng anh lại; nhưng anh lại càng kêu gào to hơn nữa. Lòng tin của anh nằm ở chỗ đó. Đức Giêsu đã nghe thấy tiếng kêu và gọi anh lại. Lần này, ta thấy một nhóm người khác khuyến khích anh hãy đến với Người. Phải chăng nhóm này tượng trưng cho Hội thánh, những người đồng hành với con người trên đường đức tin? Kết luận của câu chuyện cũng đáng suy nghĩ: anh mù đã vất áo choàng lại (nghĩa là đồ tùy thân rất thiết yếu đối với một người nghèo như anh: xc. Xh 22, 25-26) để đến với Chúa; rồi sau khi đã nhìn thấy rồi thì anh quyết định đi theo Người trên con đường Người đi. Quả là hình ảnh tốt đẹp của một người làm môn đệ “đi theo Chúa”. Một cách tương tự, Luca viết: “Lập tức, anh ta nhìn thấy được và theo Người, vừa đi vừa tôn vinh Thiên Chúa. Thấy vậy, toàn dân cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa”. Nên biết là theo Luca, việc chúc tụng Thiên Chúa là một hình thức biểu lộ sự thán phục và lòng tin của những người đã chứng kiến sự can thiệp của Thiên Chúa (x. Lc 1,64; 7,16; 13,13; 17,15), như chúng ta đã có dịp ghi nhận khi nói đến một người Samari được chữa khỏi bệnh phong. Hợp với lời chúc vinh của anh, đám đông cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa. Rõ ràng là thánh sử muốn nói đến cộng đồng Hội thánh loan truyền ơn cứu độ qua những kỳ công Chúa thực hiện cho nhân loại. Đến đây, chúng ta chuyển sang một nhóm khác, đó là các môn đệ.

Tân ước

85

C. Các môn đệ Chúng ta xếp những đoạn văn liên quan đến các môn đệ vào một nhóm, bởi vì họ là những người sống gần với Chúa, và được Người huấn luyện đức tin cả về lý thuyết cũng như về thực hành. Thật vậy, vào buổi đầu, các ông đến với Đức Giêsu với một niềm tin cũng giống nhiều người khác, nghĩa là một niềm tin mong đợi phép lạ; nhưng dần dần các ông được hướng dẫn đến việc gắn bó với Người; điều này giả thiết một sự mạc khải để họ nhận ra căn tính của Đức Giêsu, như đã xảy ra cho ông Simon Phêrô (Mt 16,17) và cho những người bé nhỏ (Mt 11,25). Dù sao, phải chờ đến khi Người sống lại từ cõi chết và Thánh Linh được trao ban thì sự mạc khải mới được kiện toàn. Chúng ta hãy đọc lại vài bản văn tiêu biểu ghi lại cuộc tiến triển của các môn đệ về lòng tin. 1. Cả ba tác giả Tin mừng nhất lãm đều thuật lại việc Đức Giêsu kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên (Simon và Anrê, Giacôbê và Gioan) ngay khi vừa bắt đầu sứ vụ (Mt 4,18-22; Mc 1,6-20; Lc 5,1-11): Người gọi các ông, và các ông đã bỏ tất cả để đi theo Người. Riêng Luca thì gắn việc đi theo Chúa với một phép lạ. Hôm ấy, thấy đông người đến nghe giảng, Đức Giêsu xuống thuyền của ông Simon, và xin ông chèo thuyền xa bờ một chút. Từ trên thuyền này, Người giảng dạy đám đông. Giảng xong, Người bảo ông Simon hãy chèo ra chỗ sâu mà thả lưới bắt cá. Ông Simon đáp: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”. Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá đến nỗi hầu như rách cả lưới. Sau khi chứng kiến phép lạ ấy các môn đệ mới đi theo Người. Các nhà chú giải đã nêu câu hỏi về thời điểm xảy ra phép lạ này: trước hay là sau khi Chúa phục sinh? Lý do bởi vì Tin mừng thứ tư cũng thuật lại một phép lạ tương tự sau khi Chúa sống lại

86

Thần Học Đức Tin

(Ga 21,1-12). Chúng tôi không muốn đi vào cuộc tranh luận này, nhưng chỉ muốn đưa ra vài nhận xét liên quan đến chủ đề đức tin đang bàn. Tuy rằng bản văn của Luca không nói đến “lòng tin” của ông Simon, nhưng ai cũng đoán được điều đó. Mặc dù đã vất vả một đêm vất vả mà không bắt được con cá nào, nhưng ông đã nghe theo lời của Đức Giêsu (nghĩa là tin tưởng vào Người) mà quăng lưới lần nữa. Thiết tưởng không nên bỏ qua hồi kết. Ông Simon đã tin vào Đức Giêsu cho nên ông đã thả lưới. Sau khi đã chứng kiến phép lạ, ông đã sấp mặt đưới chân Đức Giêsu và nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” (Lc 5,8). Chắc hẳn đây là một thứ tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu, nhưng chúng ta sẽ trở lại sau. 2. Nhân tiện, khi nói đến chiếc thuyền của ông Simon, các tác giả Tin mừng quen gán thêm cho nó một nghĩa biểu tượng: chiếc thuyền ấy tượng trưng cho Hội thánh. Đức Giêsu đã ngồi trên thuyền để giảng. Và nhiều chuyện đã xảy ra trên chiếc thuyền ấy. Ba tác giả Tin mừng nhất lãm đều kể lại việc Đức Giêsu dẹp yên bão tố khi Người cùng đi với họ (Mt 8,23-27; Mc 4,36-41; Lc 8,23-25). Sau một ngày giảng dạy, Đức Giêsu xuống thuyền để sang bờ bên kia. Bỗng dưng một trận cuồng phong nổi lên, nhưng lúc đó Người ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Sóng ập vào thuyền. Các môn đệ hoảng hốt đánh thức Người và nói: “Thưa Thầy, chúng ta chết mất, Thầy chẳng lo gì sao?”. Người đã thức dậy, và đã dẹp tan sóng gió. Điều đáng lưu ý là những lời bình luận tiếp theo. Theo như Marcô (4,40), Đức Giêsu trách các ông: “Sao nhát thế? Anh em vẫn chưa có lòng tin hay sao?”. Câu nói này hơi khó hiểu. Các ông tin vào Đức Giêsu rồi chứ, vì thế cho nên mới đánh thức Người dậy, xin Người giúp đỡ. Tại sao họ lại bị trách là “chưa tin”? Thiết tưởng có thể phân biệt hai cấp độ của việc “tin”: cấp thứ nhất, hiểu theo

Tân ước

87

nghĩa tự nhiên, thì các môn đệ đã tin rồi; nhưng các ông chưa đến cấp thứ hai, đó là tin như là “đức tin”. Có lẽ đó là ý nghĩa của bản văn Luca khi viết “Đức tin anh em ở đâu?” (Lc 8,25). Mátthêu xem ra cũng hiểu theo nghĩa đó: “Sao nhát thế, hỡi những kẻ kém lòng tin?” (Mt 8,26). Thật vậy, các môn đệ đã có lòng tin, nhưng chưa có đức tin thật sự. Theo như Marcô (4,18) lưu ý, lúc ấy Chúa Giêsu đang ở đàng lái của thuyền: các ông đánh thức Người vì hoảng hốt; theo bản năng tự nhiên, họ muốn Người can thiệp. Tiếc rằng họ chưa được đức tin vững mạnh để nhận ra rằng Người ở đàng lái, nghĩa là Người thực sự đang điều khiển chiếc thuyền; đối với họ, Đức Giêsu đang ngủ và chẳng quan tâm gì đến họ (“Thưa Thầy, chúng ta chết mất, Thầy chẳng lo gì sao?”, Mc 4,38). Các môn đệ cần được dẫn dắt từ chỗ kém tin đến chỗ có đức tin. 3. Một câu chuyện tương tự được Mátthêu kể lại ở chương 14, trong khung cảnh của việc hóa bánh. Tất cả bốn tác giả Tin mừng đều thuật lại phép lạ hóa bánh (Mt 14,13-21; Mc 6,30-44; Lc 9,10-17; Ga 1-15), và ngoại trừ Luca, các tác giả kể tiếp phép lạ Chúa đi trên mặt Biển Hồ (Mt 14,22-33; Mc 6,45-52; Ga 6,1621). Hai biến cố này gợi lên hình ảnh ông Môsê đã đưa dân Israel vượt qua Biển Đỏ và nuôi dân trên sa mạc bằng bánh manna. Duy có Mátthêu xen thêm một chi tiết liên quan đến ông Phêrô (Mt 14,28-31): Ông Phêrô liền thưa với Người: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài”. Đức Giêsu bảo ông: “Cứ đến!”. Ông Phêrô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với Đức Giêsu. Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và bắt đầu chìm, ông la lên: “Thưa Ngài, xin cứu con với!”. Đức Giêsu liền đưa tay nắm lấy ông và nói: “Hỡi kẻ kém lòng tin! Sao lại hoài nghi?”. Khi thầy trò lên thuyền, thì gió lặng.

88

Thần Học Đức Tin

Khi thuật lại chuyện này, có lẽ Mátthêu muốn lôi kéo chú ý đến ông Phêrô là người mà ở chương 16 sẽ tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Hiện thời, ông đã được chứng kiến một phép lạ diễn ra cho bản thân, đó là đi trên mặt nước. Thế nhưng chẳng bao lâu, ông đã bị trách là “kém lòng tin”. Chúng ta có thể lý luận như thế này: bao lâu ông còn giữ được lòng tin thì ông còn đi được trên mặt nước; đến khi lòng tin bị suy giảm thì ông bị đắm chìm. Thật vậy, chính Chúa Giêsu đã giải thích cho ông biết điều đó: “Tại sao lại hoài nghi?” Có một bài học ở đây cho hành trình đức tin. Đức tin nhắm mục tiêu là Chúa Kitô: bao lâu chúng ta nhìn lên Người thì chúng ta an tâm; nhưng khi chúng ta không nhìn lên Người nữa mà chỉ thấy sóng gió quanh ta thì ta sẽ bị chìm. Nói cho đúng, đường đời này không những gặp nhiều khúc gập ghềnh mà còn bị những cuộc tấn công; nhưng ai có đức tin thì kiên tâm vững bước, còn ai nghi ngờ nao núng thì sẽ bị quỵ. 4. Thánh Mátthêu kể tiếp rằng sau khi Đức Giêsu đã lên thuyền thì những kẻ ở khác bái lạy Người và nói: “Ngài thật là Con Thiên Chúa” (Mt 14,33). Thánh Marcô thì không lạc quan như vậy bởi vì ông viết: “Các ông cảm thấy bàng hoàng sửng sốt, vì các ông đã không hiểu phép lạ bánh hóa nhiều: lòng các ông còn chai đá!” (Mc 6,52). Hai câu kết luận không trái nghịch nhau đâu, bởi vì chúng ta sẽ thấy rằng đức tin của ông Phêrô cũng như của các môn đệ khác vẫn còn nhiều bất toàn lắm. Thật vậy, cao điểm của lời tuyên xưng đức tin của Phêrô được Matthêu ghi nhận ở chương 16 câu 18: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Đáp lại, Đức Giêsu nói với ông: “Này anh Simon con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời”. Chúng ta có thể nhận thấy rằng một đàng Chúa Giêsu chấp nhận rằng lời tuyên xưng của ông Phêrô

Tân ước

89

thật chính xác, nhưng đàng khác, đức tin ấy là do Chúa Cha đã ban cho ông chứ không phải là do ông tự sức khám phá. Trên thực tế, đọc kỹ lại các trình thuật về việc tuyên xưng của ông Phêrô được cả ba tác giả ghi lại (Mt 16,18; Mc 8,29; Lc 9,20), ta thấy rằng cái hình ảnh về Đấng Kitô (hay Mêsia) nằm trong đầu óc của ông không trùng hợp với bức chân dung về Đấng Kitô theo ý định của Thiên Chúa. Thật vậy, liền sau đó, khi Đức Giêsu bày tỏ số phận của Người là sẽ phải chịu nhiều đau khổ, bị loại bỏ, bị giết chết, thì ông liền kéo riêng Người ra và can ngăn. Thế là Đức Giêsu bảo ông: “Satan, lùi lại đàng sau Thầy! Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16,22-23; Mc 8,32b-33). Như vậy, tuy lời tuyên xưng của ông Phêrô là cao điểm của đức tin Hội thánh về bản thân Đức Giêsu, nhưng chưa thể nói rằng các ông đã đạt được một niềm xác tín trọn hảo. Chúng ta hãy tiếp tục theo dõi tiến trình giáo dục đức tin của Chúa dành cho các môn đệ. 5. Sau khi đã loan báo cuộc Thương khó, Đức Giêsu đưa ba môn đệ là Phêrô, Gioan và Giacôbê, và Người đã biến đổi hình dạng. Truyền thống Kitô giáo luôn giải thích biến cố này như là một cách thức chuẩn bị tâm hồn các môn đệ để khỏi bị vấp ngã trong cuộc Tử nạn của Thầy, xét vì tất cả nằm trong chương trình của Thiên Chúa đã được tiên báo trong Lề Luật (tượng trưng nơi ông Môsê) và các ngôn sứ (tượng trưng nơi ông Êlia), theo như lời giải thích của chính Đức Giêsu sau khi phục sinh (Lc 24,27.44). Liệu đức tin của ba vị tông đồ có thêm vững mạnh sau khi chứng kiến quang cảnh đó không? Những ai quen đọc Tin mừng đã biết câu trả lời. Một chuyện đáng lưu ý là sau khi Đức Giêsu từ trên núi xuống thì một người đến trình bày với Người một trường hợp nan giải.

90

Thần Học Đức Tin

Số là ông có đứa con bị quỷ ám, ông đưa nó đến các môn đệ nhưng các ông này bó tay. Đức Giêsu đáp: “Ôi thế hệ cứng lòng không chịu tin và gian tà! Tôi còn phải ở với các người cho đến bao giờ, còn phải chịu đựng các người cho đến bao giờ nữa? Đem cháu lại đây cho tôi” (Mt 17,17; Mc 9,19-20; Lc 9,41). Không hiểu hạng người nào bị khiển trách là “cứng lòng tin”: phải chăng tất cả các người đương thời? Hay là người cha của đứa bé? Hay là chỉ riêng các môn đệ? Đọc tiếp câu chuyện, ta được biết rằng sau khi đã chữa lành đứa bé rồi, các môn đệ lại gần Người và hỏi: “Tại sao chúng con đây lại không trừ được tên quỷ ấy?” Người nói với các ông: “Tại anh em kém tin! Thầy bảo thật anh em: nếu anh em có lòng tin lớn chỉ bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: Rời khỏi đây, qua bên kia!, nó cũng sẽ qua, và chẳng có gì mà anh em không làm được” (Mt 17,20). Như vậy, dưới cái nhìn của Mátthêu, lời trách “cứng lòng, không chịu tin” trên đây được áp dụng cách riêng cho các môn đệ: tại vì các ông không tin cho nên không thể trừ quỷ được! Tuy nhiên, Marcô trình bày vấn đề hơi khác, bởi vì nhắm đến người cha: nếu ông tin thì con của ông sẽ được chữa lành. Thật vậy, trước đó, người cha thưa với Đức Giêsu: “Nếu Thầy có thể làm được gì, thì xin chạnh lòng thương mà cứu giúp chúng tôi”. Đức Giêsu nói với ông ta: “Sao lại nói: nếu Thầy có thể? Mọi sự đều có thể đối với người tin”. Lập tức, cha đứa bé kêu lên: “Tôi tin! Xin Thầy giúp lòng tin yếu kém của tôi!” (Mc 9,22-24). Về sau, khi về đến nhà, để trả lời câu hỏi của các môn đệ về lý do gì mà họ không trừ được quỷ, thì Đức Giêsu chỉ nói: “Giống thần ấy không thể xuất ra nếu người ta không cầu nguyện” (Mc 9,29). Như vậy, đang khi Mátthêu nhấn mạnh đến đức tin thì Marcô đòi hỏi cầu nguyện. Phải chăng đức tin và sự cầu nguyện đồng nghĩa với nhau? Có lý để khẳng định như vậy, bởi vì ở chương 18 của Luca, sau khi nhắn nhủ các môn đệ về sự cần thiết phải bền tâm cầu nguyện, không được nản chí, Đức Giêsu

Tân ước

91

kết luận: “Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa không?” (Lc 18,19). Lòng tin (có lẽ nên nói “đức tin” thì đúng hơn) không đồng hóa với sự cầu nguyện, nhưng nó nuôi dưỡng sự cầu nguyện: người ta chán nản không muốn cầu nguyện bởi vì không còn đức tin nữa. 6. Tin mừng nhất lãm còn cung cấp cho chúng ta những ý tưởng về “đức tin và sự cầu nguyện” cũng như “đức tin chuyển núi dời non” trong một bối cảnh khác. Luca đặt câu ví về đức tin chuyển núi dời non ở chương 17 tiếp theo lời cầu xin của các tông đồ và không liên quan đến câu chuyện nào hết: Các tông đồ thưa với Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con”. Chúa đáp: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: ‘Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc’, nó cũng sẽ vâng lời anh em” (Lc 17,5-6)

Marcô gắn câu nói với sự tích cây vả bị khô héo sau khi Đức Giêsu lên Giêrusalem (Mc 11,12-14.20-26). Mátthêu cũng đặt trong bối cảnh ấy (Mt 21,18-22) và như vậy có dịp lặp lại điều đã có lần nói trước (Mt 17,20). Câu chuyện cây vả bị khô héo đã đặt ra vấn nạn cho nhiều người đọc. Trên đường đi vào thành Giêrusalem, Đức Giêsu cảm thấy đói. Trông thấy một cây vả ở bên đường, Người lại gần nhưng không tìm được gì cả, chỉ thấy lá mà thôi, nên Người nói: “Từ nay, không bao giờ có trái nữa”. Cây vả chết khô tức khắc. Đó là phiên bản của Mátthêu (21,18-19). Marcô thì thêm hai chi tiết: thứ nhất, lúc ấy không phải là mùa vả; thứ hai, hôm sau cây vả mới chết. Tại sao Chúa Giêsu lại làm điều phi lý như vậy? Thực ra, câu chuyện phi lý này hàm chứa một bài học thâm sâu. Câu chuyện này được đặt trong bối cảnh của việc Đức Giêsu

92

Thần Học Đức Tin

long trọng lên Giêrusalem và được tung hô như Đấng Mêsia (x. Mc 11,1-11); sau đó Người vào đền thờ xua đuổi những kẻ buôn bán (x. Mc 11,15-19). Cây vả rậm lá mà không có trái là tượng trưng của thành phố Giêrusalem và đền thờ. Họ chỉ có lá mà không có trái. Những cành lá xum xuê là những tiếng tung hô vang lừng đón chào Đức Giêsu; nhưng nó không sinh hoa trái, nghĩa là dân thành chưa khám phá đích thực bản thân của Đức Giêsu, vì thế không sinh ích gì cho họ. Hiểu như vậy, cây vả khô héo tượng trưng cho số phận của dân Israel. Nói khác đi, chúng ta nên đọc sự tích cây vả theo ý nghĩa tượng trưng. Hình ảnh cây khô héo (hoặc cây không sinh trái) đã được sử dụng đây đó trong sách Tin mừng. Vào lúc thi hành sứ vụ, ông Gioan Tẩy giả đã cảnh báo họ rằng cây nào không sinh hoa trái thì sẽ bị chặt và quăng vào lửa (x. Mt 3,10). Sang chương kế tiếp câu chuyện này, thánh Marcô thuật lại cuộc tranh luận của Chúa với các giới lãnh đạo đền thờ, và ngài kể dụ ngôn về các tá điền sát nhân (Mc 12,1-12), ám chỉ dân Israel đã không mang lại hoa trái khi ông chủ sai người đầy tớ đến thu hoạch (câu 2). Hình ảnh về đức tin chuyển núi dời non được Marcô và Mátthêu chen vào đây. Qua hình ảnh này, Chúa Giêsu muốn nói rằng đức tin được thông dự vào quyền năng của Thiên Chúa. Cách riêng, hai thánh sử liên kết sức mạnh đó với lời cầu nguyện: “Tất cả những gì anh em lấy lòng tin mà xin khi cầu nguyện, thì anh em sẽ được” (Mt 21,12); “Thầy nói với anh em: tất cả những gì anh em xin khi cầu nguyện, anh em cứ tin là mình đã được rồi, thì sẽ được như ý” (Mc 11,24). Chúng ta có thể giải thích hiệu lực của lòng tin đối với việc cầu nguyện như sau: một khi ai đã có đức tin vững mạnh thì họ biết hòa hợp với ý Chúa, họ liên hết chặt chẽ với ý Chúa. Và Thiên Chúa sẽ thực hiện kế hoạch của Người ở nơi họ. Hiệu lực của lời cầu nguyện nằm ở

Tân ước

93

chỗ đó: không phải là ta xin điều ta muốn đạt được theo sở nguyện riêng, nhưng là để cho Thiên Chúa tác động nơi mình điều mà Người muốn. Trên thực tế, điều này đòi hỏi phải vượt thắng rất nhiều chướng ngại, bởi vì chúng ta muốn khư khư nắm giữ ý định của mình, chứ không chịu thuần thục cho Chúa điều khiển. D. “Không tin” và “tin” vào Chúa Phục sinh Các môn đệ là những người đã sống gần Đức Giêsu, đã quan sát những việc làm của Người, đã lắng nghe lời giảng của Người, nhưng họ vẫn chưa hoàn toàn tin vào Người và bám sát Người cho đến chết. Lòng tin của họ đã bị thử thách nặng nề khi Người bị bắt, bị đóng đinh và chết. Bao nhiêu giấc mơ đặt vào Người đã tan tành. Sự thất vọng đè nặng trên tâm hồn của họ đến nỗi ngay cả khi được các phụ nữ báo tin là Đức Kitô đã sống lại, họ vẫn không tin. Thánh Marcô đã thuật lại phản ứng của các tông đồ như sau (Mc 16,9-16): Sau khi sống lại vào lúc tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giêsu hiện ra trước tiên với bà Maria Macđala (...) Bà đi báo tin cho những kẻ đã từng sống với Người mà nay đang buồn bã khóc lóc. Nghe bà nói Người đang sống và bà đã thấy Người, các ông vẫn không tin. Sau đó, Người tỏ mình ra dưới một hình dạng khác cho hai người trong nhóm các ông, khi họ đang trên đường đi về quê. Họ trở về báo tin cho các ông khác, nhưng các ông ấy cũng không tin hai người này. Sau cùng, Người tỏ mình ra cho chính Nhóm Mười Một đang khi các ông dùng bữa. Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy. Người nói với các ông: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan

94

Thần Học Đức Tin báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án.

Đoạn văn này chứa đựng nhiều nghịch lý. Một đàng, bản văn nhắc đi nhắc lại rằng các tông đồ (Nhóm Mười Một) không tin rằng Chúa Giêsu đã sống lại, bất chấp lời chứng của những người đã gặp Chúa. Đàng khác, chính Chúa Giêsu đã khiển trách các ông là cứng lòng, nhưng lại ủy thác cho các ông đi loan báo Tin mừng ngõ hầu ai tin thì được cứu độ. Có lẽ chúng ta cần phải phân biệt nhiều bình diện. Khi Đức Giêsu mới bắt đầu sứ vụ, Người đã gặp những chống đối, cách riêng từ phía những người đồng hương và đồng bào của mình. Họ “không tin” Người. Tuy nhiên, Người cũng đã gặp được nhiều người tin, về phía dân ngoại và dân Israel. Các môn đệ cũng tin vào Người, tuy lòng tin của họ còn nhiều khiếm khuyết. Đức Giêsu đã huấn luyện họ bằng nhiều cách để giúp cho họ tăng trưởng lòng tin. Tuy nhiên tất cả xem ra công dã tràng với cái chết của Thầy trên thập giá. Bây giờ chúng ta bước sang một bình diện khác, liên quan đến sự sống lại của Đức Giêsu. Tất cả bốn sách Tin mừng đều cho thấy rằng việc nhìn nhận Người không phải là đơn giản. Các môn đệ cần được một ơn đặc biệt để có thể tin vào Chúa Giêsu phục sinh. Tin mừng thứ tư cho thấy điều đó nơi bà Maria Macđala, người môn đệ yêu dấu, các thánh tông đồ. Tin mừng nhất lãm cũng khẳng định như vậy, chẳng hạn khi thuật lại việc Chúa phục sinh hiện ra với hai môn đệ trên đường về Emmaus. Họ thấy Người nhưng không nhận ra Người. Thậm chí họ còn kể lại cho người khách lạ tâm trạng băn khoăn sau khi nghe tin rằng Người đã sống lại. Thế rồi, Người đã trách họ: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ” (Lc 24,25). Sau cùng, họ đã nhận ra Người khi Người bẻ bánh cho họ: “Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng

Tân ước

95

Người lại biến mất” (Lc 24,31). Trở lại đoạn văn của Marcô, chúng ta nhận thấy lời khiển trách “không tin và cứng lòng” nằm ở bình diện khác, không giống như thời mà Đức Giêsu còn sống trên đời. Từ nay, “tin” không còn là tin tưởng, tín thác như xưa, nhưng là “đức tin”. Đức tin là điều kiện để được cứu rỗi. Tin là chấp nhận Tin mừng mà các tông đồ rao giảng; việc tin vào Tin mừng cũng hàm ngụ việc lãnh phép rửa (x. Mc 16,15-20; Mt 28,16-20). Khỏi nói ai cũng biết, các thánh tông đồ là những người đầu tiên phải tin vào Chúa Kitô. Họ đi rao giảng Chúa Kitô. chứ không phải là kể lại lòng tin của mình. Marcô mở đầu và kết thúc với những ý tưởng hầu như trùng hợp. Vào lúc mở đầu sứ vụ, Đức Giêsu đã loan báo: “Thời kỳ đã mãn, và Triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin mừng” (Mc 1,15). Đến khi chuyển giao sứ vụ cho các tông đồ, Người tuyên bố: “Anh em hãy đi loan báo Tin mừng ... Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ; còn ai không tin thì sẽ bị kết án” (Mc 16,15). Tin vào Tin mừng là tin vào Đức Giêsu Kitô. Kết luận Chúng ta đã khảo sát những bản văn liên quan đến “tin” trong Tin mừng nhất lãm. “Tin” bao hàm nhiều thái độ khác nhau, ở nhiều cấp độ khác nhau. 1) Có lúc “tin” được hiểu như là sự tin tưởng (tín nhiệm) vào Đức Giêsu, một kẻ sẵn sàng làm phép lạ để cứu giúp. Đây là điều kiện tối thiểu để Đức Giêsu làm phép lạ. Vì thế Người không làm phép lạ tại Nazareth bởi vì họ thiếu lòng tin ấy. Tin mừng cũng kể lại nhiều trường hợp Đức Giêsu khước từ không làm phép lạ, bởi vì người ta chỉ muốn thử thách Người thôi (x. Mc 8,11: “Sao thế hệ này lại xin một dấu lạ? Tôi bảo thật cho các ông biết: thế hệ này sẽ không được một dấu lạ nào cả”; Mt 16,4:

96

Thần Học Đức Tin

“Thế hệ gian ác và ngoại tình này đòi dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giôna”; x. Lc 11,29). Khi chịu treo trên thập giá, vài lãnh đạo đã thách thức: “Ông Kitô vua Israel, cứ xuống khỏi thập giá bây giờ đi, để chúng ta tin” (Mc 15,32; Mt 27,42). 2) Có lúc “tin” được hiểu là đón nhận lời giảng của Đức Giêsu. Trên đây, chúng ta nhận thấy nhiều đoạn văn của Tin mừng nhất lãm bàn về “lòng tin” trong khung cảnh Đức Giêsu làm phép lạ. Thế nhưng Đức Giêsu đâu có phải chỉ là một pháp sư hay một y sĩ? Người đã được sai đến để loan báo Tin mừng. Người đã dành nhiều thời gian và công sức cho việc giảng dạy. Vì thế Người cũng mong rằng những lời giảng được đáp ứng. Sự đáp ứng này được các tác giả Tin mừng nhất lãm diễn tả bằng nhiều từ ngữ khác nhau: tin, nghe, hiểu. Theo Marcô (1,15), ngay từ khi bắt đầu sứ vụ, Đức Giêsu đã kêu gọi người nghe hãy “hoán cải và tin vào Tin mừng”. Tư tưởng này cũng gặp thấy nơi Mátthêu và Luca tuy được đặt ở vào một thời điểm muộn hơn: “Khốn cho ngươi, hỡi Khorazin! Khốn cho ngươi, hỡi Betsaiđa! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các người mà được làm tại Tyr và Siđôn, thì họ đã mặc áo vải thô, rắc tro lên đầu tỏ lòng sám hối” (Mt 11,21; Lc 10,13-15). Dù sao, sự hoán cải hoặc sám hối là kết quả cuối cùng của việc thấy các dấu lạ và nghe các lời giảng của Đức Giêsu. Để được vậy, các thính giả phải “nghe” không theo nghĩa là để cho lời giảng lọt vào tai, nhưng nhất là lọt vào con tim của mình. “Ai có tai thì nghe!” (Mc 4,9 và tt.).19 “Xin mọi người nghe tôi đây, và hiểu cho rõ” (Mc 7,14). Luca trình bày khuôn mẫu của việc lắng nghe Lời Chúa nơi Đức Maria (Lc 2,19.51), người thân mẫu

19

Mc 4,9 ss; 4,23; 7,16; Mt 11,15; 13,43.

Tân ước

97

của Đức Giêsu nhưng đã trở nên môn sinh của Người (Lc 8,19; 11,27-29). Thật vậy, đối với Đức Giêsu, hạnh phúc đích thực của người trở nên mẹ và thân nhân ở chỗ lắng nghe và thực hành lời Chúa (Mc 3,34). Đến đây, ta thấy việc “tin nhận” mang thêm một chiều kích nữa, đó là thực hành. “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21; Lc 6,46-49). Trên thực tế, điều này không dễ gì. Các thánh sử ghi nhận rằng không những dân chúng mà ngay cả các môn đệ cũng không hiểu các dụ ngôn (Mc 4,34).20 Những người này đã đến xin Đức Giêsu giải thích, và chính Người khẳng định rằng cần phải được ơn riêng thì mới hiểu được mầu nhiệm Nước Trời (x. Mt 13,11). Nói cho cùng, vấn đề then chốt ở đây không phải là hiểu biết một đạo lý cao siêu huyền nhiệm cho bằng nhận ra chân tướng của Đức Giêsu. Như đã nói trên đây, cao điểm của sự phát biểu là lời tuyên xưng của ông Simon Phêrô: “Thầy là Đấng Kitô” (Mc 8,29 và ss.). Tuy nhiên, sau việc tuyên xưng này, Đức Giêsu còn yêu cầu các môn đệ hãy đi thêm bước nữa, đó là từ bỏ mọi sự để đi theo Người: Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Mc 8,34-35).

3) Tin là thế đó: chấp nhận lời giảng của Đức Giêsu, từ bỏ tất cả để đi theo Người (Mc 10,21 và ss), và đi theo Người cho đến thập giá (Mt 10,38; Lc 14,27). Nói tắt: tin là trao phó bản thân Các môn đệ cũng chẳng hiểu được các phép lạ, và vì thế họ đã bị khiển trách như trường hợp phép lạ hóa bánh: “Anh em chưa hiểu chưa thấu sao? Anh em chưa hiểu ư?” (Mc 8,17.21). 20

98

Thần Học Đức Tin

cho Đức Giêsu. Tư tưởng này sẽ được khai triển nơi thánh Phaolô và thánh Gioan, nhưng đã được gói ghém trong Tin mừng nhất lãm rồi. Một nhận xét cuối cùng. Chúng ta đã biết chuyện gì đã xảy ra cho các môn đệ khi Đức Giêsu chịu chết. Các môn đệ đã bỏ Thầy (x. Mt 26,31), và họ cũng chẳng tin là Người đã sống lại. Nhưng Đức Kitô phục sinh đã quy tụ họ lại, đã ban Thánh Linh cho họ để thi hành một sứ vụ mới. Trong số các tông đồ, ta thấy nổi bật một nhân vật, đó là Phêrô: ông đã mất lòng tin, nhưng Đức Giêsu đã hứa là sẽ cầu nguyện cho ông ngõ hầu ông chỗi dậy để củng cố lòng tin cho anh em (x. Lc 22,32). Đức tin không chỉ bao hàm một tương quan riêng biệt với Đức Kitô mà còn mang một chiều kích cộng đoàn, như ta thấy trong sách Công vụ Tông đồ. II. Công vụ Tông đồ Truyền thống Kitô giáo nhìn nhận rằng tác giả của sách Công vụ Tông đồ là thánh Luca, tác giả của sách Tin mừng thứ ba. Như vậy có sự tiếp nối liên tục giữa hai tác phẩm. Trong quyển Tin mừng tác giả “tường thuật tất cả những việc Đức Giêsu làm và những điều Người dạy, kể từ đầu cho tới ngày Người được rước về trời” (Cv 1,1-2); trong quyển thứ hai, thì kể lại những hoạt động của các thánh tông đồ, nhờ sức mạnh của Thánh Linh “làm chứng nhân cho Người tại Giêrusalem, trong khắp miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Các tông đồ đã được đặt làm chứng nhân cho cuộc phục sinh của Đức Giêsu (Cv 1,22); họ làm chứng về những điều họ đã thấy và đã nghe (Cv 4,20). Trong lãnh vực đang bàn, chúng ta nhận thấy có sự tiến triển trong quan niệm về đức tin: trước đây, Đức Giêsu mời gọi các thính giả hãy tin tưởng vào Người như là kẻ được Thiên Chúa gửi đến để thiết lập Nước Trời. Bây giờ các tông đồ kêu gọi các

Tân ước

99

thính giả hãy tin vào Đức Giêsu đã chết và phục sinh: Đức Giêsu là trọng tâm của lời giảng của các tông đồ cũng như trọng tâm của đức tin các tín hữu. Đức tin cũng tạo ra một mối dây liên kết các tín hữu thành một cộng đoàn Hội thánh. 1) Các thánh tông đồ làm chứng cho Đấng Phục sinh bằng lời nói và hành động. Dầu vậy, sách Công vụ Tông đồ nêu bật cách riêng công tác rao giảng: “các tông đồ hằng ngày giảng dạy và loan báo Tin mừng” (Cv 5,42). Qua câu nói ngắn ngủi này, các học giả phân biệt hai hình thức chính của việc rao giảng: “loan báo” (kerygma) dành cho các người ngoại đạo, còn “giảng dạy” (điđakhê) dành cho những người đã chấp nhận đức tin (xem Cv 11,26; 15,35; 18,25; 20,20). Thánh Luca còn ghi lại bốn bài kerygma của thánh Phêrô tại Giêrusalem21 và một bài tại nhà ông Cornêliô (Cv 10, 34-43). Đặc biệt nơi bài kerygma thứ năm, người ta nhận thấy một cái sườn cho các quyển sách Tin mừng, thuật lại các lời giảng và phép lạ của Đức Giêsu, khởi đầu tại Galilê và kết thúc tại Giêrusalem với biến cố Thập giá và Phục sinh. Quý vị biết rõ biến cố đã xảy ra trong toàn cõi Giuđê, bắt đầu từ miền Galilê, sau phép rửa mà ông Gioan rao giảng. Quý vị biết rõ: Đức Giêsu xuất thân từ Nazaret, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người. Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người. Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Người đã làm trong cả vùng dân Do thái và tại chính Giêrusalem. Họ đã treo Người lên cây gỗ mà giết đi. Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ Bài I (2,14-36) liền sau biến cố Ngũ tuần; bài II (3,12-26) trong hành lang đền thờ sau khi chữa một anh què; bài III (4,8-12) và bài IV (5,29-32) mang tính cách biện hộ trước mặt Thượng Hội đồng. 21

100

Thần Học Đức Tin tường, không phải trước toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại. Người truyền cho chúng tôi phải rao giảng cho dân, và long trọng làm chứng rằng chính Người là Đấng Thiên Chúa đã đặt làm thẩm phán, để xét xử kẻ sống và kẻ chết. Tất cả các ngôn sứ đều làm chứng về Người và nói rằng: Phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Người mà được ơn tha tội.

Sách Công vụ Tông đồ cũng ghi lại ba bài kerygma của thánh Phaolô: bài thứ nhất tại Antiokia Pisiđia (13,16-40), bài thứ hai tại Lystra (14,11-17), bài thứ ba tại Athène (17,22-31). Các bài giảng này kêu gọi thính giả hãy sám hối và tin vào Tin mừng (x.2,38; 15,7; 18,8); việc tin nhận được biểu lộ qua việc rửa tội và gia nhập cộng đoàn tín hữu. Như vậy, lời giảng là chặng đường đầu tiên dẫn đến đức tin, như thánh Phaolô mô tả trong thư gửi các tín hữu Rôma: “làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng? ... Ấy vậy, có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Kitô” (Rm 10,14.17). 2) Lời giảng khơi dậy đức tin. Nhờ nghe lời giảng mà ta tin (fides ex auditu). Như vậy, tin là chấp nhận sứ điệp được rao giảng. Nội dung sứ điệp là biến cố Đức Giêsu chịu chết và phục sinh. Phải chăng tin là một hành vi của trí tuệ chấp nhận chân lý? Đúng thế, nhưng tin không chỉ là hành vi của trí tuệ mà thôi. Trong chương 10 của thư gửi các tín hữu Rôma, thánh Phaolô nói đến việc “tin ở trong lòng” và “tuyên xưng ngoài miệng” (Rm 10,8-10). Cả hai tác động này đều có một nội dung, đó là: “Đức Giêsu là Chúa”, và “Thiên Chúa đã làm cho Người sống

Tân ước

101

lại từ cõi chết”. Mặt khác, cũng nên biết rằng không phải tất cả những người nghe giảng đều tin. Ở chương cuối cùng của sách Công vụ Tông đồ, tác giả ghi nhận rằng khi nghe ông Phaolô nói “người thì được thuyết phục, người thì không chịu tin” (Cv 28,24). Mặc dù Luca kể lại một sự kiện tại Rôma, nhưng ta có thể kết luận chung về phản ứng của các người nghe lời giảng của các tông đồ. Chúng ta có thể tìm hiểu phần nào lý do qua những chi tiết mà tác giả kể lại đây đó trong tác phẩm của mình. Khi kể lại hoạt động của thánh tông đồ ở Philípphê, tác giả chú thích rằng “Bà Lyđia nghe, và Chúa mở lòng cho bà để bà chú ý đến những lời ông Phaolô nói” (Cv 16,14). Như vậy việc chấp nhận lời giảng còn là tác động của ơn thánh, chứ không phải là thuần túy nhờ tài hùng biện của diễn giả. Rải rác đây đó, thánh Luca nói rằng chính Chúa mở lòng cho con người hoán cải để tin (Cv 11,18.21; 14,27; 18,9-11). Dù sao, toàn thể tác phẩm không chỉ kể lại hoạt động của các thánh tông đồ nhưng tiên vàn là hoạt động của Thánh Linh, Đấng điều khiển việc loan báo Tin mừng. Thánh Linh được đổ tràn xuống các môn đệ không chỉ vào lễ Ngũ Tuần mà còn vào những khúc ngoặt mới của Hội thánh: 8,17 (người Samari); 10,44-48 (ông Cornêliô); 13,2-3 (mở đầu hành trình truyền giáo của ông Barnaba và Saulô); 19,5-7 (tại Êphêsô). Như vậy, tin là kết quả của ơn Chúa. Đồng thời, tin cũng đòi hỏi nhiều cố gắng về phía con người, tựa như: hoán cải, phó thác, vâng phục. Phải chăng đó là lý do giải thích sự kiện những người “không tin”? 3) Sách Công vụ Tông đồ còn nêu bật một khía cạnh nữa của đức tin, đó là chiều kích Hội thánh. Tin vào Chúa Giêsu không những là gắn bó với Người, đến nỗi sẵn sàng chịu chết vì Người như thánh Stêphanô, nhưng còn là gia nhập vào cộng đoàn Hội thánh. Ở đầu sách Công vụ Tông đồ, chúng ta đã gặp thấy một

102

Thần Học Đức Tin

cộng đoàn tại Giêrusalem, có khoảng một trăm hai mươi người, gồm các tông đồ, môn đệ nam nữ, và các thân nhân của Đức Giêsu (Cv 1,13-14). Họ họp thành một cộng đoàn “đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện”. Con số cộng đoàn ấy tăng gia dần dần, với những người tin theo lời giảng và được rửa tội. Các tín hữu chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng. Mọi người đều kính sợ, vì các tông đồ làm nhiều điềm thiêng dấu lạ. Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người theo nhu cầu. Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến đền thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ” (Cv 2,42-47).

Tin không chỉ là một hành vi nội tại cá nhân, nhưng còn bao hàm một chiều kích cộng đoàn: người tín hữu trở thành phần tử của một cộng đoàn tuyên xưng và chứng tá, qua việc cử hành phụng vụ, chia sẻ tài sản (Cv 2,42-48; 4,32-35; 5,12-16) . Trên đường đi loan báo Tin mừng, thánh Phaolô thiết lập các “hội thánh”, cộng đoàn của những “người tin”. Thuật ngữ “những người tin” (tín hữu) xuất hiện nhiều lần trong Công vụ Tông đồ (2,44; 4,4.32; 17,34; 18,8.27; 19,18; 21,20), cũng như các thuật ngữ “những môn đệ của Chúa Kitô (6,1; 9,1.26; 14,21; 16,1; 18,23.27; 19,1; 21.4), “những người kêu cầu Danh Chúa Kitô” (9,14.21; 22,16). III. Các thư thánh Phaolô Trong nguyên bản Hy lạp của Tân ước, “tin” có thể được diễn tả bằng danh từ pistis (lòng tin, niềm tin, đức tin: 243 lần), hoặc bằng động từ pisteuein (tin: 241 lần). Hai từ ngữ này được gặp

Tân ước

103

thấy nhiều nhất nơi thánh Phaolô và thánh Gioan. Thánh Phaolô dùng danh từ 142 lần (đặc biệt trong thư Rôma 40 lần, thư Galat 22 lần; đó là không kể thư Hípri với 32 lần) và dùng động từ 54 lần (trong đó 21 lần trong thư Rôma), như vậy tổng cộng là 196 lần; còn thánh Gioan thì chỉ dùng động từ (107 lần: 98 trong Tin mừng và 9 trong các thư) và danh từ chỉ được dùng một lần trong 1Ga 5,4. Như vậy, trong các tác giả Tân ước, thánh Phaolô là người nói nhiều đến đức tin hơn cả (đặc biệt là dưới dạng danh từ: 142 trên 243 lần: 58,43%, còn dưới dạng động từ thì chỉ được 22,4%).22 Chính vì thánh Phaolô bàn đến nhiều khía cạnh của đức tin, cho nên khó trình bày một tổng hợp vắn tắt.23 Trên thực tế, trong lịch sử Kitô giáo, nhiều cuộc tranh luận đã nổi lên bởi vì người ta chỉ nhấn mạnh đến một khía cạnh nào đó của đức tin trong các thư của thánh tông đồ, chẳng hạn như cuộc tranh luận giữa đức tin và việc làm (chớm nở ngay từ trong thư của Giacôbê), hoặc cuộc tranh luận chung quanh bản tính đức tin giữa Tin Lành với Công giáo (tin là nhắm mắt tín thác, hay tin là chấp nhận đạo lý). Một nhận xét nữa không kém quan trọng là khi viết các lá thư, thánh Phaolô trình bày đạo lý dựa trên chính cảm nghiệm của mình. Ông muốn chia sẻ với các tín hữu kinh nghiệm đức tin của mình, chứ không phải chỉ bàn về một lý thuyết về đức tin. Như chúng ta sẽ thấy, đối với thánh Phaolô, tin có nghĩa là gắn bó với Đức Giêsu Kitô, yêu mến Người bởi vì đã cảm nhận được tình yêu của Người. Từ đó ông muốn dùng lời giảng dạy để làm cho

Điều này còn rõ hơn khi so sánh với các tác giả Tin mừng nhất lãm, với tỉ lệ danh từ và động từ là: Mt 11/8; Mc 14/5; Lc 9/11. 22

Nên biết là danh từ “niềm tin” (pistis) mang nhiều nghĩa: ngoài nghĩa thần học, đôi khi nó còn có nghĩa thông thường là “trung tín” (Rm 3,3; Gl 5,22; 2Tx 1,4, 2Tm 4,7), “xác tín” (Rm 14,23), 23

104

Thần Học Đức Tin

mọi người biết Người, bởi vì nhờ tin vào Đức Kitô mà con người được cứu độ. Chúng tôi cố gắng trình bày quan điểm của thánh Phaolô về đức tin dựa theo hai khía cạnh khách thể (fides quae) và chủ thể (fides qua): khía cạnh khách thể của đức tin được hiểu là những chân lý đức tin mà Giáo hội rao giảng (Rm 10,8; 3,27; Gl 1,23; 1Tm 4,6; Tt 1,13); khía cạnh chủ thể được hiểu là sự gắn bó với Thiên Chúa nhờ đón nhận lời giảng của Giáo hội (1Tx 1,8; Rm 4,24; Gl 2,16; Rm 14,1). Tuy chúng ta tách rời hai khía cạnh để phân tích, nhưng thực sự chúng gắn bó chặt chẽ với nhau. Chúng ta có thể lấy một đoạn văn điển hình từ chương 10 thư gửi các tín hữu Rôma: Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ. Kinh thánh nói: Mọi kẻ tin vào Người sẽ không phải thất vọng. Như vậy, không có sự khác biệt giữa người Do thái và người Hy lạp, vì tất cả đều có cùng một Chúa, là Đấng quảng đại với tất cả những ai kêu cầu. Vì: “Tất cả những ai kêu cầu Danh Chúa sẽ được cứu thoát”. Thế nhưng làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà rao giảng, nếu không được sai đi (...) Ấy vậy, có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Kitô (Rm 10,9-12.14.17).

Như vậy, khởi đầu là ơn cứu độ được ban qua Đức Kitô. Cần phải rao giảng để mọi người được biết Lời Chúa, ngõ hầu nhờ nghe giảng mà con người tin; đức tin nảy sinh trong lòng nhưng cũng được tuyên xưng ra ngoài miệng, và kêu cầu Thiên Chúa. Dưới khía cạnh khách thể, chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu ba điểm: a) đức tin như là sống tương quan với Đức Kitô; b) từ xác tín đến tuyên xưng Đức Kitô chịu chết và phục sinh; c) từ tuyên xưng Đức Kitô là Kyrios đến tin vào tình yêu của Thiên Chúa là thân phụ Đức Kitô. Dưới khía cạnh chủ thể, chúng ta sẽ theo dõi

Tân ước

105

hành trình tiến đến đức tin qua bốn điểm như sau: a) Tin là lắng nghe lời Chúa; b) từ lắng nghe đến vâng phục Tin mừng; c) đức tin tạo ra một đời sống mới, d) tin, lãnh nhận bí tích và kết nạp vào Hội thánh. A. Đức tin khách thể Một điều đáng nêu bật ngay từ đầu là đối với Phaolô, trọng tâm của đức tin là Đức Giêsu Kitô. Ông ít khi nói đến “đức tin vào Thiên Chúa” (1Tx 1,8), “tin vào Chúa” (Rm 4,8.17: nói về ông Abraham; 4,24; Gl 3,6: cũng nói về ông Abraham; Cl 2,12), “đức tin vào Tin mừng” (Pl 1,27; 1Tx 2,4), “đức tin vào chân lý” (2Tx 2,12-13); nhưng phần lớn ông nói đến “tin vào Đức Giêsu Kitô”. Thật ra chính qua Đức Kitô mà chúng ta biết rõ Thiên Chúa là ai, biết Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến mức nào, biết được ý định cứu độ của Thiên Chúa dành cho nhân loại nơi Đức Kitô; do đó, ai tin vào Đức Kitô thì sẽ được cứu độ. 1/ Tin vào Đức Kitô Việc tin vào Đức Kitô không chỉ là một hành vi của lý trí, nhưng bao hàm một tương quan sinh động. Đối với thánh Phaolô, không thể nào coi việc tin như là chấp nhận một lý thuyết. Tin là một cuộc chuyển động, ví như là “chạy tới, để chiếm đoạt Đức Kitô Giêsu bởi vì chính mình đã bị Người chiếm đoạt” (Pl 3,12), “chạy tới đích để chiếm được phần thưởng từ trời cao Thiên Chúa dành cho kẻ được kêu gọi trong Đức Kitô Giêsu” (Pl 3,14). “Hiện tại tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2,20), một cuộc khởi sự để đạt đến sự thành toàn của Đức Kitô (Gl 3,3; Ep 4,13). Nói tắt: đối với ông Phaolô, tin là sống, và “sự sống của tôi là Đức Kitô” (Pl 1,21). Như vậy, tin vào Đức Kitô không chỉ có nghĩa là tin vào sự hiện hữu của Người mà thôi, nhưng còn là sống tương quan mật

106

Thần Học Đức Tin

thiết với Người, muốn kết hợp khắng khít với Người, để cùng đi theo Người trên đường về với Thiên Chúa. Tin vào Đức Kitô là để cho Người hoạt động trong ta nhờ quyền năng của Thánh Linh, và để cho ta sống trong Người (Gl 2,20). 2/ Tin và tuyên xưng: Đức Kitô chịu chết và phục sinh Tin vào Đức Kitô là sống khắng khít với Người, nhưng Đức Kitô không phải là một hình tượng do óc tưởng tượng của ta thêu dệt. Tin vào Đức Kitô là chấp nhận Người như đã được rao giảng trong kerygma. Trên đây chúng ta đã có dịp biết đến các công thức kerygma trong sách Công vụ Tông đồ. Nơi thánh Phaolô, chúng ta thấy các công thức tương tự, cốt lõi của các tín biểu trong các thế hệ về sau này: - Đức Kitô là Con Thiên Chúa, “sinh làm con một người phụ nữ, sống dưới Lề luật để chuộc những ai sống dưới Lề luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” (Gl 4,4). - Đức Kitô là kẻ đã tự hiến vì tội lỗi chúng ta, theo ý muốn của Thiên Chúa. Đức Kitô đã yêu mến tôi và đã hiến mạng vì tôi (Gl 1,4; 2,20) - Đức Kitô đã tự hủy, chấp nhận thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, đã hạ mình vâng lời cho đến chết trên thập giá (Pl 2,6-11). - Đức Kitô đã mạc khải cho chúng ta mầu nhiệm ý định của Thiên Chúa (Ep 1,9), đã chấp nhận làm hy lễ để thực hiện cuộc hòa giải nhân loại với Thiên Chúa (2Cr 5,19). Hy lễ của Người đã được chấp nhận, bởi vì Người được chỗi dậy từ cõi chết và trở thành Chủ tể mọi sinh linh (Rm 14,9; Pl 2,11). Khi đối chiếu các bài kerygma trong Công vụ Tông đồ và trong các thư của thánh Phaolô, ta nhận thấy rằng thánh tông đồ tập trung vào biến cố Thập giá và Phục sinh, chứ không đả động

Tân ước

107

đến các hoạt động của Chúa Giêsu ở Galilê. Thật vậy, Tin mừng24 mà thánh Phaolô rao giảng tóm gọn vào mệnh đề: “Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh thánh, rồi Người được mai táng, và ngày thứ ba đã trỗi dậy, đúng như lời Kinh thánh” (1Cr 15, 3-4; xc. Rm 1,3). Đối tượng của lời giảng và đối tượng của đức tin cũng là một: “chúng tôi tin rằng Đức Giêsu đã chết và sống lại” (1Tx 4,14). “Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ” (Rm 10,9). Công thức ngắn gọn này có thể làm cho ai đó lầm tưởng rằng sự cứu độ quá đơn giản, bởi vì chỉ cần gật đầu chấp nhận rằng Đức Giêsu đã chết và phục sinh là đủ. Thánh Phaolô không hiểu như vậy đâu! Dĩ nhiên, bước khởi đầu là tin vào cuộc tử nạn và phục sinh của Đức Giêsu; bước kế tiếp là lãnh bí tích rửa tội. Bí tích này là một sự đồng hóa với cái chết và phục sinh của Đức Giêsu, như thánh tông đồ đã viết trong thư gửi Roma (6,2-4.811): Anh em không biết rằng: khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Kitô Giêsu, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới (...) Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng sống với

Trong Tân ước, danh từ “Tin mừng” (evangelion) xuất hiện 78 lần, trong đó 60 lần trong các thư của thánh Phaolô, và hoàn toàn vắng bóng trong các tác phẩm của thánh Gioan. Ngoài ra, thánh Phaolô còn sử dụng vài thuật ngữ độc đáo, tựa như “Tin mừng của Thiên Chúa” (Rm 1,1; 15,16; 1Tx 2,2.8-9), “Tin mừng Đức Kitô” (Rm 1,9; 15,19; 1Cr 9,12 ...); “Tin mừng của chúng tôi” (1Tx 1,5; 2Tx 2,14), “Tin mừng hòa bình” (Ep 6,15). 24

108

Thần Học Đức Tin Người: đó là niềm tin của chúng ta. Thật vậy, chúng ta biết rằng: một khi Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết, thì không bao giờ Người chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người. Người đã chết, là chết đối với tội lỗi, và một lần là đủ. Nay Người sống, là sống cho Thiên Chúa. Anh em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Kitô Giêsu.

Tuy nhiên, trước khi rút ra những hệ luận luân lý của niềm tin vào cuộc tử nạn và phục sinh của Đức Kitô, chúng ta hãy tìm hiểu ý nghĩa của chân lý này. Thử hỏi: việc Đức Kitô chịu chết và phục sinh có ảnh hưởng gì đến tôi không? Hẳn nhiên là có ảnh hưởng rất nhiều. Thánh Phaolô đi từ cảm nghiệm của mình là phải làm nô lệ cho tội lỗi, xác thịt, thế gian, sự chết. Thế nhưng Đức Kitô đã giải thoát ta khỏi tội lỗi, khỏi quyền lực tối tăm (Cl 1,13) thống trị trong linh hồn ta bằng những tật ích kỷ, đê tiện, vô luân (Rm 7,7-8,4; Gl 5,19-20), những dục vọng bỉ ổi (Rm 8,3-17; Gl 5,16-26), tất cả những điều dẫn đến sự chết (Rm 6,20). Đức Kitô đã giải thoát chúng ta để cho chúng ta “sống cho Thiên Chúa” (Gl 2,19), ngõ hầu sự sống ngự trị trong thân thể hay chết của chúng ta nhờ Thần khí cư ngụ trong chúng ta (Rm 8,2.9-11). Như thế, nhờ Đức Kitô sống trong tôi mà từ nay cuộc đời của tôi có ý nghĩa: từ tư tưởng (Pl 2,1-5; 4,2; Rm 12,16) cho đến hành động (Cl 3,17.23), khi đau khổ (Pl 1,29; Cl 1,24; 2Cr 12,10) hoặc lúc vui tươi (Rm 15,13; Gl 5, 22; Pl 3,1; 4,4-7; 1Tx 1,6). Hơn thế nữa, Đức Kitô mở ra cho tôi một niềm hy vọng mới, vươn đến vĩnh cửu. Trong thư thứ nhất gửi Côrintô, ở những chương đầu, thánh Phaolô bênh vực sự khôn ngoan và quyền năng của Thiên Chúa biểu lộ qua thập giá của Đức Kitô,25 “Hồi còn giữa anh em, tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô, mà là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập giá” (1Cr 2,2; xem 1Cr 1,23; Gl 3,1). 25

Tân ước

109

sang đến chương 15, ông dùng những lời lẽ mạnh mẽ không kém để bênh vực chân lý về Đức Kitô phục sinh: “Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em. Hơn nữa, cả những người đã an nghỉ trong Đức Kitô cũng bị tiêu vong. Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người” (1Cr 15,17-19). Sự phục sinh của Đức Kitô mở ra cho nhân loại và vũ trụ một viễn tượng mới. Trước đây, vì tội của ông Ađam mà tất cả nhân loại và muôn loài phải rơi vào cảnh tàn tạ; nay nhờ Đức Kitô là nguyên thủ mới của nhân loại, nhân loại được sống: “Nếu chỉ vì một người, một người duy nhất sa ngã, mà sự chết đã thống trị, thì điều Thiên Chúa làm qua một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô, lại còn lớn lao biết mấy. Quả vậy, những ai được Thiên Chúa ban ân sủng dồi dào và cho trở nên công chính, thì sẽ được sống và được thống trị” (Rm 5,17). Những ân huệ này đã được ban cho nhân loại từ khi Đức Kitô phục sinh, nhưng nó sẽ đạt được sự toàn vẹn vào thời cánh chung, khi toàn thể thụ tạo được giải thoát khỏi cảnh hư nát do tội lỗi gây ra (Rm 8,19-23.28-30). 3/ Tin vào Đức Kitô là “Chủ tể” và tin vào Thiên Chúa là “Thân phụ của Đức Kitô” Như đã nói trên đây, thánh Phaolô nói đến “tin vào Đức Kitô” nhiều hơn là “tin vào Thiên Chúa”. Tuy nhiên, chính khi tin vào Đức Kitô, cách riêng là qua biến cố tử nạn và phục sinh, mà chúng ta khám phá khuôn mặt của Thiên Chúa là thân phụ của Đức Kitô. Dưới khía cạnh từ ngữ, người ta nhận xét rằng thánh Phaolô đã dùng hai danh xưng khác nhau khi nói đến Thiên Chúa và Đức Kitô: Thiên Chúa là Theos, còn Đức Kitô là Kyrios. Thực ra trong Cựu ước, cả hai danh xưng này (tương đương với hai từ Elohim và Adonai trong tiếng Hípri) đều được quy về Thiên

110

Thần Học Đức Tin

Chúa, nhưng ông Phaolô dành danh xưng Kyrios (chủ tể) cho Đức Kitô, có lẽ không chỉ muốn nêu bật thiên tính của Người mà còn muốn nói lên vai trò của Người đối với các tín hữu nữa: Đức Kitô là “chủ tể” (tôn chủ, lãnh tụ) của chúng ta, chúng ta thuộc quyền của Người (Thuật ngữ “Kyrios của chúng ta”, Dominus noster, được dùng 44 lần, xc. Rm 1,3; 1Cr 1,3...). “Đức Kitô là Kyrios”: đây là một công thức tuyên xưng trong buổi cử hành phụng vụ (Pl 2,11), trong bí tích rửa tội (Rm 10,9), trong buổi họp cộng đoàn. Theo thánh thi ở chương 2 thư Philípphê, Đức Kitô được suy tôn làm Kyrios trong biến cố phục sinh. Đoạn văn mở đầu thư Rôma (1,3) cũng nói rằng Đức Kitô được làm Con do sự phục sinh. Những đoạn văn này đã gây ra nhiều cuộc tranh luận vào những thế kỷ đầu tiên của Kitô giáo: Đức Kitô là Con Thiên Chúa từ lúc nào: từ muôn thuở, từ khi lãnh phép rửa, hay từ lúc phục sinh? Chúng tôi không muốn dừng lại ở cuộc tranh luận này, nhưng chỉ muốn nêu bật một điểm khác, đó là chính nhờ cuộc tử nạn và phục sinh của Đức Giêsu mà chúng ta biết Thiên Chúa là ai. Thiên Chúa tỏ ra là “Thân phụ của Đức Giêsu” khi cho Đức Giêsu trỗi dậy từ cõi chết (Rm 4,24; 8,11; 2Cr 4,14 ...): Thiên Chúa không bỏ rơi người tôi trung của ngài, đồng thời Thiên Chúa cũng bày tỏ tình thương dành cho loài người chúng ta: “Ngay khi chúng ta còn thù nghịch với Thiên Chúa, Thiên Chúa đã để cho Con của Người phải chết mà cho chúng ta được hòa giải với Người, phương chi bây giờ chúng ta đã được hòa giải rồi, hẳn chúng ta sẽ được cứu nhờ sự sống của Người Con ấy” (Rm 5,10). Nghĩ đến đây, thánh Phaolô đã bộc phát lên lời tạ ơn: “Vậy còn nói gì thêm nữa? Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta? Đến như Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta? (...) Ai có thể tách rời chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức

Tân ước

111

Kitô? (...) Tôi tin chắc rằng: cho dù là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thụ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8,31-32.35.38-39). Chúng ta đã quá quen thuộc với thuật ngữ “ơn cứu độ” (cứu rỗi: salus) hoặc “việc chuộc tội” (redemptio: Rm 3,24; Ep 1,7; Cl 1,14; 1Tm 2,6) mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta nhờ mầu nhiệm Vượt qua của Đức Kitô. Bên cạnh đó, thánh Phaolô còn sử dụng nhiều từ ngữ khác nữa, chẳng hạn như: “giải thoát” (liberatio, trả lại tự do: Rm 6,20; Gl 2,4; 5,1), “hòa giải” (reconciliatio, giao hòa: Rm 5,8-10; 2Cr 5,18-19; Ep 1,20-21), “được nên công chính” (một trong những từ khóa của thánh Phaolô, được dùng 91 lần trong các thư: Rm 3,28; 5,9; 8,30; 1Cr 6,11; Gl 2,16; Tt 3,7, ...). Đàng sau những từ ngữ này, thánh Phaolô muốn đề cao cách thức Thiên Chúa đối xử với con người: Ngài không chấp tội chúng ta, nhưng lấy lòng thương xót mà xử sự: “Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dẫu chúng ta đã chết vì sa ngã, Ngài cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô. Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ!” (Ep 2,4-5). Tình yêu lân tuất được biểu lộ qua việc Thiên Chúa ban Con Một cho nhân loại và qua việc trút đổ Thánh Linh xuống tâm hồn các tín hữu (Rm 5,5; 8,31-34). Có khi Thánh Linh được trình bày như là Đấng đã làm cho Đức Kitô trỗi dậy từ cõi chết (Rm 1,4; 8,11); lúc khác, Thánh Linh được xem như là một ân huệ được ban cho các tín hữu nhờ cuộc Phục sinh của Đức Kitô, như bảo chứng cho những ân huệ cánh chung: nhờ Thần khí của Đức Kitô ở trong chúng ta, chúng ta mạnh dạn thưa với Thiên Chúa “Abba, cha ơi!” (Rm 8,14-16; Gl 4,6). Cuộc sống của người tín hữu được diễn tả như là sống

112

Thần Học Đức Tin

“trong Đức Kitô” (1Cr 1,30; 2Cr 5,17), hoặc “trong Thánh Linh” (Rm 8,4.9.14.17; Gl 4,6). B. Đức tin chủ thể Như đã nói trên đây, đối tượng của lời giảng của thánh Phaolô và đối tượng của lời tuyên xưng đức tin của tín hữu đồng nhất với nhau (x. 1Cr 15,11). Tuy nhiên, sau khi đã tìm hiểu những nét chính của lời giảng (đức tin được rao giảng: x. Gl 1,23; 3,22.23), chúng ta hãy phân tích khía cạnh chủ thể của đức tin: Tin là gì? Thế nào là tin? Thần học kinh viện, tựa như thánh Tôma Aquinô (Summa Theologica II-II, q.4, a.1), đã nhận thấy một câu định nghĩa về đức tin ở đầu chương 11 của thư gửi người Hípri; thế nhưng ngày nay các học giả không coi thánh Phaolô là tác giả của thư ấy, cho nên chúng ta sẽ bàn sau. Ở đây, thay vì định nghĩa đức tin, chúng ta hãy theo dõi tiến trình và những chiều kích của nó: từ chỗ lắng nghe lời giảng đến chỗ vâng nghe Lời Chúa, từ chỗ vâng nghe đến chỗ định hướng cuộc đời theo đức tin; sau cùng, chúng ta sẽ bàn đến liên hệ giữa đức tin, bí tích và Hội thánh. 1/ Tin là lắng nghe lời Chúa Đức tin bắt đầu với việc lắng nghe lời Chúa. Thực ra, việc “lắng nghe” đã được nói nhiều từ Cựu ước rồi, đặc biệt là sách Đệ nhị luật với những công thức “Nghe đây, hỡi Israel”. Thánh Phaolô tiếp tục truyền thống ấy, cho nên ông đặt nặng việc lắng nghe trong tiến trình đức tin: “đức tin là do lắng nghe” (fides ex auditu; Rm 10,17; Gl 3,5). Điều này bao hàm nhiều điều. Tiên vàn, muốn nghe thì giả thiết là đã có ai nói: “làm thế nào tin vào Đấng mà mình chưa nghe nói đến, và làm sao nghe nói đến nếu không ai giảng?” (xc. Rm 10,14). Như chúng ta đã biết, thánh tông đồ đã coi việc rao giảng như là một vinh dự và cũng như bổn phận của mình. Dù sao, người giảng đừng bao giờ quên rằng

Tân ước

113

mình phải nói lời của Chúa chứ không phải là lời của người phàm: điều này không chỉ liên quan đến nội dung của lời giảng mà thậm chí ngay chính việc giảng nữa. Thánh Phaolô ý thức rõ rệt về điều ấy: một đàng, Tin mừng mà ông rao giảng là do ông lãnh nhận từ Đức Kitô chứ không do người phàm (Gl 1,11); đàng khác, khi ông giảng là Đức Kitô nói trong ông (2Cr 13,3). Trong thư thứ nhất gửi Côrintô, ông kể lại kinh nghiệm tại thành phố này: “Khi đến với anh em, tôi thấy mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy. Tôi nói tôi giảng mà chẳng có dùng lời hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thánh Linh và quyền năng Thiên Chúa. Có vậy, đức tin của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan người phàm, nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa” (1Cr 2,3-5). Tư tưởng này cũng gặp thấy ở kết luận thư gửi Rôma ông viết: “Thật thế, tôi đâu dám nhắc đến chuyện nào khác, ngoài những gì Đức Kitô đã dùng tôi mà thực hiện để đưa các dân ngoại về phục vụ Thiên Chúa, thực hiện bằng lời nói việc làm, thực hiện bằng sức mạnh của những dấu lạ điềm thiêng, bằng quyền năng của Thánh Linh (Rm 15,18-19). Có như vậy thì người nghe mới đón nhận lời giảng như lời của Chúa chứ không phải lời của con người, như ông đã nhìn nhận nơi các tín hữu Thêxalônica: “Chúng tôi không ngừng tạ ơn Thiên Chúa, vì khi chúng tôi nói cho anh em nghe lời Thiên Chúa, anh em đã đón nhận, không phải như lời người phàm, nhưng như lời Thiên Chúa, đúng theo bản tính của lời ấy. Lời đó tác động nơi anh em là những tín hữu” (1Tx 2,13). Vai trò của người giảng ví được như của một sứ giả mà thôi: “Chúng tôi là những sứ giả thay mặt Đức Kitô, như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy. Vậy, nhân danh Đức Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hòa với Thiên Chúa” (2Cr 5,20). 2/ Lắng nghe và vâng nghe Như vậy, qua lời giảng của vị tông đồ, chính Thiên Chúa đang

114

Thần Học Đức Tin

nói, đang tác động, đang thực hiện ơn cứu độ. “Tin mừng là sức mạnh của Thiên Chúa dùng để cứu độ bất cứ ai có lòng tin, trước là người Do thái, sau là người Hy lạp. Vì trong Tin mừng, sự công chính của Thiên Chúa được mặc khải, nhờ đức tin để đưa đến đức tin” (Rm 1,16-17; x. 3,21). Từ những điều vừa nói, ta hiểu được vì sao thánh Phaolô quan niệm tin như là lắng nghe, đón nhận; hơn thế nữa, tin là vâng nghe (Rm 1,5;16,19.26;2Cr 10,5-6 ...). Xem ra tác giả sử dụng một lối chơi chữ cũng tương tự như trong tiếng Việt (đức tin lắng nghe akoé / đức tin vâng nghe hypakoé). “Lắng nghe” mới chỉ nói lên một thái độ chú ý; còn “vâng nghe” (hay tuân phục, vâng phục) bao hàm một sự suy phục, một quyết định, một cam kết trước mặt Chúa. Đức tin đòi hỏi một cuộc hoán cải, một cuộc thuận tuân toàn diện. Ta có thể bắt đầu từ lý trí: tin có nghĩa là chấp nhận đường lối của Thiên Chúa, Đấng biểu lộ sức mạnh và quyền năng qua thập giá Đức Kitô là một chuyện yếu đuối và điên rồ đối với thế gian (1Cr 1,17.24-25). Bước kế tiếp là chấp nhận đồng hóa với Đức Kitô, mặc lấy những tâm tình của kẻ tự hạ và vâng phục cho đến chết, chết trên thập giá (Pl 2,5.8). Với thái độ vâng phục ấy, con người lột bỏ mọi sự an toàn theo lối tính toán của thế gian, để trao phó cuộc đời cho Thiên Chúa. Đó là một thái độ giống như ông Abraham xưa kia, phó thác cuộc đời cho Thiên Chúa dìu dắt, tuy chưa biết đi về đâu (Rm 4,18-22). Khác một điều là ngày nay, chúng ta có một điểm để quy chiếu là Đức Giêsu. Người là chứng tá không chỉ về sự suy phục Chúa Cha, nhưng còn làm chứng tá rằng Thiên Chúa là Đấng trung thành với lời hứa khi cho Người sống lại. Thánh Phaolô đã kể lại chính kinh nghiệm của mình như sau: “Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giêsu, để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi. Thật vậy, tuy sống, chúng tôi hằng bị cái chết đe dọa vì Đức Giêsu, để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân xác phải chết của chúng tôi... Vì có được cùng

Tân ước

115

một lòng tin như đã chép “Tôi đã tin nên tôi mới nói”, thì chúng tôi cũng tin nên chúng tôi mới nói. Quả thật chúng tôi biết rằng Đấng đã làm cho Chúa Giêsu trỗi dậy cũng sẽ làm cho chúng tôi được trỗi dậy với Chúa Giêsu, và đặt chúng tôi bên hữu Người cùng với anh em... Vì thế chúng tôi không chán nản. Trái lại, dù con người bên ngoài của chúng tôi có tiêu tan đi, thì con người bên trong của chúng tôi ngày càng đổi mới” (2Cr 4,1116). Những lời cuối cùng nói lên tính cách năng động của đức tin: đức tin không phải là một hành động chớp nhoáng nhưng là một cuộc sống luôn tiến triển, được so sánh với một cuộc chạy đua không ngừng (1Cr 9,26; Pl 3,12-14), hoặc theo một kiểu nói khác, “từ đức tin đến đức tin” (Rm 1,17). Đức tin cần được bổ túc những gì thiếu sót (1Tx 3,10), để có thể lớn mạnh (2Cr 10,15). Sự tăng trưởng chắc hẳn bao hàm sự tín thác vào Thiên Chúa, nhưng đồng thời cũng mang theo sự hiểu biết: không những biết sứ điệp mà mình chấp nhận (Rm 6,8; 2Cr 4,13tt), nhưng còn biết được tình trạng con người trước mặt Thiên Chúa (Rm 5,3; 14,14; Cr 1,7; Pl 1,19); từ đó tin có nghĩa là biết Thiên Chúa (Gl 4,9), biết chân lý (1Tm 2,4). Dù sao, chúng ta đừng nên quên rằng hành trình đức tin không chỉ là thành quả của nỗ lực về phía con người. Ngay từ đầu, Thánh Linh đã đến hỗ trợ chúng ta, ngõ hầu chúng ta chấp nhận Lời Chúa (1Tx 1,4), có khả năng tuyên xưng Thiên Chúa như là “Abba” (Gl 4,6) và tuyên xưng Đức Giêsu là Kyrios (1Cr 12,3). Thánh Linh biến đổi “thần trí” của chúng ta hòa hợp với “thần trí” của Thiên Chúa (1Cr 2,10-15). Cuộc đời của người tín hữu là một cuộc “đi trong Thánh Linh” (Gl 5,25). Thánh Linh nâng đỡ sự yếu hèn của chúng ta, ngay cả trong việc cầu nguyện, bởi vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho thích hợp (Rm 8,26-27; Ep 5,1819). Nhờ ơn Thánh Linh, người tín hữu được tái sinh, tăng trưởng để đạt đến tầm mức trưởng thành của Đức Kitô (Ep 4,13). Thánh Tông đồ đã dành suốt chương 8 của thư gửi Rôma để bàn

116

Thần Học Đức Tin

về hoạt động của Thánh Linh trong đời sống người Kitô hữu. 3/ Đức tin định hướng cuộc đời Nếu biết rằng đức tin không chỉ là chấp nhận một chân lý mà còn là sống tương quan với Đức Kitô dưới sự hướng dẫn của Thánh Linh, tất nhiên đức tin chi phối toàn thể đời sống của người tín hữu. Đức tin được gọi là “thước đo” (Rm 12,3) cho tư tưởng và hành động. Tác giả còn khẳng định mạnh mẽ rằng: “hành động nào không do đức tin là có tội” (Rm 14,23); ngược lại, “ai ở lại trong đức tin thì ở lại trong Chúa” (1Tx 3,8-9; 2Cr 13,5). Thật vậy, như đã nói, đức tin không phải là một hành động thoảng qua nhưng thấm nhập vào đời sống. Thánh Phaolô khuyến khích người tín hữu hãy “kiên trì trong đức tin” (1Cr 16,13; Gl 5,1; Pl 1,27; 4,1; 1Tx 3,8): điều này không chỉ muốn khuyến khích họ đừng bao giờ chùn bước trước những khó khăn, nhưng còn nhắc nhở họ bén rễ sâu hơn trong niềm tin tưởng vào lời mà Chúa đã hứa, cũng như hãy phát sinh ra những hoa trái của lòng mến (Gl 5,5-6). Dưới tác động của Thánh Linh và đức ái, người tín hữu sẽ cảm nhận những hoa trái tốt lành của hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ (Gl 5,22). Nói cho cùng, tuy có sự phân biệt giữa ba nhân đức “tin - hy vọng - yêu mến” (1Cr 13,13), nhưng cả ba liên kết chặt chẽ với nhau. Đức tin bao gồm niềm hy vọng cậy trông (1Tx 1,8tt; 2Cr 1,9; Rm 3,25; 4,17-25).Đức tin hoạt động dưới sự thúc đẩy của đức mến (Gl 5,6), đức tin vào Chúa Giêsu được linh hoạt nhờ quyền năng của Thánh Linh tình yêu. 4/ Đức tin, bí tích và Hội thánh Chúng ta thấy rằng theo quan điểm của thánh Phaolô, đức tin bao hàm một mối tương quan sinh động giữa người tín hữu với Đức Kitô và Thánh Linh. Cần phải bổ túc thêm một ý tưởng nữa, đó là mối tương quan ấy được gắn liền với bí tích và Hội thánh. Đành rằng đức tin bắt nguồn từ việc con người chấp nhận Lời

Tân ước

117

Chúa, nhưng nó được sinh ra và tăng trưởng qua các bí tích, đặc biệt là Rửa tội và Thánh Thể. Đức tin và bí tích liên hệ chặt chẽ với nhau: các bí tích diễn tả và thực hiện điều mà đức tin khẳng định, tức là loan báo và đón nhận sự chết và phục sinh của Đức Kitô ngõ hầu chúng ta “sống vì Chúa”. Thật vậy, nhờ bí tích Rửa tội, chúng ta đi vào cái chết với Đức Kitô để được chết vĩnh viễn cho tội lỗi và thông dự vào cuộc sống của Đấng Phục sinh: “Anh em không biết rằng: khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Kitô Giêsu, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao? Vì được dìm trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6,3-5). Chúng ta nhận thấy sự trùng hợp giữa đối tượng của Tin mừng, đối tượng của việc tuyên xưng đức tin và ý nghĩa của phép rửa đều là một, đó là sự chết và sự phục sinh của Đức Kitô. Bí tích Rửa tội đưa chúng ta đến việc “chết và sống lại với Đức Kitô”, “sống cho Thiên Chúa trong Đức Kitô”, “mặc lấy Đức Kitô”, trở nên một với Đức Kitô (Gl 3,2-27-28) ngõ hầu sống như con cái Chúa (x. Gl 3,26-4,7). Hơn thế nữa, bí tích Rửa tội còn tháp nhập vào “thân thể Đức Kitô” tức là Hội thánh (Cl 1,18): “Chỉ có một thân thể, một Thần khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cũng một niềm hy vọng. Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, qua mọi người và trong mọi người” (Ep 4,4-6). Thánh Phaolô không thể hình dung một tín hữu sống lẻ loi, vì như vậy sẽ không còn là “sống trong Đức Kitô” nữa. Thật vậy, tất cả chúng ta đều được rửa tội trong một Thánh Linh duy nhất để họp nên một thân thể (1Cr 12,13). Trong ngôn ngữ của thánh tông đồ, “thân thể Đức Kitô” được hiểu về Hội thánh cũng như về bí tích Thánh Thể. Cả hai thực thể này liên hệ mật thiết với nhau, như chúng ta nhận thấy trong thư thứ

118

Thần Học Đức Tin

nhất gửi Côrintô. Ở chương 11 (câu 23-26), tác giả nhắc lại một lời dạy của Chúa Giêsu nhằm khơi dậy và nuôi dưỡng đức tin: Tôi truyền lại cho anh em điều tôi đã lãnh nhận từ nơi Chúa: trong đêm bị nộp Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn rồi bẻ ra và nói: “Đây là Mình Thầy, hiến dâng vì anh em; anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy”. Cũng thế, sau bữa ăn, Người cầm lấy chén rượu và nói: “Chén này là giao ước mới, lập bằng Máu Thầy; mỗi khi uống, anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy”. Thật vậy, mỗi lần ăn bánh và uống chén này là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết cho tới ngày Chúa đến.

Chúng ta nên ghi nhận ba điều: a) thứ nhất, bí tích Thánh Thể là sự loan truyền cái chết của Chúa cho đến khi Người trở lai; nói khác đi, bí tích này là một lời loan truyền Tin mừng căn bản của đức tin, đó là cái chết, sống lại và sự trở lại của Đức Kitô trong vinh quang; b) thứ hai, bí tích này là sự thông hiệp vào Mình và Máu của Chúa, nghĩa là vào sự sống của Đức Kitô; c) thứ ba, bí tích này là một cuộc “tưởng nhớ Chúa Giêsu”: đây không phải là một sự tưởng niệm trong ký ức, nhưng là làm hiện thực mầu nhiệm sự chết và phục sinh của Chúa, ngõ hầu giúp cho chúng ta được tăng trưởng trong Chúa đang khi chờ đợi ngày Chúa đến để cho chúng ta thông dự trọn vẹn vào đời sống thần linh của Người. Trong chương 10 (câu 16-17), thánh tông đồ cho biết rằng bí tích này không những thiết lập một mối tương quan cá nhân giữa người tín hữu với Chúa Kitô, mà còn tạo ra một dây liên lạc giữa tất cả các tín hữu, bởi vì tất cả là chi thể của một Thân Thể duy nhất của Người: “Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Đức Kitô ư? Và khi ta cùng bẻ Bánh thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao? Bởi vì chỉ có một tấm bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể”. Như vậy trong đức tin, Chúa Kitô

Tân ước

119

trở nên lương thực nuôi chúng ta, và đồng thời Người thâu nhận chúng ta vào trong mình, biến đổi chúng ta trở nên “một trong Người”, và liên kết chúng ta với các anh chị em, tạo nên trong chúng ta một thân thể duy nhất là Hội thánh. C. Đức tin với hành động trong lịch sử cứu độ Chúng ta đã cố gắng phân tích quan điểm của thánh Phaolô về đức tin nhìn từ hai góc độ: từ phía đức tin khách thể của Hội thánh mà thánh tông đồ rao giảng, và từ phía đức tin chủ thể của người tín hữu. Như đã nói, giữa đôi bên có sự trùng hợp, bởi vì cả hai đều dựa trên ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã ban cho loài người qua cuộc tử nạn và phục sinh của Đức Kitô. Bây giờ chúng ta bàn thêm một điểm gay cấn đã gây ra cuộc tranh luận giữa hai vị tông đồ Phaolô và Giacôbê vào thời Giáo hội sơ thủy cũng như giữa Tin Lành và Công giáo vào thời cận đại, đó là: phải chăng chỉ cần tin là đủ để được cứu rỗi, hay là còn phải hành động nữa? Chúng ta sẽ xét hai điểm: 1/ trình bày vấn đề; 2/ thực chất của vấn đề. 1/ Trình bày vấn đề a) Khi đọc thư thánh Phaolô, chúng ta gặp những câu khẳng định rằng chỉ cần tin là đủ để được cứu độ, chứ không cần đến hành động; thậm chí hành động chẳng có ích gì cho ơn cứu độ. Vì biết rằng con người được nên công chính không phải nhờ những gì Luật dạy, nhưng nhờ tin vào Đức Giêsu Kitô, nên chúng ta cũng tin vào Đức Kitô Giêsu, dể được nên công chính, chứ không phải nhờ làm những điều Luật dạy (Gl 2,16). Con người được nên công chính vì tin chứ không phải vì làm những gì Luật dạy (Rm 3,28). Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ (Rm 10,9). Chúng tôi nhờ Thần khí

120

Thần Học Đức Tin và dựa vào đức tin mà vững lòng trông cậy chờ đợi được nên công chính như chúng tôi hy vọng (Gl 5,5).

b) Những câu quả quyết mạnh mẽ của thánh Phaolô về giá trị của đức tin đến nỗi loại trừ việc giữ Luật, đã gây ra một phản ứng nơi thánh Giacôbê, như ta đọc thấy ở chương 2 của lá thư (câu 14-26): Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? ... Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết. Đàng khác, có người sẽ bảo: Bạn, bạn có đức tin; còn tôi, tôi có hành động. Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin. Bạn tin rằng chỉ có một Thiên Chúa duy nhất. Bạn làm phải. Cả ma quỷ cũng tin như vậy, và chúng run sợ. Hỡi người đầu óc rỗng tuếch, bạn có muốn biết rằng đức tin không có hành động là vô dụng không? ... Một thân xác không hơi thở là một xác chết, cũng vậy, đức tin không có hành động là đức tin chết.

Như vậy, trong khi thánh Phaolô nói rằng chỉ duy đức tin mới cứu rỗi, còn hành động chẳng ích lợi gì, thì thánh Giacôbê nói ngược lại: con người thực sự được cứu rỗi nhờ các hành động, và ông đưa ra ba lý luận: a) ma quỷ cũng tin có Thiên Chúa, nhưng niềm tin ấy chẳng ích lợi gì, bởi vì chúng run sợ nghĩa là bị đày đọa; b) ông Abraham được nên công chính nhờ việc làm, nghĩa là qua việc hiến tế đứa con một của mình cho Thiên Chúa; c) Rakhab là một cô gái điếm nhưng đã được cứu độ nhờ hành động, qua việc đón tiếp các sứ giả của Israel. 2/ Thực chất của vấn đề Thực ra khi đọc lại các bản văn, chúng ta thấy hai thánh tông đồ không mâu thuẫn với nhau. Mỗi người viết trong một hoàn cảnh cụ thể; thế nhưng, có người đã trích câu văn ra khỏi mạch

Tân ước

121

văn, và thổi phồng đến mức độ khẳng định điều mà tác giả không muốn nói đến. a) Trước hết, chúng ta hãy trở lại với mạch văn của thánh Phaolô. Ông viết trong một hoàn cảnh lịch sử cụ thể, trong cuộc tranh luận với các Kitô hữu gốc Do thái hoặc với chính những người Do thái. Họ hãnh diện vì Thiên Chúa đã ban cho họ lề luật, và họ nghĩ rằng nếu họ tuân giữ lề luật thì Thiên Chúa sẽ trả công cho họ theo phép công bằng. Trong viễn tượng này, họ không cần đến ơn cứu độ nào khác nữa. Thánh Phaolô cũng là người Do thái và ông cũng đã tin như vậy, nhưng từ khi ông được Chúa Kitô mặc khải, ông đã thay đổi cái nhìn. Luật mà Chúa ban cho dân Do thái qua ông Môsê đã hoàn tất nhiệm vụ rồi, đó là chuẩn bị cho Đức Kitô. Nơi Đức Kitô, Thiên Chúa đã ban ơn cứu độ vĩnh viễn cho loài người, và con người lãnh nhận ơn ấy nhờ đức tin vào Đức Kitô chứ không phải nhờ việc giữ luật Môsê. Để củng cố thêm lập luận của mình, thánh tông đồ đưa thêm hai luận cứ: a) thứ nhất, con người không thể được cứu độ do luật Môsê, bởi vì không ai có khả năng giữ trọn tất cả các lề luật; lề luật vạch ra nghĩa vụ và gây thêm những sự vi phạm luật (Rm 3,20); b) luận cứ thứ hai, ông Abraham được nên công chính do lòng tin chứ không do việc giữ lề luật (Rm 4,3, trích dẫn St 15,6). Dù sao, đàng sau cuộc tranh luận này, điều mà thánh Phaolô muốn nêu bật là sự cứu độ là một hồng ân Thiên Chúa ban, chứ không phải là yêu sách mà con người có thể đòi hỏi dựa theo những công lênh của mình. Như đã thấy trên đây, đức tin mà thánh Phaolô đề cập không chỉ giới hạn vào việc chấp nhận một chân lý trừu tượng (tin có Thiên Chúa), nhưng là một đức tin sống động, diễn tả qua mối tương quan năng động với Đức Kitô, cố gắng càng ngày càng trở nên đồng hình đồng dạng với Người, cách riêng qua việc họa lại mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Người. Vì thế đức tin đòi

122

Thần Học Đức Tin

hỏi những hành động diệt trừ tội lỗi và con người cũ, đồng thời để cho Thánh Linh hướng dẫn ngõ hầu phát sinh những hoa trái của đức ái. Đức tin hành động nhờ đức ái (Gl 5,6). Mặt khác, thánh Phaolô đã nhiều lần khiển trách các tín hữu vì đã không trung thực với ơn gọi của mình, cách riêng khi buông theo cái mà ông gọi là những đam mê của tính xác thịt: dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tị say sưa, chè chén (Gl 5,19). Đó là những công việc của kẻ còn làm nô lệ. Các tín hữu đã được giải thoát khỏi những cảnh nô lệ, vì thế cần sống phù hợp với tự do con cái Chúa (Gl 5,13). b) Hiểu như vậy, thánh Giacôbê không mâu thuẫn với thánh Phaolô. Ông Giacôbê cũng nhìn nhận sự cần thiết của đức tin, bởi vì nếu không có đức tin thì đâu có thể được cứu độ? Ông chỉ đả kích cái “đức tin chết”, chứ không phải là “đức tin sống động”. Đức tin của ma quỷ là đức tin chết, nghĩa là đức tin lý thuyết: một đức tin như thế thì tất nhiên không mang lại ơn cứu độ (Gc 2,14-16). Nhưng ông Giacôbê không hề nói rằng chỉ cần hành động chứ không cần đức tin. Các hành động chứng tỏ rằng đức tin sống động, chứ không loại trừ đức tin. Điều thú vị là cả hai vị tông đồ đều trưng dẫn tổ phụ Abraham để minh chứng cho luận đề của mình. Thánh Phaolô cho thấy rằng ông Abraham được nên công chính nhờ lòng tin; thánh Giacôbê nói rằng ông Abraham được nên công chính nhờ việc hy sinh đứa con một của mình. Tuy nhiên, nếu bình tĩnh đọc lại tích truyện của ông Abraham thì ta thấy cả hai việc đó liên hệ với nhau chứ không loại trừ nhau. Ông Abraham là mẫu gương cho đức tin kể từ khi ông lên đường đi theo tiếng Chúa gọi, và đức tin của ông đạt đến cao điểm khi ông dám hy sinh đứa con duy nhất. Thật vậy, ông tin rằng Chúa có thể thực hiện lời hứa bằng những đường lối khác với cách thức suy nghĩ của chúng ta.

Tân ước

123

Một nhận xét thú vị nữa là thánh Phaolô đòi hỏi rằng đức tin phải diễn ra hành động; nhưng ông đả kích các hành động theo luật (hiểu về luật Môsê: Rm 3,28), lý do là vì ơn cứu độ đến từ Đức Kitô chứ không do luật Môsê. Thánh Giacôbê cũng đòi hỏi rằng đức tin phải diễn ra hành động nếu không muốn là đức tin chết; nhưng ông im lặng không đụng đến các hành động của lề luật; như vậy ta thấy có một sự nhất trí giữa hai người. Mặt khác, tuy thánh Phaolô không nhìn nhận giá trị cứu độ của Lề luật (hiểu về luật Môsê), nhưng điều này không có nghĩa là ông khai trừ tất cả các luật lệ. Thật vậy, chúng ta gặp thấy trong các thư của ông những thuật ngữ “luật của Đức Kitô” (1Cr 9,21; Gl 6,226), “luật đức tin” (Rm 3,27), “luật Thánh Linh” (Rm 8,2). Chúng ta nên hiểu “luật của Đức Kitô” theo nghĩa là Đức Kitô trở thành luật: đây không còn phải là một mớ những quy tắc áp đặt từ bên ngoài, nhưng là một nhân vật sống động, nghĩa là Đức Kitô, Đấng mà chúng ta muốn uốn nắn mình để nên đồng hình đồng dạng, nhờ sự hướng dẫn của Thánh Linh (mà có thể gọi là “luật của sự sống”) giúp ta sống luật của tình yêu. Một cách tương tự như vậy, thánh Giacôbê nói đến “luật tự do” (Gc 1,25), mà ta có thể hiểu như là luật mang lại tự do đích thực (xc. Gl 5,13-14). Tóm lại, không có sự mâu thuẫn giữa lời khẳng định của thánh Phaolô “con người được cứu độ nhờ đức tin”, và lời khẳng định của thánh Giacôbê: “đức tin không có việc làm là đức tin chết”. Cả hai đều nhìn nhận sự cần thiết của đức tin; cả hai đều nhìn nhận sự cần thiết của hành động. Điều rắc rối còn kéo dài trong lịch sử thần học ở chỗ là đức tin là một ân huệ ban không

1Cr 9,21: “Tôi không sống ngoài luật Thiên Chúa, nhưng sống trong luật Đức Kitô, để chinh phục những người sống ngoài Lề Luật”. Gl 6,2: “Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Kitô”. 26

124

Thần Học Đức Tin

về phía Thiên Chúa,27 nhưng đồng thời đức tin cũng đòi hỏi đáp ứng về phía con người. Trong cuộc tranh luận về ân sủng và tự do, thánh Augustinô đã phát biểu nguyên tắc: “Chúa đã dựng nên ta mà không cần ta, nhưng Chúa sẽ không cứu ta mà không có ta (hợp tác)”28. Vào thời cận đại, cuộc tranh luận giữa Tin Lành và Công giáo xoay quanh hai vấn đề chính: “Tin là gì?” (tin thác, tin tưởng; hay là tin nhận đạo lý); “ý nghĩa của việc trở-nên-công-chính” (Chúa xóa bỏ hết lỗi phạm của chúng ta, biến chúng ta thành trong trắng; hay tội lỗi vẫn còn đó nhưng mà Chúa không chấp?); “sự hợp tác với ơn thánh” (các việc lành có thêm công trạng gì không?). Chúng tôi không muốn đi sâu vào cuộc tranh luận này.29 D. Thư gửi Hípri Trong các tác giả Tân ước bàn về đức tin, thư gửi Hípri giữ một chỗ nổi bật bởi vì danh từ pistis được dùng 32 lần, và động từ pisteuein 2 lần. Ngày nay khoa phê bình văn chương đã loại trừ bản văn này ra khỏi các thư của thánh Phaolô vì những lý do sau đây: a) thứ nhất, đây không phải là một lá thư (không có lời chào thăm ở đầu và ở cuối) nhưng là một bài giảng; b) thứ hai, xét về cách hành văn, ngôn từ chải chuốt hơn; c) thứ ba, thần học “Chúng ta được nên công chính nhờ công trình cứu chuộc thực hiện trong Đức Kitô Giêsu” (Rm 3,24) “Chính Thiên Chúa tác động đến ý chí cũng như hành động của anh em do lòng yêu thương của Người” (Pl 2,13). “Thiên Chúa Đấng cứu độ chúng ta, đã biểu lộ lòng nhân hậu và lòng yêu thương của Người đối với nhân loại. Không phải vì tự sức mình chúng ta đã làm nên những việc công chính, nhưng vì Người thương xót, nên Người đã cứu chúng ta nhờ phép rửa ban ơn Thánh Linh, để chúng ta được tái sinh và đổi mới” (Tt 3,5). 27

“Qui creavit te sine te, non iustificabit sine te” (Sermones ad populum 169, c.11: PL 38,923) 28

29

Xc. Đời sống tâm linh, tập 8, Roma 2009, trang 410-437.

Tân ước

125

cũng khác với thánh Phaolô, như sẽ thấy. Đề tài chính của tác phẩm “Đức Kitô, Con Thiên Chúa, là Thượng tế của giao ước mới” - được trình bày suốt từ chương 3 cho đến chương 10; sang đến phần kết luận (từ chương 11 đến chương 13), tác giả khuyến khích người đọc hãy kiên trì trong đức tin. Dựa vào nội dung, người ta đoán rằng thư này được viết cho những người Do thái tuy đã trở lại Kitô giáo nhưng còn lưu luyến đền thờ Giêrusalem. Liên quan đến chủ đề đức tin, thư gửi Hípri có nhiều điểm đáng lưu ý: ở cuối chương 10, tác giả cảnh giác các tín hữu về nguy cơ chối đạo (câu 26-31) khi phải đối diện với những thử thách. Để nâng đỡ tinh thần cho họ, ông khuyến khích họ hãy nhớ lại tấm gương của các bậc tiền bối để kiên trì giữ vững đức tin (chương 11) đặc biệt tấm gương của Đức Giêsu, Đấng “khai mở và kiện toàn đức tin” (Hr 12,2). Khi so sánh quan niệm về đức tin giữa thư gửi Hípri với thánh Phaolô, người ta thấy có ba điểm khác biệt đáng kể: a) xét về chủ thể: đối với thư gửi Hípri, “hàng ngũ những người có đức tin” bao gồm tất cả các người công chính kể từ ông Ađam; còn thánh Phaolô bàn đến đức tin của các Kitô hữu; b) xét về bản chất đức tin, thư gửi Hípri bàn đến đức tin trong tương quan với Thiên Chúa là Đấng tạo dựng vũ trụ và là Đấng thưởng phạt muôn loài; còn thánh Phaolô chú trọng cách riêng đến tương quan với Đức Kitô Đấng cứu thế; c) xét về bản thân Đức Kitô, thư gửi Hípri trình bày Đức Kitô như là mẫu gương của một kẻ tin vào Thiên Chúa; còn thánh Phaolô coi đức tin như là sống trong Đức Kitô là Kyrios (Chủ tể). Chúng ta hãy theo dõi khảo luận của thư gửi Hípri về đức tin qua ba điểm chính sau đây: 1/ khái niệm về đức tin; 2/ những

126

Thần Học Đức Tin

đặc tính của đức tin nhìn qua các gương mẫu trong lịch sử; 3/ Đức Kitô Đấng khai mở và kiện toàn đức tin.30 1/ Khái niệm về đức tin Chương 11 mở đầu bằng một câu giống như một định nghĩa triết học: “Đức tin là bảo đảm những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy”. Đức tin gồm có hai yếu tố. a) Yếu tố thứ nhất: “bảo đảm những điều hy vọng”.31 Đức tin bao gồm một cái nhìn tin tưởng và hy vọng về những điều tương lai. Dưới khía cạnh này, đức tin và đức cậy giống nhau. b) Yếu tố thứ hai: “bằng chứng cho những điều ta không thấy”.32 Đức tin bao hàm một sự thâm tín về sự hiện hữu của những điều mà ta không thấy. Theo thánh Tôma Aquinô (Summa Theologica II-II, q.4, a.1), yếu tố thứ nhất liên quan đến đối tượng của đức tin (đó là những điều mà ta hy vọng); yếu tố thứ hai liên quan đến chủ thể của đức tin (nó là một sự xác tín của lý trí về những chân lý tuy không thấy nhưng chấp nhận dựa trên uy tín của Chúa). Chúng ta có thể tóm tắt như thế này: tín hữu là người không dừng lại ở những điều vật chất hữu hình, nhưng tin tưởng hướng về những thực tại siêu việt mà hiện thời ta không thấy được, song đã được Thiên Chúa bảo đảm.

30

Xc. Sách GLCG số 146-147.

Dịch sát là: nền tảng, bản thể của những điều mà ta hy vọng (hypostasis elpisoménôn / substantia sperandorum). Nên biết là đức thánh cha Bênêđitô XVI đã chú giải đoạn văn này trong thông điệp Spe salvi (30/11/2007), số 7. 31

Dịch sát: luận chứng chắc chắn của những điều mà ta không thấy (elenchos ou blepoménon / argumentum non apparentium). 32

Tân ước

127

2/ Những mẫu gương đức tin Hai đặc tính vừa nói của đức tin được minh họa qua những “đám mây nhân chứng” được kể lại trong suốt chương XI. Trước đây, sách Huấn ca đã dành các chương cuối (44-50) để ca ngợi các tiên nhân. Thư Hípri chỉ lựa chọn những nhân vật nổi bật “nhờ đức tin”, để nêu bật những nét chính của đời sống đức tin. Chúng tôi đã có dịp điểm qua các khuôn mặt ấy trong chương Một (Cựu ước), đặc biệt là hai ông Abraham và Môsê. Ở đây chúng tôi chỉ muốn ghi nhận năm đặc trưng nổi bật nơi các nhân chứng. a) Đức tin, xác tín về điều mà không ai thấy Mở đầu chuỗi của các nhân chứng, tác giả đi lùi lại thời gian, vào lúc tạo dựng vũ trụ (câu 3). Hồi đó, chẳng có ai chứng kiến sự tạo dựng; làm thế nào biết chắc được về nguồn gốc của vũ trụ? Câu trả lời là: nhờ đức tin; khi nhìn thấy công trình sáng tạo, chúng ta tin rằng đã có một Đấng Tạo thành (xc. Rm 1,20). b) Tin là vâng phục đáp trả Sách Sáng thế chỉ nói rằng hiến lễ của ông Abel được Thiên Chúa chấp nhận (4,1-16) nhưng không cho biết lý do. Tác giả thư Hípri giải thích rằng bởi vì hiến lễ đi kèm theo sự vâng phục (câu 4), nghĩa là với tâm hồn trong sạch, không ghen tương, không giận hờn, cho nên đẹp lòng Chúa. Đức tin là như thế đó. c) Tin vào sự hiện hữu của Thiên Chúa Mẫu gương thứ ba là ông Khanóc. Tên ông được nhắc đến ở chương 5 của sách Sáng thế, nhưng không ai biết gì về cuộc đời của ông. Truyền thống Do thái cho rằng ông được cất về trời vì được Chúa thương (x. Hc 44,16; Kn 4,10-11). Tác giả thư Hípri thêm một lời bình luận rằng để làm đẹp lòng Chúa thì cần phải tin rằng Thiên Chúa hiện hữu và ban phần thưởng cho những ai tìm kiếm ngài (câu 6). Thần học kinh viện cho rằng đây là hai

128

Thần Học Đức Tin

chân lý tối thiểu phải tin để được cứu rỗi (Summa Theologica IIII, q.2, a.5). d) Tin là nắm chắc điều chưa nhìn thấy Nơi tấm gương của Nôê, tác giả ca ngợi đức tin ở chỗ ông vâng nghe Lời Chúa báo trước một sự trừng phạt nhân loại (câu 7). Vài tác giả Tân ước cũng khẳng định như vậy: ông Nôê đã loan báo cho đồng bào về tai họa sắp đến và kêu gọi họ sám hối, nhưng họ không nghe ông (2Pr 2,5; Mt 24,37tt; Lc 17,26.27; 1Pr 3,20). e) Tin là tín thác tuyệt đối Ông Abraham được ca ngợi như là tổ phụ đức tin, bởi vì đã tỏ ra tín thác và vâng phục Thiên Chúa. Ông đã thể hiện các đặc trưng của đức tin: ông tuân theo Lời Chúa phó thác tương lai cho Chúa; ông xác tín rằng Lời Chúa sẽ được thực hiện mặc dù mình chưa thấy (câu 8-16). f) Tin là dám liều mạng sống Một đặc trưng nữa đáng nêu bật ở nơi ông Môsê cũng như nhiều chứng nhân, đó là họ dám chết cho niềm tin của mình (câu 35-38). Đối với các độc giả thư Hípri, xem ra đặc tính này quan trọng hơn cả. Các độc giả cần nhìn lên các bậc tiền bối để ý thức rằng đời sống đức tin thật là cam go chứ không dễ dãi. Thế nhưng, cha ông ta đã không sờn lòng; vì thế chúng ta cũng phải vững tâm bền chí. 3/ Đức Kitô Trong các thư của thánh Phaolô, Đức Kitô được trình bày như là Đấng đã cứu chuộc chúng ta, đã chết trên thập giá vì yêu thương chúng ta, đã được phục sinh và được tôn lên làm Chủ tể (Kyrios). Tin là sống cho Người, sống vì Người. Người sống và hoạt động trong ta nhờ Thánh Linh. Cuộc đời của các tín hữu là

Tân ước

129

hòa đồng với Người, trở nên đồng hình đồng dạng với Người. Trong thư Hípri, Đức Kitô được trình bày như là vị Thượng tế nhân hậu và thông cảm, trung gian cho chúng ta tuyên xưng đức tin (3,1). Ở đầu tác phẩm, Đức Kitô được tuyên xưng là Thánh Tử, Đấng mà Thiên Chúa phái đến để dạy dỗ chúng ta. Tuy nhiên, có một nét mà tác giả muốn nêu bật là việc Người đã chia sẻ thân phận con người với chúng ta: Người trở nên giống với chúng ta trong mọi sự, ngoại trừ tội lỗi (Hr 4,15). Người đã chịu nhiều thử thách như chúng ta, Người đã từng nếm những cảnh đau khổ, đã nhiều lần than van khóc lóc xin Chúa Cha giải thoát khỏi những đau khổ ấy (Hr 5,7). Chính vì đã trải qua những kinh nghiệm đau khổ cho nên Người thông cảm với chúng ta. Vì thế, sau khi hoàn tất hy lễ trên thập giá, Người tiến vào cung điện trên trời để chuyển cầu cho chúng ta. Và ở đầu chương 12, tác giả trình bày Đức Kitô như là “Đấng khai mở và kiện toàn đức tin”: a) “Đấng khai mở” (arkhegos) có thể hiểu như là người dẫn đầu hay lãnh đạo; nhưng cũng có thể hiểu như là khởi nguyên, mẫu mực nguyên thủy, bởi vì Người là nguồn gốc và nền tảng của ơn cứu độ (xc. 5,9); b) “Kiện toàn” (teleiotes, có nghĩa là làm cho trọn hảo, hoàn tất, dẫn đưa đến đích): nhờ cái chết của mình, Đức Kitô đã làm cho những lời hứa trở nên hiện thực, bởi vì Người đã được đưa vào hưởng niềm vui trên trời. Đây là một điểm khác biệt đáng kể so với tư tưởng của thánh Phaolô. Đối với thánh tông đồ, Đức Kitô là đối thể của đức tin (tin vào Đức Kitô là Chúa); còn đối với thư gửi Hípri thì Đức Kitô là một mẫu gương đức tin, hay nói cách khác: Đức Kitô là một tín hữu, một người có lòng tin. Kết luận Chúng ta có thể nêu bật vạch ra hai đặc trưng sau đây về bản chất đức tin trong thư Hípri:

130

Thần Học Đức Tin

1. Nhìn từ phía chủ thể, đức tin bao gồm thái độ xác tín, hy vọng, tin tưởng. Động lực của đức tin là lời Thiên Chúa hứa sẽ ban hạnh phúc cho chúng ta. 2. Nhìn từ phía khách thể, đức tin bao gồm việc chấp nhận vài chân lý: tin vào sự hiện hữu của Thiên Chúa (câu 6); tin vào Thiên Chúa là Đấng tạo dựng muôn loài (câu 3); tin vào Thiên Chúa là Đấng thưởng phạt công bằng (câu 6). Nhìn dưới viễn ảnh này, tác giả chưa làm nổi bật những nét độc đáo của đức tin Kitô giáo. Tuy nhiên, đây có thể là một lợi điểm cho cuộc đối thoại liên tôn, khi biết rằng chúng ta cùng chia sẻ với tất cả mọi người thân phận lữ hành tiến về quê hương vĩnh viễn (11, 10.13.16) cũng giống như dân Chúa trong Cựu ước, tuy rằng chúng ta có một lợi điểm hơn họ ở chỗ là một phần những lời hứa xưa kia thì nay đã thành hình nơi Đức Giêsu. Chúng ta nhìn nhận rằng đây là một điểm tích cực, bởi vì đưa ta đến tâm tình chia sẻ với những anh chị em đồng cảnh ngộ. Tuy nhiên, nhìn dưới một viễn ảnh khác, thì ta lại thấy một sự thiếu sót lớn về đức tin. Thật vậy, tác giả khuyến khích các tín hữu hãy duy trì đức tin, bền tâm vững chí; xem ra tất cả tùy thuộc vào nỗ lực của chúng ta, khác với thánh Phaolô nhấn mạnh đến ơn thánh! IV. Tin mừng Gioan Thánh Gioan tông đồ có một lối trình bày về đức tin rất độc đáo. Một đàng, tác giả tuyên bố rằng mục tiêu ông viết sách Tin mừng là để gợi lên đức tin nơi các độc giả (điều này dễ nhận thấy); đàng khác, ông sử dụng nhiều thuật ngữ riêng biệt để diễn tả đạo lý về đức tin (điều này đòi hỏi một quan sát chuyên môn). Vì thế trước khi đi vào chi tiết, chúng ta hãy dừng lại ở vài nhận xét tổng quát về mục tiêu và từ ngữ của Tin mừng thứ tư.

Tân ước

131

A. Nhận xét tổng quát 1/ Mục tiêu của tác phẩm Quyển Tin mừng thứ tư có hai kết luận: một kết luận ở cuối chương 20 (được coi là nguyên thủy) và một kết luận ở cuối chương 21 (xem như phụ thêm). Ở cuối chương 20, tác giả viết như sau: “Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để nhờ tin mà được sự sống nhờ danh Người” (20,30-31). Những dòng ngắn ngủi cho biết dụng ý của tác giả là để giúp các độc giả tin, và đối tượng của đức tin được tóm vào mệnh đề: “Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa”, và đức tin mang lại ích lợi là “sự sống đời đời”. Trước khi khai triển điều này, chúng ta hãy ghi nhận một đặc trưng khác liên quan đến từ ngữ. 2/ Từ ngữ Tầm quan trọng của đức tin đối với Tin mừng thứ tư được biểu lộ qua việc sử dụng từ ngữ trong tác phẩm này. Trong số 241 lần Tân ước dùng động từ “tin” (pisteuein), thì các tác phẩm Gioan đã chiếm đến 107 lần (98 lần trong Tin mừng, và 9 lần trong thư thứ nhất), tức là gần 40%. Trên thực tế, trong 20 chương của cuốn sách, chỉ có hai chương 15 và 18 là không có động từ “tin”. Mặt khác, Tin mừng thứ bốn không dùng danh từ “đức tin” (pistis), như chúng ta đã có dịp đối chiếu với thánh Phaolô (nơi mà danh từ pistis xuất hiện 142 lần - đó là không kể 32 lần trong thư Hípri - và động từ pisteuein được dùng 54 lần).33 Tự nó, động từ ám chỉ một hành động cụ thể, khác với danh từ Danh từ pistis chỉ được dùng 1 lần trong 1Ga 5,4. Trong sách Khải huyền, danh từ pistis được dùng ở 2,13.19; 13,10; 14,12; nhưng không có động từ pisteuein. 33

132

Thần Học Đức Tin

mang tính cách trừu tượng. Cũng nên biết là tác giả còn dùng nhiều động từ khác nữa để diễn tả hành trình của con người đến với Thiên Chúa, như sẽ nói sau. Ngoài ra, dựa theo cấu trúc văn phạm trong tiếng Hy lạp, động từ “tin” còn được dùng dưới nhiều dạng thức khác nhau: a) Nhiều khi động từ được sử dụng tuyệt đối, không có túc từ. Chẳng hạn như trong câu nói của Đức Giêsu với ông Nathanael: “Vì tôi nói với với anh là tôi đã thấy anh ở dưới cây vả, nên anh tin!” (1,50); hoặc câu nói với viên sĩ quan: “Nếu các ông không thấy dấu lạ điềm thiêng thì các ông sẽ chẳng tin đâu!” (4,48). Đứng trước ngôi mồ trống, người môn đệ yêu dấu “đã thấy và đã tin” (20,8). Việc sử dụng động từ ở thể tuyệt đối ra như muốn nói đến mối tương quan toàn diện của con người đối với Chúa Giêsu. b) Một hình thái thứ hai là động từ pisteuein kèm theo một túc từ ở tặng cách (dativo) là một người hay một sự việc. Tin có nghĩa là: chấp nhận là đúng. - “tin ai” (pisteuein với túc từ ở tặng cách dativo). Thí dụ: khi Chúa Giêsu nói rằng: “Nếu tôi nói sự thật cho các ông thì tại sao các ông không tin tôi?” Hình thái này được dùng 11 lần trong Tin mừng, và đối nhân là Chúa Giêsu (chỉ trừ 1 lần áp dụng cho ông Môsê). - tin các bằng chứng về Đức Giêsu, chẳng hạn như: “Kinh thánh và Lời” (2,27); “các điều đã viết và những lời nói” (5,47), “các công việc” (10,38). c) Nét đặc biệt nhất nơi thánh Gioan là động từ “tin” đi kèm theo giới từ eis: “tin vào” (thí dụ: 12,44.46; 14,1.12; 17,20; 1Ga 5,10.13). Đây là một thể thức độc đáo của Gioan (không có trong tiếng Hy lạp ngoại đạo hay trong Cựu ước) với 38 lần (và 8 lần

Tân ước

133

trong các sách khác của Tân ước). “Tin” có nghĩa là gắn bó với ai đó, và cụ thể là với Đức Giêsu Kitô là Con Một của Thiên Chúa, được Chúa Cha sai đến để cứu chuộc nhân loại, ngõ hầu chúng ta được trở nên con cái của Cha (xc. 1,18). Tác giả dùng nhiều lối diễn tả khác nhau để nói lên cũng một nội dung: - tin vào danh Người (eis to onoma: 1,12; 2,23;1Ga 5,13; eis to onomati: 1Ga 3,23); - tin vào Thiên Chúa (eis ton theon: 14,1); - tin vào Đấng đã sai tôi (6,29); - tin vào Con (eis ton huion: 3,36); - tin vào Con Người (eis ton huion tou anthrôpou: 9,35; 1Ga 5,10; - tin vào Đức Giêsu (eis ton Jêsoun: 12,11); - tin vào tôi (eis eme: 10 lần, thí dụ 6,35; 7,38; 11, 25.26...); - tin vào Người (eis auton: 16 lần, hiểu về Đức Giêsu, thí dụ 3,16.18.39 6,40); - tin vào ánh sáng (eis to phôs: 12,36) - tin vào lời chứng (eis martyrian: (5,10) của Thiên Chúa về Con của Người. d) một cấu trúc nữa là “tin” kèm theo một mệnh đề phụ qua một liên từ (“tin rằng”: pisteuein hoti) diễn tả đối tượng của lòng tin: tin rằng Đức Giêsu là Thiên Chúa (ego eimi: Jn 8,24; x. 13,19), Người là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa (11,27), Người được Chúa Cha sai đến 11,42; x. 16,27.28.30), Người ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Người (14,10). e) Đôi khi động từ “tin” đi kèm giới từ giải thích nguyên nhân (“tin vì, tin nhờ” pisteuein dia): tin nhờ ông Gioan (1,7), nhờ lời

134

Thần Học Đức Tin

của phụ nữ Samaria (4,41-42), nhờ lời các tông đồ (17,20), nhờ các việc làm (14,11). Qua việc phân tích cách thức sử dụng động từ “tin”, chúng ta nhận thấy thực thể này rất phong phú, cần được nhìn từ nhiều góc độ: Tin ai? Tin cái gì? Làm thế nào để tin? Tin là gì? Dựa vào đâu mà tin? Tin thì được cái gì? Chúng ta hãy theo dõi tiến trình của việc tin cùng với những hành động đi kèm. Đồng thời cũng không nên bỏ qua tính cách khẩn trương và bi thảm của nó. Ngay từ trong tự ngôn, khi diễn tả việc Lời Chúa mang sự sống vào trần gian, tác giả đã cảnh giác về hai thái độ của con người đứng trước Lời Chúa: hoặc là đón nhận hoặc là khước từ. Một bên là những người “đón nhận Người, tức là tin vào danh Người” (1,12); bên kia là những người “không nhận biết và không đón nhận Người” (1,10.11). Chính sự quyết định tự do này ảnh hưởng đến vận mạng vĩnh cửu của mỗi người. Dưới đây, chúng ta sẽ lần lượt khảo sát những đoạn văn nói đến (1) nhóm người tin vào Đức Giêsu, rồi đến (2) nhóm người không tin; sau cùng, (3) hệ luận của mỗi thái độ. B. Tiến trình dẫn đến việc tin vào Đức Giêsu Trước tiên chúng ta hãy tìm hiểu những người đón nhận Đức Giêsu. Họ gồm nhiều thành phần, với nhiều cấp độ tin khác nhau. Trong số những người tin, các môn đệ đáng dành một chỗ riêng. Tất cả đều chứng tỏ một sự tiến triển trong đức tin, từ sơ khởi đến thiện toàn. 1/ Ở cấp độ thấp nhất, chúng ta có thể kể đến những người tin vì thấy có dấu lạ; nói cách khác, nếu không có dấu lạ thì họ chẳng tin (x. 4,48). Tác giả mô tả nhiều hạng người như vậy từ chương 2 đến chương 4:

Tân ước

135

a) các môn đệ của Đức Giêsu sau khi chứng kiến dấu lạ ở Cana (2,11); b) nhiều người thấy các dấu lạ mà Đức Giêsu đã làm tại Giêrusalem nhân lễ Vượt qua (2,23); c) phần nào ông Nicôđêmô cũng có thể xếp vào số những người tin vào Đức Giêsu vì những dấu lạ mà Người đã làm (3,2); d) người phụ nữ Samari bắt đầu tin khi thấy Đức Giêsu nói đến những điều bí ẩn về đời tư của mình (4,19); e) sau cùng, một sĩ quan hoàng gia đến gặp Đức Giêsu tại Capharnaum vì muốn Người chữa lành cho con của ông (4,47). Đây mới chỉ là niềm tin sơ khởi và bất toàn, xét vì những dấu lạ chỉ mới chuẩn bị cho đức tin mà thôi. Đức tin đòi hỏi cái gì cao hơn nữa. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể nhận thấy đôi điều khác biệt giữa những người vừa kể. Thật vậy, có những người chỉ dừng lại ở chặng phép lạ, nhưng cũng có nhiều người đã tiến xa hơn: từ chỗ tin vì phép lạ đến chỗ tin vào Lời Chúa. a) Ông Nicôđêmô là một thí dụ. Ông không chỉ dừng lại ở các phép lạ, nhưng còn muốn gặp gỡ Đức Giêsu: ông được kể như vào số người “làm sự thật” (x. 3,21), bởi vì ông muốn đến gần ánh sáng. Đức tin của ông đã tiến triển rõ rệt: vào lúc đầu, ông còn sợ sệt, phải đến gặp Đức Giêsu ban đêm; nhưng dần dần ông đã ra mặt bênh vực Người công khai trước những lời tố cáo của các đồng nghiệp (7,51). Sau cùng, ông không ngại đến xin phép quan Philatô để cùng với ông Giôxếp Arimathê an táng Đức Giêsu (19,38-40). Như vậy là hai ông này đã tiến từ đêm tối ra thanh thiên bạch nhật. b) Chúng ta cũng thấy một sự tiến triển nơi lòng tin của người phụ nữ Samari. Lúc đầu, chị tin vào Đức Giêsu vì thấy Người đã hiểu rõ quá khứ của mình. Có thể nói được là chị tin vào lời của

136

Thần Học Đức Tin

Người, tuy rằng những lời này chứng tỏ một dấu lạ. Thế rồi chị đi làm chứng cho Người trước mặt dân làng rằng: “Ông ấy đã nói tất cả những gì tôi đã làm” (4,29). Dân làng nghe chị và chạy đến với Người. Cuối cùng, chính họ đã tin vào lời của Người, chứ không phải tại vì lời chứng của chị kể. Họ đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian (4,32). c) Nơi ông sĩ quan cận vệ nhà vua được kể ở chương 4, ta còn nhận thấy rõ hơn sự tiến triển về đức tin của ông. Ông đến gặp Đức Giêsu, xin Người đến Capharnaum để chữa đứa con của ông bị bệnh. Nhờ nghe biết những phép lạ, ông đã có một niềm tin sơ khởi vào Người. Thế nhưng thay vì đi theo ông về nhà, Người bắt ông phải tiến thêm một bước, đó là tin vào lời của Người: “Ông cứ về đi, con ông sống” (4,50). Ông đã tin vào lời Người nói với ông, và lòng tin đã cứu được con ông. Thánh Gioan còn ghi nhận thêm rằng: sau khi đã hay tin con mình được cứu, “ông và cả nhà đều tin” (4,53). Ở mức độ này, ắt hẳn đức tin của ông đã mạnh hơn, đó là chưa kể ông đã lôi cuốn thêm gia đình nữa. Có thể nói được rằng ở cuối chương 4, thánh Gioan đã cho chúng ta một khái niệm về đức tin trưởng thành, nghĩa là gắn bó với Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, không phải vì thấy dấu lạ điềm thiêng, nhưng là vì lời của Người. Tin vào Chúa là tin vào lời của Người. Đó là điều mà tác giả muốn dẫn chúng ta trong những chương kế tiếp. Chẳng hạn như trong chương 9, khi thuật lại việc chữa lành một người mù ở giếng Silôác. Anh ta đã tin vào lời của Đức Giêsu, đã đi rửa ở giếng, và anh đã được chữa lành (9,7). Sau đó, anh còn bênh vực cho Người trước những lời trách móc của nhóm Pharisêu, bằng những lý lẽ rất đơn sơ: “Xưa nay chưa hề nghe nói là ai mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh; nếu ông ta không phải là người bởi Thiên Chúa thì ông đã chẳng làm được gì” (9,33). Dù sao, tiến trình đức tin của anh mới đáng chúng ta lưu ý hơn: anh tin vào lời của Đức Giêsu, đã đi rửa mắt,

Tân ước

137

và được chữa lành. Nhưng sau đó, khi gặp lại Đức Giêsu, anh đã bày tỏ lòng tin với lời tuyên xưng minh nhiên. Khi gặp lại anh, Đức Giêsu hỏi: “Anh có tin vào Con Người không? Anh đáp: “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin?” Đức Giêsu trả lời: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây”. Anh nói: “Thưa Ngài, tôi tin. Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người” (9,35-38).

Như vậy, trong những chương đầu tiên của cuốn Tin mừng thứ tư, tác giả đã trình bày cho ta vài khuôn mẫu về sự tiến triển của lòng tin từ chỗ bất toàn (dựa trên dấu lạ) đến chỗ hoàn toàn (tin vào lời của Đức Giêsu). Tuy nhiên, song song với những nhân vật ấy, ta cũng nhận thấy có những khuôn mẫu của lòng tin hoàn hảo, chẳng hạn như của các môn đệ sẽ nói dưới đây, và đặc biệt là của Đức Maria, thân mẫu của Người. Tại tiệc cưới Cana, trước khi Đức Giêsu thực hiện dấu lạ, bà đã nói với gia nhân rằng: “Người bảo gì, thì các anh cứ làm theo” (2,5). 2/ Lòng tin của các môn đệ Thánh Gioan mô tả tiến trình các môn đệ gắn bó với Đức Giêsu theo một mô hình khác, không gắn với các dấu lạ; tuy nhiên, lòng tin của các ông vẫn cần được kiện toàn dần dần. Ngay từ chương một, tác giả đã kể lại ơn gọi của các môn đệ đầu tiên. Hai môn đệ nghe ông Gioan Tẩy giả giới thiệu “Đây là Chiên Thiên Chúa”, thì liền đi theo Đức Giêsu. Người hỏi các ông: “Các anh tìm gì thế?” Họ đáp: “Thưa Thầy, thầy ở đâu?” Người bảo họ: “Đến mà xem”. Họ đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Rồi họ rủ thêm các bạn hữu đến với Người, và lần lượt tiến đến chỗ tuyên xưng: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia, nghĩa là Đấng Kitô” (1,41); “Thầy là Con Thiên Chúa, Thầy là Vua Israel” (1,49). Trên tiến trình này, độc giả không thấy nói đến dấu lạ nào để tin (có lẽ ngoại trừ ông

138

Thần Học Đức Tin

Nathanael tin khi nghe nói Người đã thấy ông ở dưới cây vả): họ đã tin dựa vào lời chứng của một người bạn, và đặc biệt nhờ được tiếp xúc trực tiếp với Đức Giêsu. Dù sao, lòng tin ấy vẫn cần được tiến triển. Thật vậy, ở cuối chương 6, vào lúc nhiều môn đệ đã rút lui sau khi nghe diễn từ về bánh hằng sống, ông Phêrô đã tuyên xưng rằng “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (6,68-69). Tuy nhiên, chúng ta đã biết những lúc thăng trầm của lòng tin của họ. Đừng kể việc ông Phêrô đã chối Thầy (18,17.25.27) vì sợ người Do thái vào lúc Người bị bắt, chúng ta thấy các ông đã đặt ra nhiều thắc mắc và nghi vấn, điển hình là trong bữa Tiệc ly, với những câu hỏi của ông Philípphê: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha (14,9), hoặc của ông Tôma: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao biết được đường?” (14,5). Như chúng ta đã biết, sau khi nghe kể lại việc Chúa đã sống lại, ông Tôma đòi kiểm chứng bằng một dấu chỉ thì mới tin (20,25). Chúng ta đừng nên ngạc nhiên: lòng tin không phải là cái gì tĩnh, cố định, nhưng nó mang dấu ấn của cuộc sống. Trong bài diễn từ tại nhà Tiệc ly, Đức Giêsu một đàng cảnh báo rằng các môn đệ sẽ gặp nhiều thử thách về đức tin (16,1-4.32-33), đàng khác Người hứa sẽ phái một Đấng Bảo Trợ để giúp họ nhớ lại lời của Người, hiểu sâu xa những lời ấy, dẫn họ đến chân lý vẹn toàn, cũng như hỗ trợ họ trong công việc chứng tá (14,15-17.26; 15,25-26; 16,13-14). 3/ Những động tác đi theo lòng tin Ngoài việc nêu bật tính cách năng động của việc “tin”, tác giả Tin mừng thứ bốn còn sử dụng một lối khác để nói tính cách toàn diện của nó, theo nghĩa là nó vận dụng toàn thể con người. Tuy biết rằng “tin” đã bao hàm một thái độ gắn bó với một Ai

Tân ước

139

đó, nhưng ông còn muốn gắn thêm vài động từ đi kèm, tựa như: thấy và tin, nghe và tin, tin và biết, tin và hiểu, tin và làm chứng. a) Thấy và tin. Đối với thánh Gioan tông đồ, việc tin vào Chúa Giêsu giả thiết phải biết nhìn và ngắm. Trước hết, cần phải “thấy” Người (theo nghĩa thể lý), “quan sát” kỹ lưỡng (theorein: 14,19-20), rồi đến “chiêm ngưỡng” Người (hoặc: nhìn ngắm, thâsthai: 1, 14; 1Ga 1,1), và sau cùng là “thấy” (horân) dưới nhãn giới của đức tin.34 Đến cấp độ này thì mới đáng gọi là “tin”. Như vậy có thể phân biệt hai thứ “thấy”: một cái thấy theo nghĩa thể lý, và một cái thấy với cặp mặt đức tin; cái thấy thứ hai này mới chính là “tin”. Chúng ta có thể kể ra vài thí dụ. - Chúa Giêsu nói với ông Philípphê: “Ai thấy Thầy, là thấy Chúa Cha” (14,9). Hai cái “thấy” khác nhau: một đàng là “thấy” Đức Giêsu về thể lý, đàng khác là “thấy” Chúa Cha; hay nói đúng hơn: lúc đầu là “thấy” Đức Giêsu như con người, tiếp đó là “thấy” (nhìn nhận) Đức Giêsu như là kẻ mạc khải Thiên Chúa, và rồi tin vào Thiên Chúa. - Khi mô tả đức tin vào Chúa phục sinh, tác giả viết về người môn đệ yêu dấu như sau: “ông đã thấy và đã tin” (20,8). Ông “thấy” mồ trống và khăn liệm, và “tin” rằng Chúa đã sống lại. - Hai động từ “thấy” và “tin” còn xuất hiện ở cao điểm của đức tin vào Chúa phục sinh trong trường hợp của ông Tôma. Chúa nói với ông rằng: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin” (20,29). Chúng ta nên phân biệt hai giai đoạn: giai đoạn của các môn đệ Đức Giêsu, và giai đoạn của các thế hệ sau đó. a/ Giai đoạn của các môn đệ như ông

Trong tiếng Hy lạp, tác giả dùng những động từ khác nhau: blepein (thấy vật lý), theorein (quan sát kỹ lưỡng), theâsthai (chiêm ngưỡng), horan (thấy của đức tin). 34

140

Thần Học Đức Tin

Tôma: ông đã mong được thấy một dấu để tin, và ông đã được toại nguyện. Thực ra, việc này đã đòi hỏi một bước nhảy vọt rồi: việc “thấy” các dấu vết thương của Đấng chịu khổ nạn không đương nhiên dẫn đến việc “tin” Chúa phục sinh. Một bằng cớ đã được kể lại trước đó nơi bà Maria Magđala: bà “thấy” Đức Giêsu theo nghĩa thể lý, và bà nghĩ rằng đó là người làm vườn (20,15); cần có một cái “nhìn” mới mẻ thì bà mới nhận ra Chúa phục sinh (20,18). Một cách tương tự như vậy, ông Tôma cũng cần một cái “nhìn” mới mẻ thì mới nhận và tuyên xưng “Lạy Chúa của tôi, Lạy Thiên Chúa của tôi” (20,19). b/ Giai đoạn kế tiếp là thế hệ của những người sống sau thời các tông đồ: họ không còn được thấy Đức Giêsu về thể lý nữa, nhưng chỉ còn được nghe chứng tá của các tông đồ: tuy vậy, họ vẫn được gọi là “có phúc”, bởi vì dù không được thấy Chúa về thể lý, nhưng họ vẫn có thể “thấy” nhờ ánh sáng đức tin, qua lời giảng của các thánh tông đồ. b) Nghe và tin Động từ “nghe” (akouein) xuất hiện 58 lần trong Tin mừng thứ tư, trong đó 22 lần có túc từ là Đức Giêsu (hoặc: lời của Người), và 4 lần là Cha (hoặc: lời của Cha). Đây không chỉ có nghĩa là “nghe” theo nghĩa thể lý, nhưng nhất là chú ý, nghiền ngẫm lời trong tâm hồn. Đây là một tác động của Thánh Linh: “Ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi thì có sự sống đời đời” (5,24). “Thần khí mới làm cho sống ... Lời tôi nói với anh em là thần khí và là sự sống” (6,63). c) Tin và biết Trong văn hóa Do thái, “biết” không chỉ là một tác động của trí tuệ nhưng còn là một cảm nghiệm (tựa như là “quen biết” trong tiếng Việt). Cái “biết” này giả thiết một việc đào sâu và tăng trưởng lòng tin đến chỗ yêu mến Chúa Kitô và sống hiệp thông với Người. Chúng ta gặp thấy một thí dụ ở cuối chương 6.

Tân ước

141

Vì đã thâm tín rằng Đức Giêsu “có những lời đem lại sự sống đời đời”, ông Phêrô đã tuyên xưng: “Chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (6,69). Qua câu này, người ta nghĩ rằng “biết” là một hệ luận của “tin”: đức tin dẫn đến hiểu biết. Tuy nhiên, có khi “biết” đi trước “tin”, chẳng hạn 1Ga 4,16: “chúng tôi đã biết tình yêu và tin vào tình yêu”. Cuối cùng, nhờ tin mà ta được đưa đến sự sống đời đời, đó là biết Cha là Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và biết Đấng Cha sai đến là Giêsu Kitô (x. 17,3). d) Tin và làm chứng Trong Tin mừng thứ tư, mối liên hệ giữa “tin” và “làm chứng” (martyrein) rất chặt chẽ. Việc “tin” dựa trên chứng tá: điều này có nghĩa là chứng tá đi trước việc tin. Thật vậy, Đức Giêsu đã đến trần gian để làm chứng cho những điều đã thấy nơi Chúa Cha (3,11). Trước đó, ông Gioan Tẩy giả được phái đến để làm chứng cho ánh sáng. Ông làm chứng về Đức Giêsu trước mặt các tư tế và thầy Lêvi đến từ Giêrusalem (1,19-28) cũng như trước mặt đám đông rằng: “Tôi đã thấy, nên tôi xin chứng thật rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn” (1,34). Chính Đức Giêsu cũng làm chứng cho chính mình (5,31.37; 8,14.18); các việc Người làm cũng làm chứng cho Người (10,25), và chính Chúa Cha cũng làm chứng cho Người. Thánh Linh làm chứng cho Đức Giêsu (15,26), giúp cho các môn đệ hiểu rõ hơn những lời của Thầy (2,22; 12,16; 14,26; 16,13), và xác nhận rằng Đức Giêsu đến từ Chúa Cha (5,31; x. 1Ga 5,7-8.10). Những chứng tá ấy giúp cho chúng ta tin. Mặt khác, ai đã tin thì không cất giấu kho tàng cho riêng mình, nhưng muốn chia sẻ cho những người khác. Chúng ta vừa thấy một mẫu gương nơi ông Gioan Tẩy giả. Đến lượt người môn đệ của Chúa cũng làm chứng về điều mà mình đã thấy và ngắm nhìn, để dẫn đưa những người khác về đức tin vào Chúa

142

Thần Học Đức Tin

Kitô: “Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin” (19,35). “Điều chúng tôi đã nghe, đã thấy tận mắt ... chúng tôi loan báo cho anh em... để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi, mà chúng tôi thì hiệp thông với Chúa Cha và với Đức Giêsu Kitô (1Ga 1,3). e/ Tin, yêu, tuân giữ, ở lại Ông Origène (thế kỷ III) đã gọi Tin mừng thánh Gioan như một sách dạy về đời sống huyền nhiệm Kitô giáo. Chúng tôi không muốn đi sâu vào đề tài này,35 nhưng chỉ muốn lưu ý rằng, theo quan niệm của vị tông đồ này, “tin” vào Chúa Giêsu không chỉ là chấp nhận bằng một hành vi trí tuệ, nhưng còn là duy trì một tương quan thân mật với Người. Bên cạnh việc liên kết giữa động từ “tin” với các động từ “nghe”, “thấy”, “biết”, tác giả còn nói đến việc “tuân giữ lời” của Chúa, “ở lại” trong Chúa. Những mối liên hệ ấy chung quy cũng là những khía cạnh của “yêu thương”: ai tiếp đón Lời của Người thì ở lại trong Người và Người ở lại trong kẻ ấy. Ai giữ các điều truyền của Người thì ở lại trong tình yêu của Người, cũng như Người đã giữ các giới răn của Chúa Cha và ở lại trong tình yêu của Chúa Cha (xc. 15,410). C. Những người không tin Dụng ý của tác giả Tin mừng thứ tư là tường thuật những lời nói việc làm của Đức Giêsu ngõ hầu giúp các độc giả tin rằng Người là Con Thiên Chúa; nhưng ngay từ tự ngôn, tác giả đã báo trước rằng có những người tin và những người không tin. Có thể nói được là tác phẩm trình bày cho thấy một cuộc đối chất liên tục giữa thái độ “tin” hoặc “không tin”. Chúng ta đã điểm qua 35

Xc. Đời sống tâm linh, tập II, trang 50-60; tập IV, trang 168-172.

Tân ước

143

những nhân vật điển hình của nhóm đón nhận Đức Giêsu; bây giờ chúng ta bước sang nhóm đối nghịch. 1/ Thoạt tiên, chúng ta dễ có khuynh hướng xếp các môn đệ của Người về một bên, còn tất cả những người còn lại (đặc biệt là dân Do thái) về một bên; thế nhưng khi phân tích các bản văn thì câu chuyện không đơn giản như vậy. Thật vậy, theo các sách Tin mừng nhất lãm, thì các thượng tế, kinh sư và biệt phái đều thuộc nhóm chống đối Chúa Giêsu. Còn tác giả Tin mừng thứ tư lại cho biết rằng trong hàng lãnh đạo Do thái cũng có những người đi theo Người, chẳng hạn như ông Nicôđêmô và ông Giôxếp Arimathê; và rồi trong đám đông dân chúng, tác giả cũng ghi nhận có nhiều kẻ tin theo Người (4,39; 7,31; 8,30; 10,42; 12,42). Ngược lại, có những người đã làm môn đệ của Chúa, nhưng sau khi nghe bài giảng về bánh bởi trời thì lại bỏ cuộc (6,66). Như vậy, tác giả không dựa theo điều kiện thành phần xã hội để phân chia hai nhóm người, nhưng theo một tiêu chuẩn khác. 2/ Trong cuộc đàm đạo với ông Nicôđêmô diễn ra vào ban đêm, Đức Giêsu đã lấy khung cảnh thời gian như biểu tượng để phân biệt giữa một bên là “những người chuộng bóng tối hơn ánh sáng bởi vì các việc họ làm đều xấu xa” (3,20), và bên kia là những ai làm sự thật thì đến với ánh sáng (3,21). Ông Nicôđêmô lén lút đến với Chúa ban đêm, nhưng ông đã tìm được ánh sáng. Ngược lại, ông Giuđa Iscariốt, mặc dù đã ở với Đức Giêsu ba năm trường (6,70-71), nhưng vì ông là con người tham lam giả dối (12,5-6), cho nên ông vẫn không tin, và càng lúc càng chìm vào bóng tối. Khi thuật lại cảnh ông rút lui ra khỏi cộng đoàn, tác giả viết rằng: “Sau khi ăn miếng bánh, Giuđa liền đi ra. Lúc đó, trời đã tối” (13,30). Tuy nhiên, điều vừa nói chưa thỏa mãn tính hiếu kỳ của độc giả. Nói rằng “người tin” là kẻ chuộng ánh sáng, còn “người

144

Thần Học Đức Tin

không tin” là kẻ thích ở trong bóng tối thì mới chỉ là sự phê phán luân lý, nhưng chưa nói gì đến các động lực tâm lý. Có lẽ phải tìm lý do trong những đoạn văn khác. a) Ở chương 6, trong cuộc tranh luận về dấu lạ, tác giả cho thấy hai lý do ngăn cản việc tiến tới đức tin chân thực. Khi dân chúng tìm gặp Đức Giêsu, họ nói: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?” (6,25). Người trả lời: “Thật, tôi bảo thật các ông: các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê” (6,26). Đây là ngăn trở thứ nhất: những người không biết nhận ra “dấu chỉ”; họ đã được ăn bánh no nê, và họ chỉ dừng lại ở nhu cầu vật chất này, chứ họ không nhận ra rằng bánh vật chất chỉ là một dấu chỉ của thực tại thiêng liêng, đó là bánh bởi trời. Lý do thứ hai thì đã nói trước đó - ở câu 14-, đó là sau khi chứng kiến phép lạ, dân chúng muốn tôn Người làm vua. Họ bận tâm đến việc chính trị, mong đợi một lãnh tụ giải phóng; vì thế, họ không hiểu được ý nghĩa của việc mà Chúa đã làm. Cả hai lý do đều muốn nói rằng để chấp nhận đức tin, cần cố gắng vươn lên những mối ám ảnh về nhu cầu vật chất hoặc thế tục. b) Ở chương 9, tác giả cho thấy một ngăn trở khác là óc tự mãn. Đức Giêsu đã làm một phép lạ chữa người mù. Lẽ ra qua dấu lạ này, họ phải nhận ra sự can thiệp của Thiên Chúa, nhưng điều này đã không xảy ra. Tại sao vậy? Chính Đức Giêsu đã giải thích: “Nếu các ông đui mù thì các ông đã chẳng có tội; nhưng giờ đây các ông nói rằng ‘chúng tôi thấy’ nên tội các ông vẫn còn” (9,41). Thật là mỉa mai: kẻ tưởng rằng mình sáng mắt thì lại là kẻ mù! Chúng ta có thể hiểu là sự mù quáng tinh thần bắt nguồn từ tính tự mãn. Họ mù quáng đến nỗi không nhận ra dấu lạ mà Đức Giêsu đã làm, và không muốn nhìn nhận rằng anh kia trước đây đã bị mù (9,19-20). Với một thái độ cố chấp như vậy, thử hỏi làm thế nào họ có thể nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng từ

Tân ước

145

trời xuống? Họ quả quyết là đã biết gốc tích của Người, cho nên đâu thể nào từ trời xuống được (6,42)! c) Thực ra, nói cho cùng, không dễ gì thấu hiểu các lý do của việc tin và không tin. Trước đây, ông Nathanael cũng mang một thành kiến về gốc tích của Đức Giêsu: “Từ Nazareth có cái gì hay được?” (1,46), nhưng rồi ông cũng chịu nghe lời người bạn để đến với Người. Cái gì giúp ông vượt qua được thành kiến này? Phải chăng bởi vì trong thâm tâm, ông vẫn là con người đơn sơ, lòng dạ không gian dối (1,47), còn những người kia là con cái sự gian dối (8,44)? Phải chăng để chấp nhận chân lý thì tiên vàn phải sẵn sàng tuân theo ý Thiên Chúa, tìm vinh quang của Thiên Chúa chứ không phải vinh quang của mình (7,17; 8,50)? Dù sao, bên cạnh tâm tình tự nhiên, thánh Gioan còn cho biết rằng để có thể đến với Chúa Giêsu cần có một hấp lực khác nữa, sự “thu hút” từ phía Chúa Cha, như chúng ta đọc thấy hai lần trong chương 6: “Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy” (6,44.65). Chính Chúa Cha đã trao các môn đệ cho Đức Kitô, và không ai có thể tách rời họ được (6,26t.43-45.64. 10,29; 17,2.6.9). Một cách tương tự, các môn đệ cần có Thần khí thì mới thấu hiểu lời của Thầy (7,39). Tin là một ân huệ; nhưng điều này không có nghĩa là vì thiếu ân huệ cho nên mới có những người “không tin”! Không phải như thế: kẻ không tin là do lỗi của họ (15,22). D. Hệ quả của lòng tin Thánh Gioan gắn chặt lòng tin với sự sống đời đời: “tin” (pisteuein) đi liền với “được sự sống” (zooen echein) và những thuật ngữ tương tự. Thật vậy, đối với tác giả, “tin” là “có sự sống đời đời” (3,15.18.36; 5,24; 6,40); “không bị xét xử” (luận phạt: 3,18); “không bị diệt vong” (3,16), “không bị chết muôn đời” (11,26). Như đã nói ở đầu, tác giả đã muốn thuật những việc làm và lời nói của Đức Giêsu nhằm để cho người đọc “tin” và nhờ

146

Thần Học Đức Tin

tin mà họ được sống đời đời (20,31). Tin là cánh cửa bắt buộc dẫn tới sự sống. Đối lại, kẻ “không tin” (apeithein) thì đã bị xét xử (luận phạt: 3,18); “chết trong tội lỗi của mình” (8,24). Khi đối chiếu cánhchung-luận của Tin mừng thứ bốn với toàn thể Tân ước, các học giả đã nêu bật sự độc đáo của thánh Gioan ở chỗ là những việc phán xét, thưởng phạt đã diễn ra rồi, ngay từ đời này, chứ không cần phải chờ đến ngày tận thế (realized eschatology). Tác giả đề cao trách nhiệm tự do của con người: họ có quyền quyết định chấp nhận hoặc khước từ lời mời của Chúa. Số phận đời đời của họ tùy thuộc vào quyết định ấy, chứ không cần phải có sự phán xét nào bên ngoài. Chúng ta hãy nghe vài đoạn văn tiêu biểu. Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin thì đã bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa. (...) Ai tin vào người Con thì được sự sống đời đời; còn kẻ nào không chịu tin vào người Con thì không được sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng lên người ấy (3,16-19.36). Thật, tôi bảo thật các ông: ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi, thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống (5,24). Ai tin vào tôi thì không phải là tin vào tôi, nhưng là tin vào Đấng đã sai tôi. Tôi là ánh sáng đến thế gian để bất cứ ai tin vào tôi, thì không ở lại trong bóng tối. Ai nghe những lời tôi nói mà không tuân giữ, thì không phải chính tôi sẽ xét xử người ấy, vì tôi đến không phải để xét xử thế gian, nhưng để cứu thế gian. Ai từ chối tôi và không đón nhận tôi, thì có

Tân ước

147 quan tòa xét xử người ấy; chính lời tôi nói sẽ xét xử người ấy trong ngày sau hết (12,44-48).

Dĩ nhiên, ở đây “sự sống” không hiểu về sự sống vật chất (bios), nhưng là chính sự sống của Thiên Chúa (zoê), sự sống thần linh (1,4). Sự sống vĩnh viễn đã trở thành thực tại: nhờ tin, con người được tái sinh (3,21) được chuyển từ chỗ chết sang sự sống (5,24), đã bước từ tối tăm đến ánh sáng (3,21; 8,12). Kết luận Tin là một chủ đề then chốt của Tin mừng thánh Gioan. Tác giả đã viết tác phẩm để giúp cho người đọc tin vào Đức Giêsu. Thậm chí phải nói rằng tất cả công cuộc cứu chuộc của Đức Giêsu là để chúng ta tin vào tình thương của Thiên Chúa: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến” (6,29; x. 3,16). Khi tìm hiểu các bản văn của thánh Phaolô, chúng ta đã phân biệt hai khía cạnh của đức tin: khía cạnh khách thể và khía cạnh chủ thể. Khía cạnh khách thể là lời giảng của thánh tông đồ, gọi tắt là “Tin mừng”; khía cạnh chủ thể là lắng nghe, vâng phục, đồng hóa. Tuy nhiên, đối tượng của Tin mừng là Đức Kitô đã chịu chết và phục sinh. Khác với thánh Phaolô, trong Tin mừng thứ tư, Đức Giêsu đang hiện diện giữa những người đương thời. Người làm chứng về tình yêu của Chúa Cha bằng lời giảng, việc làm và chính bản thân của mình. Người đòi hỏi các người nghe hãy đáp trả bằng một sự gắn bó toàn diện với Người. Không lạ gì mà nơi đây, khía cạnh chủ thể của đức tin được nhấn mạnh hơn là khía cạnh khách thể. Mặt khác, sự gắn bó với Đức Giêsu đương nhiên bao hàm khía cạnh khách thể rồi, bởi vì Người là “Lời của Thiên Chúa”, kẻ mạc khải Thiên Chúa cho loài người.

148

Thần Học Đức Tin

Tuy nhiên, khi bước sang thư thứ nhất của thánh Gioan thì tình trạng đã thay đổi: lúc này, tin là chấp nhận lời chứng của thánh tông đồ (1Ga 1,3; 2,24), tuy dù tác giả nhấn mạnh không ít đến lời chứng nội tâm của Thánh Linh (1Ga 2,20.27). Tin mang tính cách năng động: điều này không chỉ muốn nói đến sự tiến triển về cường độ nhưng nhất là nó bao gồm toàn thể các hoạt động của con người: tin đi với hiểu biết, chiêm ngắm, và nhất là yêu mến. Tin là một sự gắn bó toàn diện với Đức Giêsu là Con Một của Chúa Cha. Tuy rằng “tin” là một quyết định cá nhân, nhưng cũng được chia sẻ với những người cùng một niềm tin để tạo ra một sự thông hiệp trọn vẹn (17,21-23; 1Ga 1,3).

Kết luận Phần Thứ Nhất

GIÁO HUẤN KINH THÁNH VỀ ĐỨC TIN Trong hai chương vừa rồi, chúng ta đã tìm hiểu khái niệm về đức tin trong Kinh thánh Cựu ước và Tân ước: giữa đôi bên có sự liên tục và khác biệt. Cả hai đều nói lên tương quan giữa con người với Thiên Chúa. Mối tương quan này dựa trên việc Thiên Chúa đã tỏ hiện ý định của Người cho con người. Con người được mời gọi đón nhận, tin tưởng để cho Thiên Chúa dẫn dắt. Thiên Chúa của Kinh thánh không phải là một ý niệm trừu tượng nhưng là một Đấng can thiệp vào lịch sử nhân loại. Sự khác biệt căn bản giữa Cựu ước và Tân ước nằm ở chỗ là: trước đây, Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử của một dân tộc, và lịch sử này kéo dài nhiều thế kỷ; bây giờ Thiên Chúa can thiệp qua cuộc đời của một nhân vật là Đức Giêsu Kitô. Giữa đôi bên có một điểm chung xét về thái độ đáp trả của con người: tin tưởng, phó thác, kiên trì; nhưng Tân ước nhấn mạnh thêm việc

150

Thần Học Đức Tin

chấp nhận một đạo lý: tin có nghĩa là nhìn nhận rằng Thiên Chúa ban ơn cứu độ cho con người qua Đức Giêsu Kitô. Cách riêng, đối với thánh Phaolô và thánh Gioan, chúng ta không chỉ tin vào Thiên Chúa, nhưng còn tin vào Đức Giêsu là Thiên Chúa. Chúng ta đã thấy rõ điều này khi phân tích các đoạn văn của hai tác giả vừa nói. Để kết thúc phần thứ nhất, chúng tôi muốn bổ túc thêm ba vấn đề: a) Kinh thánh nói gì về việc “không tin”? b) Đức Giêsu có đức tin không? c) Cuối cùng là đôi hàng suy nghĩ về đức tin của Mẹ Maria. I. Tin và không tin Các tác giả Kinh thánh đã cho thấy nhiều khía cạnh của “tin, lòng tin, niềm tin, đức tin”. Đối lại với những thực thể ấy là “không tin”. Tuy nhiên, chúng ta đừng vội đồng hóa những người “không tin” với người “vô thần, vô tín ngưỡng”. Kinh thánh được viết cho những người đã có tín ngưỡng và đã tin vào Chúa. Thế nhưng chính các tín đồ lại bị trách là “không tin”, cũng như trong Tân ước, các môn đệ cũng nhiều lần bị trách là “không tin, kém tin, yếu tin”. Chúng ta hãy đọc lại vài đoạn văn dọc theo lịch sử mạc khải.36 Nói chung, trong Kinh thánh, sự “không tin” (apistia, apistos, apisteo: incredulitas, incredulus) không nhắm đến những người ngoại đạo, những người thờ ngẫu tượng, nhưng nhắm đến dân của Thiên Chúa. “Không tin” ở đây không phải là phủ nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa hoặc khước từ thiên tính của Đức Kitô, nhưng là không nhận biết những dấu chỉ của Thiên Chúa hay những chứng nhân của lời Chúa, hoặc không vâng theo lời Chúa. Đôi khi nó ám chỉ một tội của toàn dân, đôi khi nó nói riêng một X. Léon-Dufour, “Incredulità”, in: Dizionario di Teologia Biblica, Marietti, Torino, 1976, col.541-546. 36

Giáo huấn Kinh thánh về đức tin

151

nhóm người nào đó. Điều đáng nói là sự “không tin” có nhiều cấp độ, và có thể xảy ra nơi người đã tin (tín hữu). Hạn từ này không thể dịch là “vô tín ngưỡng”, nhưng nếu gọi là “bất tín (bội tín?), bất trung” thì có lẽ cũng không xa sự thật lắm, như sẽ thấy. A. Trong Cựu ước Có thể ghi nhận tội “không tin” của dân Israel vào những giai đoạn sau của lịch sử: trên sa mạc (trước khi vào đất hứa), trong đất hứa. 1. Trên sa mạc Các tác giả Sách thánh đã gọi tội “không tin” bằng nhiều tên khác nhau: “phản loạn” (Ds 20,10; Đnl 9,24), “ngoan cố” (Ds 14,9; Đnl 32,,15), “cứng cổ” (Xh 32,9; 33,3; Đnl 9,13; Gr 7,26; Is 48,4), và nhất là “lẩm bẩm, than trách”. Chúa Giêsu cũng dùng từ này để nói đến những kẻ không tin vào Người (Ga 6,41.43.61). Dân chúng lẩm bẩm khi thiếu lương thực và họ không tin rằng Thiên Chúa sẽ nuôi sống họ (Ex 15,24; 16,2; 17,3). Họ lẩm bẩm kêu trách khi đương đầu với những quân lính hùng mạnh án ngữ lối vào đất hứa (Ds 14,1; Xh 14,11). Tội “không tin” nằm ở chỗ khinh thường Thiên Chúa (Ds 14,11), thiếu tin tưởng (Ds 14,11), thử thách quyền năng của Chúa (Xh 17,7). Một hình thức khác của tội “không tin” là tạc tượng bò vàng (Xh 32; Đnl 9,12-21). Họ muốn làm chủ tình thế, chứ không muốn nhờ vả vào Thiên Chúa. Đó cũng là động lực của các tục ma thuật bói toán, còn kéo dài cho đến thời lưu đày (Xh 22,17; Đnl 18,10; 1Sm 18,3-25). 2/ Khi đã vào đất hứa, tội “không tin” của dân Israel quen phạm là chạy theo thần tượng ngoại bang. Điều này cho thấy là họ đã không dành trót con tim cho Thiên Chúa, nhưng tâm hồn

152

Thần Học Đức Tin

của họ đã bị chia sẻ (Hs 10,2); các ngôn sứ sánh ví như tội ngoại tình (Hs 2; Gr 2-4; Ed 16). Đối với ngôn sứ Giêrêmia, tội “không tin” nằm ở chỗ đặt niềm tin ở nơi loài thụ tạo (Ed 5,17; 7,4; 8,14; 17,5; 46,25; 49,4). Bất chấp những lời cảnh giác, dân chúng cứ lì lợm với tội ấy, thành ra cứng lòng (Is 6,9). B. Tân ước 1. Trong các lời giảng, Đức Giêsu bày tỏ một uy quyền như các ngôn sứ và thậm chí Người còn dám giải thích luật mà ông Môsê đã ban hành, và đã được tuân giữ qua nhiều đời đến nỗi trở thành truyền thống. Người cũng làm nhiều dấu lạ để biện minh cho sứ mạng của mình. Thế nhưng, bên cạnh những đón tiếp hồ hởi của dân chúng khi chứng kiến các phép lạ, Đức Giêsu gặp sự chống đối của cấp lãnh đạo tôn giáo (Mt 15,7; 23,13), của các thành phố ven bờ hồ (Mt 11,20-24), của thành Giêrusalem (Mt 23,37). Điều đáng ghi nhận là ngay giữa hàng ngũ những người đã tin (tức là các môn đệ) cũng có kẻ “không tin” ít nhiều, khiến Người khiển trách họ là “ít tin, kém tin” (oligopistia), chẳng hạn như khi gặp biển động, bão tố (Mt 8,26; 14, 31), khi lo lắng vì thiếu bánh (Mt 16,8). Tình trạng này càng tăng hơn nữa trước sự “vấp phạm” của thập giá (Mt 16,23). Điều trớ trêu là chính biến cố Chúa đã sống lại đã đặt các môn đệ trong tình trạng “không tin” hay “chậm tin” (Lc 24,25.37.41; Mt 28,17; Mc 16,11.13.14): đối với họ, chuyện ấy không thể nào xảy ra được. 2. Trong các thư của thánh Phaolô, thái độ “không tin” ám chỉ cách riêng về dân tộc Israel bởi vì họ không chấp nhận Đức Kitô, tuy chúng ta biết rằng họ không phải là những người vô thần hoặc thờ ngẫu tượng. Trong thư gửi Roma, thánh tông đồ đã dành ba chương (9-11) để suy gẫm về “mầu nhiệm” này. Mặt khác, một người Kitô hữu chối bỏ đức tin thì cũng kể như “không

Giáo huấn Kinh thánh về đức tin

153

tin” (1Tm 5,8). Ở đây sự “không tin” trở thành “bất tín”, nhưng Thiên Chúa luôn trung tín (2Tm 2,13). II. Đức tin của Đức Giêsu Chúng ta biết rằng thánh Phaolô và thánh Gioan đã nêu bật nét độc đáo của đức tin Kitô giáo ở chỗ là người tín hữu “tin vào Thiên Chúa và tin vào Đức Kitô”. Đức Kitô trở thành đối thể của đức tin, hay nói cách khác, Đức Kitô là nội dung của đạo lý đức tin. Liệu có thể nói rằng: Đức Giêsu có đức tin không? Truyền thống thần học Công giáo không đặt vấn đề, bởi vì cho rằng Đức Giêsu là Ngôi Lời nhập thể; Ngài có tri thức trực tiếp về Thiên Chúa. Đức tin chỉ có ở nơi những ai chưa nhìn thấy Thiên Chúa nhãn tiền.37 Tuy nhiên, một luồng thần học nổi lên hồi đầu thế kỷ XX đưa ra giả thuyết mới: Đức Giêsu có đức tin, bởi vì có những đoạn văn Tin mừng cho thấy rằng tri thức của Người cũng bị hạn chế. Theo họ, trong quá khứ, người ta quá đề cao kiến thức phú bẩm nơi Đức Kitô mà bỏ qua kiến thức thủ đắc nơi Người. Chúng tôi không muốn đi sâu vào vấn đề này, nhưng chỉ giới hạn vào vấn đề đức tin của Đức Giêsu dựa theo các bản văn Tân ước, và cụ thể là thư thánh Phaolô và thư gửi Hípri.38 1/ Chúng ta bắt đầu bằng thư gửi Hípri. Ở đầu chương 3, tác giả viết rằng Đức Giêsu là “sứ giả và thượng tế của đức tin mà chúng ta tuyên xưng” (Hr 3,1), và đầu chương 12, Người được gọi là “Đấng khai mở và kiện toàn đức tin” (12,2). Đức Giêsu đã mở ra một đường lối mới trong việc thực hành lòng tin vào Thiên Theo thánh Tôma Aquinô, Đức Giêsu không có đức tin (Summa Theologica, III, q.7, a.3) bởi vì đối tượng của nó là “res divina non visa”. 37

38

AA.VV. (a cura di G. Canobbio), La fede di Gesù, Dehoniane Bologna 2000. J. Guillet, La foi de Jésus Christ, Mame Paris 2011.

154

Thần Học Đức Tin

Chúa. “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lên lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời vì có lòng tôn kính. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người” (5,7-8). Như vậy, Đức Giêsu đã trở thành mẫu gương cho đức tin, theo nghĩa là phó thác mình trong tay Thiên Chúa, tin tưởng rằng Người sẽ thực hiện các lời hứa; hơn thế nữa, xét vì Người đã đến độ thập toàn cho nên Người trở nên mẫu mực cho tất cả mọi người tin vào Thiên Chúa. 2/ Một luận cứ khác dựa trên công thức “đức tin của Đức Kitô” (pistis Khristou), được dùng 8 lần trong các thư thánh Phaolô: Pl 3,9; Rm 3,22.26; Gl 2,16 (2 lần); Gl 2,20; Gl 3,22; Ep 3,12. Nơi các tác phẩm thánh tông đồ, chúng ta thường gặp thuật ngữ “đức tin vào Đức Kitô” (pistis en Kristô), nghĩa là Đức Kitô là đối thể của đức tin, còn chủ thể là chúng ta. Khi nói đến “đức tin của Đức Kitô” (ở thuộc cách: genitivo), phải chăng thánh Phaolô muốn nói đến Đức Kitô như là chủ thể? Chung quanh thuật ngữ này đã có bốn ý kiến sau đây: - a) Ý kiến cổ truyền (các giáo phụ Đông phương và Tây phương, và thánh Tôma Aquinô) giải thích theo nghĩa là “tin vào Đức Kitô”. Đức Kitô là đối thể của đức tin. (= nghĩa khách thể). - b) Ý kiến của các nhà chú giải cận đại cho rằng phải hiểu về “đức tin của Đức Giêsu” (= nghĩa chủ thể): Người đã tín thác vào Thiên Chúa. Đức tin của Người đã ảnh hưởng đến đức tin của các tín hữu. - c) Một ý kiến khác cho rằng nên hiểu về đức tin mà Đức Kitô đã gợi lên cho các tin hữu, để họ tin vào Thiên Chúa cũng

Giáo huấn Kinh thánh về đức tin

155

như tin vào Người (x. Ga 14,1). Đức Kitô là tác giả đức tin của chúng ta. - d) Nghĩa tổng hợp: người tín hữu được kết hợp với Đức Kitô, nhờ vậy họ sống lại lòng tin của Người cũng như lòng tin đối với Người. Thiết tưởng để trả lời cho câu hỏi “Đức Giêsu có đức tin không?”, thì cần phải hỏi lại: tin (lòng tin, niềm tin) là gì? Phải chăng đức tin nhắm đến sự “chiêm ngưỡng” bản tính Thiên Chúa? Hoặc đức tin được hiểu như là “vâng phục, tín thác”? Một điều chắc là Đức Giêsu là mẫu gương tín thác vào tình thương của Cha: Người ra đi rao giảng Nước Trời, và không phải lúc nào cũng gặp thành công. Cái chết trên thập giá nói lên sự thất bại của sứ mệnh. Tuy vậy, Người vẫn tiến bước, bởi vì tin rằng Cha sẽ thể hiện kế hoạch vào lúc và theo cách thức mà Cha định. Người lấy ý Cha làm lương thực đời mình, kể cả vào lúc tối tăm. Đó chẳng phải là đức tin đấy ư? Hơn thế nữa, nếu hiểu “tin” như là “trung tín”, thì phải nói rằng chính Thiên Chúa là Đấng trung tín hơn hết, là nền tảng và nguồn gốc của đức tin. III. Đức tin của Mẹ Maria Người ta có thể tiếp tục tranh cãi về đức tin của Đức Giêsu, nhưng một điều chắc chắn là sách Giáo lý Hội thánh Công giáo đã trình bày ông Abraham như khuôn mẫu mở đầu cho những người tin trong lịch sử cứu độ và Đức Maria như khuôn mẫu của những người tin trong thời Giao ước mới (GLCG số 145-149). Tư tưởng này được gợi hứng từ lời chúc của bà Elizabeth: “Em thật có phúc vì đã tin”, hoặc cũng có thể dịch là “Hạnh phúc thay cho em, bởi vì em đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì người nói với em” (Lc 1,45). Thật ra, biết bao nhiêu thế hệ Kitô hữu đã nghe đọc đoạn văn ấy nhưng ra như họ phớt qua, bởi vì mỗi khi nghĩ đến Mẹ Maria, người ta dễ liên tưởng đến một

156

Thần Học Đức Tin

người phụ nữ phi thường, được Chúa ban muôn vàn ơn huệ ngay từ lúc thành thai trong lòng thân mẫu, và suốt đời luôn sống trong ánh sáng huy hoàng vì được chiêm ngưỡng Chúa. Thế nhưng Công đồng Vaticanô II đã đọc lại Kinh thánh và đã khám phá ra một bức chân dung đích thực của Đức Maria. Người được hạnh phúc không phải bởi vì đã được Chúa đổ tràn ân sủng, cũng chẳng phải vì Người là một phụ nữ có một không hai trên đời này, nhưng bởi vì Người đã tin vào Lời Chúa. Như vậy, công đồng muốn giới thiệu Đức Maria rất gần gũi với chúng ta: Người cũng chia sẻ những gian nan vất vả như chúng ta, không những vì Người thuộc vào thành phần nghèo khổ về vật chất nhưng thậm chí Người cũng gian nan trong hành trình đức tin nữa. Đây không phải là những suy tư chủ quan, nhưng dựa trên các bản văn Tin mừng, đặc biệt là thánh Luca. Thật vậy, trong các tác phẩm Tân ước, Luca là người nói nhiều đến Đức Maria hơn cả. Thế nhưng, bên cạnh cảnh truyền tin thuật lại ơn gọi đặc biệt của Đức Maria, thì Luca cũng có nhiều đoạn văn vạch cho thấy đâu là phúc thật của Người. Ngoài câu văn của bà Elisabeth vừa trưng dẫn, ta còn thấy một câu văn quan trọng, ra như muốn sửa đổi não trạng thông thường của chúng ta. Theo quan niệm bình dân, ai cũng nghĩ rằng Đức Maria thật vinh dự bởi vì được chọn làm Mẹ của Chúa Giêsu. Vì thế không lạ gì một bữa kia, một người đã lên tiếng: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm”, nhưng Chúa Giêsu đã sửa lại: “Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11,27-28). Thật ra thánh Luca đã nói đến điều này ngay từ chương 2 rồi, khi ông lặp đi lặp lại hai lần “Đức Maria hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng” (câu19); “riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (câu 51). Đó là nền tảng để công đồng đi tới kết luận ở số 58 của hiến chế về Hội thánh: “Đức Trinh nữ diễm phúc tiến bước trên con đường lữ hành đức tin”.

Giáo huấn Kinh thánh về đức tin

157

Sau công đồng, tư tưởng này được phát triển đặc biệt nơi đức Gioan Phaolô II. Người đã dành thông điệp dài nhất về Đức Maria, tựa đề “Thân mẫu Chúa Cứu thế” (Redemptoris mater, ngày 25 tháng 3 năm 1987) để khai triển đề tài “hành trình đức tin của Mẹ”; và chắc rằng do ảnh hưởng của ngài mà sách Giáo lý Hội thánh Công giáo đã giới thiệu Đức Maria cùng với ông Abraham như mẫu gương của sự vâng phục đức tin. Nói đến cuộc lữ hành đức tin, công đồng Vaticanô II cũng như đức Gioan Phaolô II hiểu về cả một tiến trình lâu dài. Lời ca ngợi của bà Elizabeth rằng Đức Maria thật là có phúc vì đã tin, không chỉ giới hạn vào lúc trả lời “Xin vâng” với thiên sứ Gabriel. Đành rằng theo mạch văn của chương Một của Tin mừng Luca, có lẽ tác giả muốn đối chiếu hai thái độ đáp trả lời thiên sứ: một đàng, thiên sứ báo tin cho ông Dacaria rằng bà vợ của ông tuy đã cao niên và son sẻ nhưng sẽ sinh ra một con trai, nhưng ông tỏ ra ngờ vực; đàng khác, sứ thần báo tin cho trinh nữ Maria rằng bà sẽ sinh con thì Người chấp nhận. Do đó, người đọc sẽ dễ nghĩ rằng bà Elizabeth khen ngợi Đức Maria ở một điểm cụ thể ấy. Thế nhưng ngày nay, nhiều nhà chú giải Kinh thánh mở rộng tầm nhìn hơn nữa: qua miệng bà Elizabeth, người ta đọc thấy lời chúc tụng của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi “kêu lớn tiếng” (Lc 1,42), nghĩa là tung hô Đức Maria vì thái độ tin tưởng của Mẹ trong toàn thể công trình cứu chuộc. Nói cách khác, Đức Maria không những chỉ bày tỏ đức tin vào buổi Truyền tin của sứ thần mà còn qua nhiều biến cố khác nữa. Thật vậy, trong thông điệp vừa nói, đức Gioan Phaolô II đã dành các số 12 đến số 24 để theo dõi cuộc lữ hành đức tin của Đức Maria, từ lúc truyền tin cho đến lúc Chúa Giêsu chịu chết trên thập giá và phục sinh. Dĩ nhiên, phải nhận rằng biến cố truyền tin là một hành vi điển hình của đức tin. Tin là đáp lại “Xin vâng” trước lời Chúa mạc khải. Đức Maria đã làm như thế

158

Thần Học Đức Tin

khi nghe thiên sứ truyền tin. Tuy nhiên, chúng ta cần suy nghĩ sâu xa hơn nữa, bởi vì ngoài việc thuận nhận làm mẹ Đức Giêsu, Đức Maria còn bày tỏ sự phó thác hoàn toàn cuộc đời để cho Chúa dẫn dắt. Về điểm này thật có lý để so sánh Người với tổ phụ Abraham xưa kia, khi ông tin vào Lời Chúa hứa, và lìa bỏ quê hương họ hàng, lên đường đi theo tiếng Chúa. Hình như thánh sử Luca muốn gợi lại hình ảnh đó, khi ông thuật lại việc Đức Maria vội vã lên đường đến nhà ông Dacaria để thăm bà Elizabeth. Cuộc viếng thăm này không chỉ mang tính cách nhân bản xã giao, để chia vui với bà chị đã mang thai sau bao nhiêu năm mong đợi. Các nhà chú giải Kinh thánh còn đưa ra nhiều lý do khác. Một lý do dễ nhận thấy là Đức Maria đã mang lại cho nhà ông Dacaria sự chúc lành, như chính bà Elizabeth đã nghiệm thấy; vì lý do này mà nhiều người đã chào kính Đức Maria là mẫu gương loan báo Tin mừng: Người đã mang Chúa Giêsu cho tha nhân. Tuy nhiên, ta cũng có thể nghĩ tới động lực đức tin. Hình như Đức Maria còn giữ kín câu chuyện truyền tin, và thậm chí chưa cho ông Giuse biết. Người muốn đi tìm một người có thể hiểu câu chuyện để chia sẻ những khó khăn của niềm tin. Việc bà Elisabeth mang thai là một dấu hiệu cho thấy rằng “đối với Thiên Chúa, không có gì mà Chúa không thể làm được” (Lc 1,37). Cuộc hành trình vừa địa lý vừa thiêng liêng tiếp tục với việc rời Nazareth để về Bêlem, nơi Chúa Cứu thế ra đời. Thật là một thử thách đức tin, khi thấy rằng Đức Giêsu, kẻ được hứa sẽ được ngồi trên ngai vua Đavít, nhưng lại không tìm được chỗ trú ngụ ngay tại thành vua Đavít. 40 ngày sau đó, Đức Maria thực hiện một cuộc hành trình lên đền thờ Giêrusalem để dâng hài nhi trong đền thờ. Tại đây thân mẫu của hài nhi được nghe một lời tiên báo của ông Simêôn rằng: “Một lưỡi gươm sẽ đâm thâu qua hồn của bà” (2,35). Hài

Giáo huấn Kinh thánh về đức tin

159

nhi vừa là ánh sáng soi chiếu muôn dân và vinh quang của Israel, vừa là duyên cớ vấp ngã cho nhiều người. Thánh Luca viết rằng ông Simêôn lên đền thờ lúc ấy không phải là do tình cờ, nhưng là “do Thánh Linh thúc đẩy” (2,26). Vì thế đức Gioan Phaolô II không ngại so sánh câu nói của ông Simêôn như là lời truyền tin thứ hai nói về những đau khổ của Đức Giêsu. Lời truyền tin thứ hai của ông cụ trái ngược hẳn với lời truyền tin của thiên sứ Gabriel. Thế nhưng Đức Maria đã chấp nhận tất cả, bởi vì Người làm tất cả những gì Luật Chúa truyền. Một cuộc hành trình tiếp theo được thánh Mátthêu thuật lại, đó là đưa hài nhi sang Ai cập để lánh nạn. Thánh sử kể lại chuyện này (cũng như việc trở về Nazareth sau đó) với lời bình giải “hầu ứng nghiệm lời Sách thánh”, nghĩa là hoàn toàn tuân theo Chúa xếp đặt. Đó chẳng phải là hành trình đức tin đó sao? Rồi thánh Luca thuật cho chúng ta biết chuyện Đức Giêsu lìa bỏ cha mẹ và ở lại trong đền thờ. Sau khi ngược xuôi tất tưởi, đến khi gặp lại Người thì bà lại nhận được lời trách móc thay vì lời xin lỗi: “Tại sao cha mẹ lại tìm con?” (Lc 2,49). Thánh sử Luca chú giải rằng thánh Giuse và Đức Maria không hiểu nổi những chuyện này (Lc 2,50). Thế nhưng chính vì thế mà Đức Maria đã ghi nhận tất cả những điều ấy trong lòng. Chúng ta có lý do để suy đoán rằng Người đang trải qua một cuộc thanh luyện đức tin trong tương quan với Đức Giêsu, mà Người phải chuyển đổi từ những tâm tình tự nhiên của tình mẫu tử sang tương quan siêu nhiên của đức tin, nghĩa là để trở thành một người môn đệ lắng nghe và tuân hành Lời Chúa, như chính thánh Luca đã ghi lại câu nói của Chúa về chân dung của người thân nhân họ hàng đích thực. Thật vậy, trong cuộc đời công khai của Đức Giêsu, ít là đã có hai lần ra như Người muốn từ khước bà mẹ trước mặt công chúng, với những lời cảm thấy đau nhói đến tim! Một lần, khi được báo tin là thân mẫu là đến thăm, Người trả lời: “Ai là

160

Thần Học Đức Tin

mẹ tôi, ai là anh em tôi? Mẹ tôi và anh em tôi là những ai lắng nghe Lời Chúa và mang ra thi hành” (Lc 8,19-21). Một lần khác, từ đám đông, một phụ nữ thốt lên: “Phúc cho lòng đã cưu mang Ngài và vú đã cho Ngài bú!’ Chúa trả lời: ‘Ai nghe Lời Chúa và tuân hành thì còn có phúc hơn’” (Lc 11,27-28). Dù sao, cao điểm của cuộc thử thách đức tin của Đức Maria là cái chết của con mình trên thập giá. Thập giá là sự phủ nhận những lời mà trước đây thiên sứ Gabriel đã nói về Đức Giêsu như là Con Đấng Tối Cao, kẻ sẽ ngự trên ngôi báu Đavít, là Con Thiên Chúa. Đến đây ta hiểu rõ hơn lời chúc mừng của Hội thánh qua miệng bà Elizabeth: “Hạnh phúc thay kẻ tin rằng Lời Chúa sẽ thực hiện”. Đức Maria đã giữ vững niềm tin khi mà không còn gì để tin tưởng dưới mắt người đời. Vì vậy, Người đã trở nên mẫu gương đức tin cho chúng ta, và trở nên mẹ của chúng ta trong đức tin. Nhờ đức tin của Đức Maria mà kế hoạch Thiên Chúa cứu độ nhân loại được thực hiện từ lúc truyền tin cho đến thập giá. Như trên đã nói, công đồng Vaticanô II, trong Hiến chế về Hội thánh, đã giới thiệu Đức Maria như mẫu gương đức tin. Ở số 61, công đồng cũng thêm rằng sở dĩ người trở thành Mẹ của chúng ta là vì “người đã cộng tác một cách độc nhất vô nhị vào công trình của Chúa Cứu thế, nhờ lòng vâng phục và lòng tin, hy vọng và yêu mến nồng nàn, để phục hồi sự sống siêu nhiên cho nhân loại”. Tiếp theo đó, ở số 64, công đồng nói rằng Hội thánh thực thi sứ mạng làm mẹ trong tầm mức bắt chước Đức Maria nhờ biết tin-cậy-mến: Hội thánh, khi chiêm ngắm sự thánh thiện huyền nhiệm của Đức Maria, khi bắt chước lòng yêu mến của Người và thi hành ý muốn của Chúa Cha, thì cũng trở thành mẹ nhờ việc đón nhận Lời Chúa với lòng tin. Thực vậy, nhờ việc rao giảng và phép rửa, Hội thánh sinh vào đời sống mới và bất

Giáo huấn Kinh thánh về đức tin

161

diệt những người con được thụ thai nhờ quyền năng Thánh Linh và được sinh bởi Thiên Chúa. Hội thánh cũng là trinh nữ, bởi vì duy trì đức tin toàn vẹn tinh tuyền mà Hôn phu đã trao ban. Bắt chước Thân mẫu của Chúa và nhờ sức mạnh Thánh Linh, Hội thánh duy trì đức tin cách trinh trong, đức cậy cách bền vững, đức ái cách chân thành.

Khi nói rằng Đức Maria là mẫu gương về lòng tin-cậy-mến, các tín hữu không dừng lại ở việc chiêm ngắm một bức tranh và cố gắng bắt chước. Họ biết rằng Đức Maria còn là một người mẹ của mình nữa. Họ chia sẻ cùng một lòng tin - cậy - mến như Đức Maria, bởi vì nói cho cùng, cả ba nhân đức (hay thái độ) đều nhằm về một Thiên Chúa. Hơn thế nữa, họ xác tín rằng một mối tình yêu thương đã liên kết Đức Maria với từng người chúng ta. Vì thế, chúng ta không ngại bộc lộ những khó khăn của mình trong việc tin tưởng phó thác cho Chúa hoặc khi phải thực hành lòng yêu thương. Đức Maria không phải là một mẫu gương hoặc chứng nhân thuộc về quá khứ, nhưng Người còn đồng hành với chúng ta hôm nay. Hội thánh nhìn lên Đức Maria với lòng tin tưởng hy vọng bởi vì Mẹ sẽ giúp ta vượt qua những khó khăn để cùng hưởng vinh quang với Người (GLCG số 972).

Phần Thứ Hai

THẦN HỌC VỀ ĐỨC TIN TRONG LỊCH SỬ GIÁO HỘI

Trong phần thứ nhất, chúng ta đã khảo sát những đoạn văn bàn về đức tin trong Kinh thánh từ Cựu ước đến Tân ước. Lẽ ra nên tổng hợp giáo huấn Kinh thánh về đức tin và áp dụng cho thời đại hôm nay, nhưng chúng tôi đi theo một đường hướng khác, đó là tiếp tục theo dõi sự tiến triển thần học về đức tin trong lịch sử Giáo hội, rồi mới đến phần tổng hợp (phần thứ ba), trình bày thần học hệ thống về đức tin. Dĩ nhiên, chúng tôi chỉ có thể ghi lại vài nét chính của sự tiến triển thần học trải qua hai mươi thế kỷ, chứ không thể đi sâu vào chi tiết. Phần này được chia thành hai chương, tương ứng với hai khía cạnh của đức tin: khách thể và chủ thể. Chương Ba trình bày sự tiến triển của đạo lý đức tin, từ những kerygma của Tân ước cho đến những tín biểu và tín điều vào thời các giáo phụ và những thời đại tiếp theo. Chương Bốn điểm qua những suy tư về bản chất đức tin nơi các tác giả đã gây ảnh hưởng sâu đậm đến thần học Công giáo, vào thời các giáo phụ, thời Trung cổ, thời cận đại, và hai công đồng Vaticanô.

Chương Ba

SỰ TIẾN TRIỂN ĐẠO LÝ ĐỨC TIN Tự nó, “tin” là một hành vi cá nhân, biểu lộ lòng gắn bó với Thiên Chúa. Tuy nhiên, như đã thấy trong các bản văn của thánh Phaolô, “tin” có một đối tượng, một nội dung. Tin là chấp nhận lời Chúa, được biết nhờ lời giảng của các thánh tông đồ. Nội dung này mang nhiều tên gọi khác nhau: lời Chúa, Tin mừng, chân lý, đạo lý đức tin, hoặc đơn giản là “đức tin” (1Tm 1,19; 4,1; 6,10.21; 2Tm 4,7; Tt 1,13; Gđ 3). Như vậy, “đức tin” không những biểu lộ lòng xác tín nội tại của mỗi cá nhân nhưng còn ám chỉ chân lý mà các tín hữu đồng lòng tuyên xưng: “một Chúa, một đức tin, một phép rửa” (Ep 4,5). Vì thế thần học đã phân biệt hai khía cạnh của đức tin: đức tin “khách thể” (fides objectiva) và đức tin “chủ thể” (fides subjectiva). Thật khó xác định khía cạnh nào có trước. Ở đây, chiều kích khách thể được bàn trước bởi vì chỉ muốn đề cập ngắn gọn, nhằm dành nhiều thời gian hơn cho chiều kích chủ thể.

166

Thần Học Đức Tin

Trong chương này, chúng ta sẽ theo dõi sự phát triển đạo lý đức tin qua ba giai đoạn chính: 1/ Hội thánh nguyên thủy. 2/ Thời các giáo phụ: các tín biểu. 3/ Thời kỳ kế tiếp: các tín điều. Mục I HỘI THÁNH NGUYÊN THỦY Tiến trình thành hình các đạo lý đức tin đã bắt đầu từ Tân ước. Nhiều hoàn cảnh thúc bách các tông đồ phải diễn tả mạc khải Chúa Kitô thành công thức đạo lý. Có những hoàn cảnh xem xa đương nhiên (rao giảng, tuyên xưng), nhưng cũng có hoàn cảnh ngẫu nhiên như các lạc thuyết. Chúng ta hãy điểm qua những hoàn cảnh ấy cũng như những công thức tuyên xưng đức tin vào cuối thời các thánh tông đồ. I. Những hoàn cảnh A. Rao giảng Các tông đồ nhận được sứ mệnh phải rao giảng Tin mừng. Việc rao giảng đòi hỏi phải diễn tả một nội dung. Các học giả phân biệt ba hình thức chính trong các bài giảng của các thánh tông đồ: a) Kerygma: loan báo Tin mừng cho người ngoại, kêu gọi họ trở lại; b) Didascalia: giáo lý dành cho những người muốn học đạo; c) Paraclesis: khuyến dụ các tín hữu. 1/ Kêrygma gốc bởi động từ Hy lạp kêryssêin: công bố, loan báo (xc. 1Cr 1,23); từ đó có danh từ kêryx: người báo tin, người công bố. Kerygma là lời loan truyền sứ điệp về Đức Kitô, Đấng đã được Thiên Chúa sai đến để mang ơn cứu độ cho nhân loại. Lời công bố này kèm theo lời kêu gọi các thính giả hãy tin, hoán cải và lãnh phép rửa. Hình thức công bố cũng còn được mang tên là “loan báo Tin mừng” (evangelisatio: xc. Cv 5,42; 8,45; 11,20).

Sự tiến triển đạo lý đức tin

167

Sách Công vụ Tông đồ ghi lại 5 bài kerygma của thánh Phêrô: bốn bài tại Giêrusalem (2,1-36, vào lễ Ngũ tuần; 3,12-36 sau khi chữa người què; 4,8-12 và 5,29-32 trước Thượng Hội đồng) và một bài ở nhà ông Cornêliô (10,34-43). Tác phẩm cũng ghi lại ba bài kerygma của thánh Phaolô: tại Antiôkia (13,16-41) dành cho người Do thái; tại Lystra dành cho dân ngoại (14,11-17); tại Athène dành cho giới lãnh đạo Hy lạp (17,22-31). Người ta nhận thấy một sự khác biệt trong điểm nhấn: khi nói với người Dothái, các tông đồ muốn nhấn mạnh rằng những gì Thiên Chúa đã hứa với tổ tiên thì nay đã được thực hiện nơi Đức Giêsu; còn trọng tâm của bài giảng dành cho dân ngoại là kêu gọi dân chúng hãy thờ lạy một Thiên Chúa chân thật Đấng dựng nên trời đất, khác hẳn các thần tượng. 2/ Điđakhê (gốc bởi động từ Hy lạp điđaskhêin: dạy dỗ) là tên đặt cho giáo huấn nhằm đào sâu thêm sự hiểu biết về thân thế và sự nghiệp của Đức Kitô. Ngày nay chúng ta gọi hình thức này là “huấn giáo” (catechesis). Sự phân biệt giữa kêrygma và điđakhê có thể thấy ở sách Công vụ tông đồ 5,42: “Các Tông đồ hằng ngày giảng dạy và loan báo Tin mừng”. “Loan báo Tin mừng” là công tác kerygma (dành cho các người ngoại đạo), còn “giảng dạy” là công tác dành cho những người đã chấp nhận đức tin rồi (xem thêm: Cv 11,26; 15,35; 18,25; 20,20; xc. Cl 1,28).39 Tác giả cho chúng ta biết rằng các tân tòng thường họp nhau để nghe giáo lý (sự giảng dạy: điđakhê) của các thánh tông đồ về những

Thậm chí đối với các tín hữu, các thánh tông đồ cũng phân biệt những cấp độ huấn giáo, từ sơ khởi đến trình độ cao hơn: “Vì thế, gác một bên huấn giáo sơ đẳng về Đức Kitô, chúng ta hãy vươn tới trình độ giáo huấn trưởng thành mà không trở lại những điều căn bản, là lòng sám hối ăn năn và những việc đưa tới sự chết, là niềm tin vào Thiên Chúa, là giáo lý về mấy loại phép rửa, là nghi thức đặt tay, là vấn đề kẻ chết sống lại và cuộc phán xét cuối cùng” (Hr 6,1-2). 39

168

Thần Học Đức Tin

lời nói và việc làm của Đức Giêsu từ khi bắt đầu sứ vụ cho đến khi được rước về trời (x. Cv 1,21-22). Đó cũng là mục tiêu của ông Luca khi viết cuốn sách Tin mừng, tức la nhằm giúp cho công việc giáo huấn ông Thêophilô được vững chắc (Lc 1,1-4). Hiểu theo nghĩa này thì bốn cuốn sách Tin mừng có thể được xem như bốn bài huấn giáo về Đức Giêsu. 3/ Paraclêsis (khuyến dụ: Cv 2,40; 2Cr 5,20) là lời khuyên răn nhắn nhủ các tín hữu hãy sống phù hợp với đức tin đã lãnh nhận. Nó tương tự như bài giảng lễ (homilia) hiện nay, bởi vì thường diễn ra trong buổi cử hành phụng vụ. Nội dung của nó thường mang tính cách thực tiễn, áp dụng đức tin vào đời sống luân lý. Mặt khác, chúng ta cũng thấy các thư của thánh Phaolô thường gồm phần khuyến dụ sau phần trình bày đạo lý, chẳng hạn như chương 12-15 trong thư gửi Rôma, chương 5-6 trong thư gửi Galát. B. Tuyên xưng đức tin Việc tuyên xưng đức tin cũng là một hoàn cảnh thúc đẩy việc phát biểu nội dung đạo lý. Nhiều cơ hội bắt buộc người tín hữu phải tuyên xưng đức tin: trước khi gia nhập Hội thánh; trong các buổi cử hành phụng vụ; lúc gặp cơn bắt đạo. 1/ Trước khi lãnh bí tích Rửa tội. Phép rửa của Kitô giáo khác với phép rửa của ông Gioan Tẩy giả. Do đó, bởi vì người tín hữu được rửa tội “nhân danh Đức Giêsu” (hoặc “nhân danh Ba Ngôi”: Cv 2,38; 8,16; 10,48; 19,5; 1Cr 1,13-15; Mt 28,19) cho nên họ phải tuyên xưng niềm tin vào danh ấy (Cv 22,16). Một thí dụ: viên thái giám người Êthiop đã tuyên xưng đức tin trước khi lãnh phép rửa như sau: “Tôi tin Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa” (Cv 8,37). Các công thức tuyên xưng gắn với bí tích Rửa tội có thể thấy ở 1Pr 3,18-22; Ep 4,4-6.

Sự tiến triển đạo lý đức tin

169

2/ Trong những buổi họp phụng vụ. Cộng đoàn có những câu tuyên xưng ngắn dưới hình thức chúc tụng, tạ ơn, cầu khẩn, chẳng hạn: “Maranatha” (Lạy Chúa, xin hãy đến: 1Cr 16,22; Kh 22,20), “Chúa đã gần đến” (Pl 4,5). Ngoài ra các tác phẩm Tân ước còn ghi lại nhiều vinh tụng ca của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi: “Kính dâng Vua muôn thuở là Thiên Chúa bất diệt, vô hình và duy nhất, kính dâng Ngài danh dự và vinh quang đến muôn thuở muôn đời. Amen” (1Tm 1,17); “Vì muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người. Xin tôn vinh Thiên Chúa đến muôn đời. Amen” (Rm 11,36); “Chỉ mình Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan thượng trí. Kính dâng Ngài mọi vinh quang đến muôn thuở muôn đời, nhờ Đức Giêsu Kitô. Amen” (Rm 16,27); “Xin tôn vinh Thiên Chúa là Cha chúng ta đến muôn thuở muôn đời. Amen” (Pl 4,20). Những lời chúc tụng: “Cầu chúc toàn thể anh em được đầy tràn ân sủng Chúa Giesu Kito, đầy tình thương của Thiên Chúa, và ơn hiệp thông của Thánh Linh” (2Cr 13,13). Các thánh thi: Pl 2,6-11; 1Tm 3,6; 1Pr 2,21-24. 3/ Trong cơn bách hại. Chúa Giêsu đã báo trước cho các môn đệ rằng họ sẽ bị điệu ra toà để làm chứng cho Người. Điều đó đã sớm xảy ra cho các thủ lãnh tông đồ Phêrô và Phaolô như sách Công vụ đã kể lại. Đến lượt thánh Phaolô cũng dặn dò đệ tử Timôthê hãy sẵn sàng mạnh dạn ra toà tuyên xưng, theo gương của chính Thầy Giêsu trước toà Philatô (1Tm 6,13-14). Theo chứng tích của thánh Polycarpô, công thức “Đức Giêsu là Kyrios” (Kyrios Kristos) là sự khẳng định chống lại đế quốc Rôma ép buộc nhân dân phải nhìn nhận hoàng đế Roma như là bậc thần linh “Kyrios Kaisar”. C. Các lạc thuyết Hai hoàn cảnh trên đây - rao giảng và tuyên xưng- nằm trong tiến trình tự nhiên của việc truyền thông Tin mừng. Ngoài ra còn

170

Thần Học Đức Tin

thêm một hoàn cảnh nữa đã thúc đẩy các tông đồ phải quan tâm đến việc bảo vệ và duy trì đạo lý tinh tuyền, đó là các lạc thuyết. Trong bài giã từ các kỳ mục Êphêsô (Cv 20, 29-30), thánh Phaolô đã cảnh báo cho họ biết rằng sau khi Người qua đi, sẽ có nhiều lạc thuyết nổi lên, tựa như những chó sói lẻn vào đàn cừu. Họ sẽ phá hoại Hội thánh còn hơn là các cuộc bách hại nữa. Vì thế cần phải đề cao cảnh giác, duy trì chân lý. Không lạ gì mà các học giả nhận thấy sự chuyển hướng từ ngữ trong các thư của thánh Phaolô. Trong những lá thư đầu tiên, Người nhấn mạnh đến quyền năng sức mạnh của Lời Chúa (Rm 1,6; 10,16; 15,16; Gl 1,11); nhưng trong các thư viết vào lúc cuối đời, Người bận tâm đến “đạo lý” (doctrina), và khuyên răn Timôthê hãy “giữ gìn đạo lý” (1Tm 4,16; 6,1), “đạo lý tốt lành” (1Tm 4,6), “đạo lý lành mạnh” (1Tm 1,10; 2Tm 4,3; Tt 1,9; 2,1). Cũng trong các thư mục tử (1Tm 6,20; 2Tm 1,14),40 người ta thấy xuất hiện từ “gia sản” (depositum, parathékê: quen dịch là “kho tàng đức tin” xc. GLCG 84; 857; 891; 2035). Đây là một từ ngữ pháp lý, áp dụng cho một “đồ ký thác” nhờ giữ hộ, mà tới lúc nào đó phải hoàn lại. Timôthê được uỷ thác một “gia bảo” cần giữ gìn cẩn thận, rồi kế đó tìm người tín cẩn để trao lại. II. Những mẫu thức đức tin Do những hoàn cảnh vừa kể, những mẫu thức đức tin được thành hình, tạo ra nội dung đạo lý mạc khải Kitô giáo, khác với mạc khải của Cựu ước. Trước đây, dân Israel đã có nhiều lời tuyên xưng về Thiên Chúa duy nhất, quyền năng, trung tín nhân hậu, đã tạo dựng đất trời. Tân ước lặp lại những điều ấy, và đặc “Anh Timôthê, hãy bảo toàn gia sản được ký thác” (1Tm 6,20). “Giáo lý tốt đẹp đã giao phó cho anh, anh hãy bảo toàn, nhờ có Thánh Linh ngự trong chúng ta” (2Tm 1,14). 40

Sự tiến triển đạo lý đức tin

171

biệt khai triển công trình của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô. 1) Công thức ngắn gọn nhất liên quan đến bản thân của Đức Giêsu: “Đức Giêsu là Đấng Kitô, là Kyrios” (Rm 10,9; 1Cr 12,3; Pl 2,11), là “Đức Giêsu là Con Thiên Chúa” (Cv 8,16.37; 9,20; 1Tm 2,5; 1Ga 4,15; 5,5). 2) Lời tuyên xưng về thân thế của Đức Giêsu thường được gắn liền với công trình cứu độ nhờ cuộc Vượt qua, nghĩa là Thập giá và Phục sinh, như chúng ta thấy nơi thánh thi trong thư gửi Philípphê (2,8-11), hoặc “Tin mừng” của thánh Phaolô ở đầu thư Rôma (1,3-4) và chương 15 của thư thứ nhất gửi Côrintô (15,35). Mặt khác, chúng ta cũng gặp thấy những công thức riêng rẽ, như là: - “Đức Kitô đã chịu chết (hay bị trao nộp) vì tội lỗi chúng ta” (1Tx 5,10; Gl 1,4; 2,20; 2Cr 5,14; Rm 4,25; 5,6-8; 1Tm 2,6; Tt 2,14; 1Pr 2,21; 3,18). - “Đức Kitô đã chịu chết và đã sống lại” (1Tx 4,14; Rm 4,15; 8,34; 14,9; 1Pr 3,18). - “Thiên Chúa đã cho Đức Giêsu trỗi dậy từ cõi chết” (1Tx 1,10; 1Cr 6,14; 15,15; 2Cr 4,14; Gl 1,1; Rm 6,4; 10,9.12; Cl 2,12; Ep 1,20; 1Pr 1,21). - “Đức Giêsu lên ngự bên hữu Thiên Chúa” (Rm 10,9; Ep 1,20; Hr 1,3-13; 8,1; 10,12; 12,2; 1Pr 3,22). 3) Sau cùng, biến cố của Đức Kitô được lồng trong toàn thể lịch sử cứu độ: chính Thiên Chúa, Đấng đã thiết lập giao ước với các tổ phụ, cũng là thân phụ của Đức Giêsu. Ngài đã sai Con Một của Ngài đến với chúng ta, đã để Đức Giêsu chết trên thập giá, nhưng đã cho Người được trỗi dậy từ cõi chết, đã tôn vinh Người lên ngự bên hữu của mình.

172

Thần Học Đức Tin

Niềm tin vào biến cố cứu độ cũng hướng đến tương lai, vào lúc hoàn tất vương quốc Thiên Chúa, khi “Đức Kitô tỏ hiện trong vinh quang, phán xét kẻ sống và kẻ chết” (2Tm 4,1; 1Pr 4,5; Rm 14,9). Cuộc quang lâm của Đức Kitô cũng sẽ trùng với sự phục sinh của chúng ta (1Tx 4,14; 1Cr 6,14; 15,22-23; 2Cr 4,14; Rm 6,4; 8,11; Pl 3,10; Cl 2,12). Mục II THỜI CÁC GIÁO PHỤ: CÁC TÍN BIỂU Những hoàn cảnh thúc đẩy các thánh tông đồ phải diễn tả mạc khải thành đạo lý vẫn còn diễn ra trải qua các thời đại kế tiếp. Đặc biệt vào thời các giáo phụ, người ta thấy sự xuất hiện các “tín biểu” (biểu thức đức tin: symbolum fidei). I. Khái niệm Theo nguyên ngữ Hy lạp, symbolon có nghĩa là biểu trưng, chứng minh thư. Nguồn gốc của nó là các khế ước xã hội. Khi hai người thiết lập một khế ước (hợp đồng) thì họ lấy một đồ vật (thí dụ một ảnh tượng, đồng tiền), bẻ ra làm đôi làm bằng chứng. Khi nào cần yêu sách việc chấp hành nghĩa vụ, thì đôi bên mang bằng chứng lại, và quyền lợi sẽ được xác nhận nếu hai mảnh được ghép lại ăn khớp với nhau. Việc “ghép lại” (symballein) là dấu hiệu làm cơ sở của quyền lợi. Từ lãnh vực luật dân sự, danh từ symbolon được dùng theo nghĩa rộng như là một biểu hiệu, huy hiệu để nhìn nhận căn cước của một cá nhân hay một đoàn thể. Từ thế kỷ III, từ symbolon được sử dụng để gọi “biểu hiệu của đức tin Kitô giáo”. Có lẽ thánh Cyprianô là tác giả đầu tiên đã gọi bản tuyên xưng đức tin là “symbolum trinitatis” (Epistola 69, 7), và Tertullianô giải thích như sau: đó là biểu hiệu nhờ đó

Sự tiến triển đạo lý đức tin

173

các tín hữu nhìn nhận ra nhau, biểu hiệu của sự hợp nhất, một hợp đồng đức tin.41 Nên biết là bên cạnh thuật ngữ “biểu thức đức tin”, các giáo phụ còn gọi bản tóm lược những chân lý đức tin bằng những từ ngữ khác, chẳng hạn như: + “Fides” (hê pistis): đức tin. thánh Cyrillô Giêrusalem (Catechesis 5,12; 15,2); thánh Lêô Cả (Hom. 24,6; Epist. 165,3); T. Basiliô (Epist. 51,2); + “Regula fidei”: quy luật đức tin. Tertulianô (De virginibus velandis c.1); + “Regula veritatis”: quy luật chân lý. thánh Irênêô (Adv. haereses I,9,4); + “Confessio fidei”: tuyên xưng đức tin. thánh Cyrillô Giêrusalem (Catechesis 17,3); thánh Augustinô (Enchridion 64; 96). II. Phân loại Các sử gia đã phân tích ba loại tín biểu dựa trên ba bối cảnh ra đời: rửa tội; chúc tụng; đạo lý.42 Trước khi gia nhập Hội thánh, người dự tòng được phải học tập tín biểu để tuyên xưng lúc lãnh bí tích rửa tội. Một số tín biểu khác được sử dụng trong khung cảnh phụng vụ, mang hình thức chúc tụng tôn vinh. Sau

41

De pudicitia 9,16; De anima 35,2. cf. S. Augustinus: "Symbolum nuncupatur a similitudine quadam, translato vocabulo, quia symbolum inter se faciunt mercatores quo eorum societas pacto fidei teneatur" Sermo 212, In traditione symboli (PL 38,1053 ss). 42

Xc. J.N.D. Kelly, Early Christian Creeds, 3rd ed., Continuum Publishing Group London, 2006.

174

Thần Học Đức Tin

cùng, trước sự đe dọa của một lạc thuyết, nhà chức trách trong Hội thánh cảm thấy bổn phận phải xác định đức tin chính truyền. A. Tín biểu rửa tội Vào giai đoạn đầu của thời giáo phụ, chúng ta đã thấy xuất hiện các tín biểu rửa tội, điển hình là công thức sử dụng tại Rôma được ghi nơi tác phẩm Traditio apostolica (chương 21), với hình thức vấn đáp trước khi cử hành bí tích rửa tội. Vị chủ sự đặt ra ba câu hỏi, và dự tòng trả lời: “Tôi tin” (Credo). - Anh có tin kính Thiên Chúa là Cha toàn năng không? - Anh có tin kính Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, sinh bởi trinh nữ Maria do Thánh thần, chịu đóng đinh vào thập giá dưới thời ông Ponxiô Pilatô, chịu chết và an táng, vào ngày thứ ba đã sống lại từ cõi chết, lên trời và ngự bên hữu Chúa Cha, sẽ trở lại phán xử các người sống và người chết không? - Anh có tin kính Thánh thần, Hội thánh, thân xác phục sinh không?

Các sử gia đặt tên cho công thức này là tín biểu H (chữ đầu của Hippolytus Romanus), ra đời khoảng năm 215. Cũng vào thời kỳ này, tại Alêxanđria và Cêsarêa (bên Đông phương), tín biểu dùng trong bí tích Rửa tội như sau.43 Anh hãy tuyên xưng đức tin như thế này: Tôi tin kính Thiên Chúa, Cha toàn năng, (tôi tin) Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô Chúa chúng tôi, (tôi tin) Thánh thần, và sự sống lại của thân xác trong Hội thánh Công giáo.

Tín biểu rửa tội không những được sử dụng để tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa Ba ngôi lúc rửa tội, nhưng còn là bản

Công thức được ghi trên một papyrô đào thấy ở Der Balyzeh (Ai cập) năm 1907. 43

Sự tiến triển đạo lý đức tin

175

văn dùng cho việc huấn giáo các dự tòng, cùng với kinh Lạy Cha. Khóa học được bắt đầu với nghi thức “trao tín biểu” (traditio symboli) và kết thúc với nghi thức “trả tín biểu” (redditio symboli), nghĩa là đọc bản kinh trước khi lãnh bí tích. Qua những tác phẩm huấn giáo của các giáo phụ,44 người ta biết rằng vào thời ấy nhiều tín biểu rửa tội khác nhau được lưu hành tùy địa phương. Tín biểu nổi tiếng ở Rôma mang danh là “Tín biểu các thánh tông đồ” (Symbolum apostolorum), tục truyền do 12 thánh tông đồ đã soạn. Thực ra lưu truyền này do thánh Ambrôsiô (hoặc Rufinus Aquileia) tạo ra,45 theo đó 12 thánh tông đồ trước khi chia tay nhau đi giảng đạo, đã họp nhau lại và mỗi người xướng lên một vế. Tôi tin kính Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng tạo dựng trời và đất. Và Đức Giêsu Kitô, (là) con một của Ngài, (là) Chúa chúng ta, thụ thai bởi Thánh thần, sinh bởi Đức Maria đồng trinh, thụ nạn dưới thời ông Ponxiô Pilatô, chịu đóng đinh vào thập giá, chịu chết và mai táng, xuống âm ty, ngày thứ ba chỗi dậy từ cõi chết, lên trời, ngự bên hữu Thiên Chúa Cha toàn năng, từ đó sẽ trở lại phán xử kẻ sống và kẻ chết. Tôi tin kính Thánh thần, Hội thánh Công giáo, sự hiệp thông các thánh, sự tha thứ tội lỗi, sự phục sinh của thể xác, sự sống vĩnh tồn. Amen.

Vài tác phẩm tiêu biểu: Cyrillô Giêrusalem, Catechesis; Têôđôrô Mopsuesta, Homiliae catecheticae (k.392); Gioan kim khẩu, Sermo ad neophytos; Ambrosiô, Explanatio symboli ad initiandos; Augustinô: De fide et symbolo; Sermo ad catechumenos de Symbolo; Sermones 212-216. 44

Commentarius in Symbolum apostolorum n.2: PL 21,337 (khoảng năm 400); x. T. Ambrosius, Explanatio symboli ad initiandos n.2: PL 17, 11551159 (khoảng năm.380-390). 45

176

Thần Học Đức Tin

B. Chúc tụng Cũng tương tự như vào thời Hội thánh nguyên thủy, đức tin cũng được tuyên xưng trong các buổi cử hành phụng vụ, dưới hình thức thánh thi, chúc tụng, vinh tụng ca. Trong số những công thức cổ điển nhất, phải kể đến vinh tụng ca trong Tin mừng thánh Tôma (ngụy thư): Vinh danh Cha, Con và Thánh Linh, bây giờ và mãi mãi muôn đời. Sách Traditio apostolica (chương 6) chứa đựng một công thức tương tự: Trong mọi lời chúc tụng, hãy nói như sau: “Vinh danh Ngài, Cha và Con và Thánh Linh, ở trong Hội thánh bây giờ và mãi mãi thiên thu vạn đại.” Sang các thế kỷ sau, những vinh tụng ca nổi tiếng là kinh Gloria in excelsis Deo (Vinh danh Thiên Chúa) và kinh Te Deum. + Kinh Gloria (cũng còn được gọi là “maior doxologia”, để phân biệt với “minor doxologia”: Gloria Patri et Filio et Spiritui Sancto), với nguồn gốc đã thấy nơi sách Constitutiones Apostolicae (quyển VII, 47), khoảng năm 380. Hình thức hiện nay (như đọc thấy trong sách Lễ Rôma) đã thành cố định từ cuối thế kỷ VII. Sau lời mở đầu bằng lời ca của thiên sứ đêm Giáng sinh (Lc 2,14), bản kinh được chia làm hai phần chính: - Phần thứ nhất là những lời tán tụng Thiên Chúa Cha. - Phần thứ hai dành cho Đức Kitô, được tuyên xưng dưới các danh hiệu: Đức Chúa (Dominus = Kyrios), Con Một Thiên Chúa (Filius unigenitus), Chiên Thiên Chúa (Agnus Dei), Con của Cha (Filius Patris). Tiếp theo ba lời cầu khẩn (xin thương xót, xin nhậm lời), là ba lời chúc tụng hướng lên Đức Giêsu Kitô là: Đấng Thánh (Sanctus), Đức Chúa (Dominus), Tối cao (Altissimus).

Sự tiến triển đạo lý đức tin

177

Bài ca kết thúc với lời vinh tụng Ba ngôi. Chúng ta nhận thấy Thánh Linh chỉ được phớt qua, không bù cho những lời tán tụng Đức Kitô. Phải chăng bài ca này ra đời trong bối cảnh chống lại lạc giáo Ariô? + Kinh Te Deum được đặt tên bằng những lời mở đầu (“Te Deum laudamus, te Dominum confitemur”).46 Tục truyền rằng sau khi ông Augustinô lĩnh phép rửa tội thì ông đã cùng với giám mục Ambrôsiô nổi hứng sáng tác bài ca tán tụng Chúa: người này xướng thì người kia họa. Tuy nhiên theo các sử gia, đó chỉ là một huyền thoại ra đời vào thế kỷ XI, chứ những tường thuật đương thời về biến cố trở lại của Augustinô không hề đả động tới chuyện sáng tác thánh thi.47 Bài ca gồm có hai phần chính (cũng tựa như kinh Gloria). - Phần thứ nhất là một lời tán tụng lên Thiên Chúa Cha (theo thể văn giống kinh Tiền tụng trong thánh lễ) và kết thúc với lời chúc tụng Ba ngôi Thiên Chúa: “Chúa là Cha lẫm liệt uy hùng; và Con Một Ngài chí tôn chí ái; cùng Thánh thần, Đấng an ủi yêu thương”. - Phần thứ hai gồm những lời chúc tụng và khẩn nài dâng lên Đức Kitô, Đấng Cứu chuộc nhân loại nhờ mầu nhiệm nhập thể, thập giá, phục sinh:

“Lạy Thiên Chúa, chúng con xin ca ngợi hát mừng, tuyên xưng Ngài là Đức Chúa”. Xem bản dịch trong Các Giờ kinh Phụng vụ, phần chung Giờ Kinh Sách. 46

Đây là một vấn đề còn đang tranh luận: có người cho rằng tác giả là thánh Cyprianô (thế kỷ III), số đông hơn thì gán cho Nixêta, giám mục Rêmêsi (đầu thế kỷ V). Cũng có người nghĩ rằng bài thánh thi này thành hình qua nhiều đợt khác nhau: có lẽ lúc đầu chỉ có lời chúc tụng ở phần thứ nhất, rồi mãi sau này mới thêm phần thứ hai. 47

178

Thần Học Đức Tin Lạy Đức Kitô, Con Chúa Trời hằng sống, / Ngài là Chúa hiển vinh / đã chẳng nề mặc lấy xác phàm / nơi cung lòng Trinh nữ / hầu giải phóng nhân loại lầm than. Ngài đã ra tay chiến thắng tử thần, / mở cửa trời cho những ai tin tưởng. Ngài hiển trị bên hữu Chúa Cha, / ngày cuối cùng sẽ giáng lâm thẩm phán. Cúi lạy Chúa, xin phù hộ bề tôi / Ngài cứu chuộc bằng bửu huyết tuôn tràn. Xin được hợp đoàn cùng muôn thần thánh,/ phúc miên trường vui hưởng ánh vinh quang.48

III. Các tín biểu đạo lý Nơi tác phẩm của vài giáo phụ cổ truyền, người ta thấy vết tích của vài tín biểu đạo lý, chẳng hạn như thánh Inhaxiô tử đạo;49 thánh Irênêô.50 Đặc biệt là từ thế kỷ IV, các tín biểu đạo lý mang dạng thức “công đồng” (synodalia), bởi vì do các nghị phụ ban hành khi họp công đồng. Các biểu thức này bắt đầu với chủ từ ở số nhiều: “Chúng tôi tin” (credimus), khác với tín biểu rửa tội ở số ít: “Tôi tin” (credo). Tín biểu nổi tiếng hơn cả là của công đồng Nixêa-Constantinopolis, vẫn còn được lưu hành đến nay trong các Giáo hội Công giáo, Chính thống và Tin lành. Theo truyền thống, công đồng Constantinopolis đã lặp lại tín

Phần còn lại của bài thánh thi xem ra không do cùng một tác giả sáng tác, mà chỉ là những câu xướng-đáp rút từ các thánh vịnh. “Lạy Chúa, xin cứu độ dân Ngài, trên gia nghiệp này, giáng muôn phúc cả” (Tv 27, 9). “Ngày lại ngày, chúng con chúc tụng Chúa, và ca ngợi Thánh Danh muôn thuở muôn đời” (Tv 144,2). “Dủ lòng thương, lạy Chúa, xin dủ lòng thương” (Tv 122,3). “Xin đổ tình thương xuống chúng con, lạy Chúa,/ như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài” (Tv 32,22). “Con trông cậy nơi Ngài, lạy Chúa,/ xin đừng để con phải tủi nhục bao giờ” (Tv 30,2). 48

Xc. Thư gửi Tralli IX, 1-2. Bài đọc giờ Kinh Sách ngày thứ Tư tuần XXVII Thường Niên. 49

50

Adversus Haereses I,10.1. Bài đọc giờ Kinh Sách ngày 25/4.

Sự tiến triển đạo lý đức tin

179

biểu của công đồng Nixêa, và thêm vào lời tuyên xưng liên quan đến Chúa Thánh thần. Tuy nhiên, ngày nay các nhà sử học đã phân biệt hai tín biểu khác nhau 1/ Công đồng Nixêa (325) đã soạn công thức tuyên xưng đức tin: “Đức Kitô đồng bản tính với Chúa Cha” (homo-ousios: consubstantialis) xen vào tín biểu vốn lưu hành tại Cêsarêa Palestina, được giám mục Eusêbiô trình bày. Tín biểu này được đặt ký hiệu là “tín biểu N” (hay cũng được đặt tên là “tín biểu của 318 giáo phụ”). 2/ Công đồng Constantinopolis I (381). Tín biểu của công đồng này (ký hiệu: tín biểu C) không dựa trên tín biểu Nixêa nhưng lấy từ tín biểu của giáo đoàn Giêrusalem (hay của Epiphaniô Salamina), tập trung vào việc định tín thiên tính của Thánh Linh. Mãi đến 70 năm sau (năm 451), công đồng Calxêđônia lặp lại tín biểu của công đồng Constantinopolis và đặt tên cho nó là “tín biểu 150 giáo phụ”, tiếp nối công đồng Nixêa.51 Từ đó tín biểu C chiếm vai trò quan trọng trong lịch sử Hội thánh, được sử dụng làm mẫu mực cho các cuộc tuyên xưng đức tin. Tuy dù các tín biểu có thể khác nhau trong lối diễn tả, nhưng nói chung cấu trúc gồm ba phần chính,52 tương đương với công trình của Ba Ngôi Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ: - Phần thứ nhất tuyên xưng Thiên Chúa Cha, Đấng tác thành vạn vật.

X. Phan Tấn Thành, Mầu nhiệm Thiên Chúa, Học viện Đa Minh 2012, trang 273. 51

52

X. GLCG số 190.

180

Thần Học Đức Tin

- Phần thứ hai tuyên xưng Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể để cứu chuộc nhân loại. Đây là phần dài hơn cả, bởi vì chân lý này đã bị bóp méo bởi nhiều lạc thuyết. Cũng nên biết là đạo lý về Đức Kitô bao gồm cuộc Nhập thể, Tử nạn, Phục sinh, Lên trời, và còn thêm sự Quang lâm để hoàn tất công trình cứu chuộc. - Phần thứ ba dành cho Thánh Linh, Đấng ban sự sống và thánh hóa nhân loại trong Hội thánh. Thánh Linh kiện toàn công trình cứu rỗi khi dẫn đưa nhân loại đến sự sống vĩnh cửu. Từ giữa thế kỷ V, ba hình thức tín biểu thường bị trà trộn, không còn giới hạn vào bối cảnh xuất phát nữa. Tín biểu công đồng Nixêa-Constantinopolis được dùng trong nghi thức rửa tội bên Đông (từ năm 451) và bên Tây (từ năm 550) và trong Thánh lễ tại Antiôkia (năm 480), các giáo đoàn Đông phương (từ năm 511), Tây-ban-nha (năm 589), Pháp (thế kỷ VIII) và Rôma (năm 1014). Dưới một khía cạnh khác, lợi điểm của việc hòa nhập ba mẫu tín biểu ở chỗ là nêu bật sự liên hệ giữa đức tin - cầu nguyện và bí tích: lex orandi - lex credendi - lex vivendi: đức tin được tuyên xưng lúc nhập đạo cũng là đức tin được tuyên xưng trong các buổi cử hành phụng vụ, đồng thời cũng là khuôn mẫu cho mọi hành động của Hội thánh. Nên biết là công cuộc sáng tác các tín biểu không kết thúc với thời các giáo phụ. Sau công đồng Constantinopolis I (381), nhiều tín biểu vẫn tiếp tục ra đời,53 nổi tiếng hơn cả là tín biểu Quicumque (trước đây gán cho thánh Athanasiô). Sang thời Trung cổ, nhiều công đồng soạn thảo bản tuyên xưng đức tin,

X. Sách GLCG số 192. Maria Đinh Thị Sáng, “Đức tin và các tín biểu: sự tiến triển và vai trò của các tín biểu trong các thế kỷ đầu”, Thời sự thần học số 58 (tháng 11 năm 2012), tr. 75-100. 53

Sự tiến triển đạo lý đức tin

181

chẳng hạn như: Tolêđô XI (675), Latêranô IV (1215), Lyon II (1274). Gần chúng ta hơn nữa là “kinh Tin kính Dân Thiên Chúa” của đức Phaolô VI (30/6/1968)54 và Kinh Tạ ơn IV của Sách Lễ Rôma.55 Mục III TIN VÀ TÍN ĐIỀU Một hoàn cảnh đặc biệt của việc xác định đạo lý đức tin là khi Hội thánh tuyên bố tín điều. Tín điều là gì? Tại sao phải tuyên bố tín điều? Sau khi trình bày vài khái niệm về tín điều, chúng ta sẽ theo dõi sự tiến triển về các tín điều trong lịch sử Giáo hội, cũng như những thành tố góp phần vào sự tiến triển này. I. Khái niệm Trước hết, chúng ta tìm hiểu ý nghĩa của từ dogma trong văn chương Hy lạp La tinh. Kế đó, chúng ta hãy xem định nghĩa thần học của dogma. A. Từ ngữ Trong tiếng Việt, “tín điều” có nghĩa là “điều phải tin”, dùng để dịch danh từ dogma (gốc Hy lạp). Danh từ này mang nhiều ý nghĩa trong lịch sử. 1. Trong văn chương cổ điển Hy lạp, dogma có hai nghĩa chính: a) nghĩa pháp luật, dogma có nghĩa là nghị quyết, sắc lệnh; b) theo nghĩa triết học, dogma là học thuyết, ý kiến, quan điểm.

“Năm đức tin của đức thánh cha Phaolô VI”, Thời sự thần học số 58 (tháng 11 năm 2012), tr. 101-126. 54

55

X. Đời sống tâm linh, tập X, trang 226-235.

182

Thần Học Đức Tin

2. Tân ước sử dụng từ dogma theo nghĩa pháp luật, chẳng hạn như sắc lệnh tổng kiểm tra dân số của hoàng đế Rôma (Lc 2,1) hoặc quyết nghị của các tông đồ họp tại Giêrusalem (Cv 16,4) đều được gọi là dogma. 3. Vào thời các giáo phụ và suốt thời Trung cổ, dogma được dùng theo nghĩa triết học, và được áp dụng cho các đạo lý mạc khải, các triết thuyết cũng như các lạc thuyết. Thí dụ trong sách Tổng luận thần học, thánh Tôma Aquinô nói đến dogma fidei của Hội thánh (hay cũng gọi là “articulus fidei”) và các giáo thuyết độc địa (pestifera, mortifera dogmata) của lạc giáo (Summa Theologica II-II, q.11, 2,3c). 4. Trong văn chương cận đại, dogma thường quen hiểu theo một nghĩa tiêu cực: dogma ám chỉ đầu óc giáo điều, cố chấp. B. Định nghĩa thần học Phải chờ đến thế kỷ XVIII, và nhất là kể từ sau công đồng Vaticanô I, danh từ dogma mới được sử dụng theo một nghĩa chuyên môn (dịch là “tín điều”), nghĩa là: “một đạo lý được Huấn quyền tuyên bố như là chân lý mạc khải (veritas revelata) được chứa trong gia sản đức tin (depositum fidei)”.56 Có hai yếu tố cấu thành một tín điều: (1) một chân lý do Chúa mạc khải; (2) do Huấn quyền tuyên bố. Yếu tố thứ nhất được gọi Constitutio Dei Filius, c.III: “Porro fide divina et catholica ea omnia credendasunt, quae in verbo Dei scripto vel tradito continentur et ab Ecclesia sive solemni iudicio sive ordinario et universali magisterio tamquam divinitus revelata credenda proponuntur” (Dz.Sch 3011). Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo số 88: “Huấn quyền Hội thánh thực thi trọn vẹn quyền bính nhận từ Đức Kitô khi ấn định các tín điều, tức là khi công bố, dưới hình thức buộc dân Kitô giáo phải tin, những chân lý được chứa đựng trong mạc khải của Thiên Chúa, hoặc cả khi công bố một cách dứt khoát những chân lý có liên hệ tất yếu với các chân lý đó”. 56

Sự tiến triển đạo lý đức tin

183

là “chất thể” (materia), đó là: chân lý do Chúa mạc khải, và vì thế buộc phải tin. Yếu tố thứ hai được gọi là “mô thể” (forma), nghĩa là do Huấn quyền tuyên bố. Ta hãy lấy một thí dụ: tín điều Đức Mẹ hồn xác lên trời. Các Kitô hữu đã tin điều này từ lâu đời, và từ thế kỷ VI đã mừng lễ phụng vụ (15/8). Tuy nhiên đạo lý này chỉ trở thành tín điều với việc công bố tín điều (definitio dogmatica) ngày 1/11/1950. Hành vi này vừa làm sáng tỏ vấn đề (bởi vì tuyên bố rằng đây là một chân lý mạc khải), vừa là một biện pháp kỷ luật (bởi vì bắt buộc các tín hữu phải tin; ai không tin thì tự đặt mình ra khỏi sự thông hiệp với Giáo hội: excommunicatio). Dĩ nhiên trước khi công bố tín điều, đức Piô XII phải nghiên cứu kỹ lưỡng xem chân lý này có nằm trong “gia sản đức tin” (depositum fidei) hay không, qua việc khảo sát Thánh kinh, Truyền thống (phụng vụ, các giáo phụ, tiến sĩ Hội thánh), và tham khảo hàng giám mục khắp thế giới. Việc công bố tín điều được coi như một hành vi Huấn quyền cao cấp nhất (Magisterium infallibile, ex cathedra). Tuy nhiên, chúng ta đừng nên quên rằng trước khi là một hành vi quyền bính, thì đây là một hành vi tuyên xưng và yêu mến: đức thánh cha là người đầu tiên phải tin vào tín điều, trước khi buộc người khác phải tin. Việc công bố tín điều là một lời tri ân bởi vì Thiên Chúa đã bày tỏ tình thương đối với Hội thánh, mạc khải con đường dẫn đến hạnh phúc. Đồng thời, công thức công bố tín điều cũng định nghĩa nội dung của đạo lý: cái gì buộc phải tin (Đức Maria, sau cuộc đời trần thế được đưa về hưởng hạnh phúc thiên quốc), và điều gì không buộc phải tin (Đức Maria có chết hay không).

184

Thần Học Đức Tin

II. Sự tiến triển đạo lý Các tín hữu buộc phải tin bao nhiêu tín điều? Có lẽ không ai trả lời nổi câu hỏi này. Sự kiện chắc chắn là vào cuối thế kỷ XX, con số những tín điều tăng thêm gấp đôi so với mười thế kỷ trước đó! Chúng ta hãy lược qua những lãnh vực tiến triển, và sau đó tìm hiểu những nhân tố góp phần vào sự tiến triển. A. Lịch sử Cha Cipriano Vagaggini đã ghi nhận ba khúc ngoặt quan trọng trong lịch sử các tín điều:57 1/ Từ thế kỷ IV đến VIII (thời các giáo phụ). Giáo hội đã xác định những tín điều quan trọng của Kitô giáo: - về Chúa Ba Ngôi (nơi các tín biểu), về Đức Kitô (công đồng Nixêa năm 325; Ephêsô năm 431; Calcêđônia năm 451; Constantinopolis III năm 680-681); về Thánh Linh (công đồng Constantinopolis I năm 381); - về con người (tội nguyên tổ, ân sủng, tiền định tại các công đồng địa phương họp ở Cartago năm 418 và Orange năm 529); - về Đức Maria (Thiên Chúa Thánh mẫu tại công đồng Ephêsô năm 431, và trọn đời đồng trinh tại công đồng Costantinopolis II năm 553); - về Giáo hội và các bí tích là phương thế cứu độ không tùy thuộc vào sự thánh thiện cá nhân của các tác viên (các bí tích rửa tội và truyền chức vẫn thành hiệu, dù được cử hành bởi những người theo lạc giáo: đức giáo hoàng Stephanô I năm 256, đức giáo hoàng Grêgôriô Cả năm 601).

57

Cf. C. Vagaggini, Dogma, in: Enciclopedia cattolica, vol. IV, coll.17921804

Sự tiến triển đạo lý đức tin

185

- việc tôn kính ảnh tượng (công đồng Nixêa II năm 787). 2/ Thời Trung cổ đã xác định các tín điều về bí tích Thánh Thể (công đồng Rôma năm 1059 và 1079 chống lại Bérenger de Tours); sự nhiệm xuất của Thánh Linh bởi Chúa Cha và Chúa Con (công đồng Lyon II năm 1274 và Firenze năm1439); về cánh chung (đức thánh cha Bênêđictô XII định tín về phúc kiến năm 1336); quyền tối thượng của giáo hoàng (Innocentê III). 3/ Từ thế kỷ XVI Công đồng Trentô xác định các tín điều về quy điển Kinh thánh, ơn công-chính-hóa, các bí tích, việc tôn kính các thánh, các ân xá. Công đồng Vaticanô I (1870) định tín về tương quan giữa đức tin và lý trí, thẩm quyền của đức thánh cha. Bên cạnh đó là việc tuyên bố hai tín điều Đức Maria vô nhiễm nguyên tội (1854) và hồn xác lên trời (1950). B. Những nhân tố góp phần vào sự phát triển Khi công bố một tín điều, Huấn quyền xác nhận rằng đạo lý này do Chúa mạc khải, nghĩa là được chứa trong gia sản đức tin. Nói cách khác, chân lý này đã được mạc khải từ thời các thánh tông đồ, (chứ không phải là vừa mới mạc khải). Một câu hỏi đương nhiên được đặt ra: tại sao một chân lý đã được mạc khải từ thời các tông đồ mà bây giờ mới được công bố? Những lý do gì đưa đến việc định nghĩa tín điều? Chúng ta có thể kể ra hai nhân tố chính: ngoại tại (lạc giáo) và nội tại (đào sâu đức tin). 1/ Nhân tố ngoại tại: các lạc giáo Ôn lại lịch sử Giáo hội, người ta thấy hầu hết các tín điều được xác định để đương đầu với một lạc giáo: từ các công đồng thời giáo phụ (chống lại Arius, Macedonius, Apollinaris, Nestorius, Eutikes), cho đến các công đồng thời Trung cổ và cận

186

Thần Học Đức Tin

đại (phái Albigeois, Cải cách Tin lành, Duy lý). Hai tín điều cuối cùng về Đức Maria là một trừ lệ. Chính lúc niềm tin bị chao đảo như vậy, Giáo hội mới quay về với “gia sản” để tìm hiểu Lời Chúa. Cũng cần thêm rằng không phải lúc nào các “lạc giáo” cũng nảy lên do tên quỷ ác ôn gieo cỏ lùng vào ruộng lúa! Nhiều khi đầu mối các “lạc giáo” (nên dịch haeresis là “dị giáo” thì có lẽ đúng hơn: tiếng Hy lạp hairesis có nghĩa là chọn lựa) là một cố gắng thích nghi đức tin vào một nền văn hoá mới (chẳng hạn vào hồi các giáo phụ, từ văn hoá semít sang văn hoá Hy lạp) nhưng chưa thành công! Lúc khác thì có lẽ nhấn mạnh một khía cạnh nào đó của đạo lý mà trở thành khập khiễng, chẳng hạn như khi đề cao thiên tính của Đức Kitô mà coi nhẹ nhân tính, hoặc ngược lại; hay khi đề cao đức tin mà bỏ qua lý trí, hoặc ngược lại. Kinh nghiệm lịch sử là một bài học cho chúng ta: cần phải đặt các tín điều trong toàn thể gia sản đức tin, chứ đừng nhấn mạnh một chiều. Các mầu nhiệm đức tin có liên hệ với nhau và làm sáng tỏ cho nhau (nexus mysteriorum: xem GLCG các số 114; 158; 234). Đồng thời cũng cần biết phân biệt một “hệ trật chân lý” (hierarchia veritatum: GLCG số 90). 2/ Các nhân tố nội tại: đào sâu đức tin Các lạc giáo là một hoàn cảnh để Giáo hội phải xác định một tín điều, nhưng chưa phải là tất cả. Còn nhiều yếu tố khác tích cực và quan trọng hơn nhiều. Mạc khải không chỉ là đạo lý trừu tượng, nhưng chính là Chúa Kitô tỏ mình ra cho Hội thánh: Người tiếp tục đồng hành với các môn đệ, giải nghĩa Sách thánh cho họ. Nhờ cuộc đối thoại này, Giáo hội càng ngày càng hiểu thấu hơn gia sản mạc khải. Trong hiến chế Dei verbum số 8, công đồng Vaticanô II đã tóm lại vào bốn yếu tố chính như sau (xem thêm sách Giáo Lý Hội thánh Công Giáo số 94): việc nghiền

Sự tiến triển đạo lý đức tin

187

ngẫm Lời Chúa; việc học hỏi; cảm nghiệm tâm linh của Dân Chúa; huấn quyền. a) Việc nghiền ngẫm suy niệm Lời Chúa được đặt ở hàng đầu, và lấy Đức Maria làm gương mẫu (qua việc trích dẫn đoạn văn Lc 2,19.51: Đức Maria ghi nhớ và suy đi nghĩ lại trong trái tim). Nhờ việc chiêm ngắm này, Hội thánh đi sâu hơn vào sự hiểu biết và gắn bó với chính Chúa Kitô. b) Việc nghiên cứu thần học, tìm cách diễn đạt chân lý mạc khải bằng ngôn ngữ thời đại. Đây cũng là ý tưởng của đức Gioan XXIII khi triệu tập công đồng Vaticanô II. Trong bài diễn văn khai mạc, ngài đã phân biệt giữa một bên là nội dung bất biến của mạc khải, và bên kia là những công thức phát biểu cần thích ứng với hoàn cảnh lịch sử và địa lý. Ý tưởng này được công đồng Vaticanô II lấy lại trong Hiến chế Gaudium et spes số 62. Đồng thời công đồng cũng nhấn mạnh đến ý tưởng “hệ trật các chân lý” (hierarchia veritatum).58 Thuật ngữ này có thể được giải thích theo ba nghĩa: (i) có những chân lý trọng tâm (chẳng hạn như Thiên Chúa Ba ngôi), và có những chân lý thứ yếu (chẳng hạn như Đức Maria hồn xác lên trời); (ii) cần phân biệt giữa nội dung đức tin (điều bất biến) và những công thức phát biểu (điều có thể thay đổi); (iii) cần phân biệt hệ trật về tầm quan trọng trong các giáo huấn của Giáo hội: có những chân lý buộc phải tin (tín điều: de

Sắc lệnh về Hiệp nhất Unitatis redintegratio số 11. Xc. Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo, số 90 và quy chiếu thêm vào các số 114; 158; 234. 58

188

Thần Học Đức Tin

fide divina et catholica), có những chân lý chưa buộc tin (doctrina catholica).59 c) Cảm nghiệm tâm linh của Dân Chúa. Công đồng Vaticanô II nhìn nhận rằng Thánh Linh ban cho các tín hữu một “cảm thức đức tin” (sensus fidei) nhờ đó họ nắm bắt được chân lý cũng như phân biệt điều chính điều tà. Đây không phải là một thứ cảm xúc vu vơ, nhưng là một cảm nghiệm nhờ tiếp xúc với Lời Chúa và các bí tích. Ta có thể lấy các tín điều về Đức Maria làm thí dụ: tuy rằng hai tín điều về Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội và Đức Mẹ hồn xác lên trời mới được công bố vào cuối thế kỷ XIX và XX, nhưng các tín hữu đã nắm bắt điều này từ lâu, đặc biệt là qua các lễ phụng vụ. d) Huấn quyền. Đây là yếu tố cuối cùng xét theo thời gian chứ không phải theo mức độ quan trọng. Huấn quyền can thiệp để phân định có phải chân lý này là do Chúa mạc khải hay không, và tìm công thức nào thích hợp để diễn đạt. e) Dù nói gì đi nữa, ta không thể nào bỏ qua vai trò của Thánh Linh, được Chúa Giêsu hứa ban cho các môn đệ, để dẫn đưa họ đến chân lý trọn vẹn (Ga 16,13). Nên lưu ý đến cụm từ “chân lý trọn vẹn”. Theo quan điểm của thánh Gioan, “chân lý” không chỉ là một ý niệm trong đầu óc con người, nhưng chân lý là chính Đức Kitô (Ga 1,14; 14,6). Thánh Linh đến giúp chúng ta hiểu biết chân lý hơn, theo nghĩa là chúng ta hiểu biết Đức Kitô hơn, yêu mến Người hơn; hoặc theo nghĩa là chúng ta sẽ để cho Chân Lý (là Đức Kitô) chiếm ngự ta hoàn toàn, để ta sống hợp theo chân lý và thực hành chân lý (Ga 3,21).

59

Pontificio Consiglio per la promozione dell'unità dei cristiani, Direttorio per l'applicazione dei principi e delle norme sull'ecumenismo (25/3/1993), n.74.

Chương Bốn

NHỮNG SUY TƯ VỀ BẢN TÍNH ĐỨC TIN Trong chương vừa rồi, chúng ta đã theo dõi sự tiến triển đức tin dưới khía cạnh khách thể (fides obiectiva, fides quae creditur), từ những công thức ngắn ngủi tuyên xưng đức tin trong Tân ước đến các tín biểu vào thời các giáo phụ và những tín điều được xác định trải qua các thế kỷ. Đây là đối tượng khảo cứu của thần học tín lý. Trong chương này, chúng ta muốn tìm hiểu những suy tư về bản tính đức tin nhìn dưới khía cạnh chủ thể (fides subiectiva, fides qua creditur), nghĩa là xét như một hành vi và thái độ về phía con người: tin là gì? tin là hành vi của lý trí hay của ý chí? làm thế nào tin nổi? Ta có thể coi đây như là “tâm lý đức tin”, với nhiều câu hỏi được nêu lên ngay từ thời các giáo phụ và còn kéo dài cho đến ngày nay. Trong chương này, trước hết chúng tôi lướt qua những lối tiếp cận thần học đức tin trải qua bốn giai đoạn lịch sử Giáo hội: thời các giáo phụ; thời trung cổ; thời cận đại; công đồng Vaticanô I và II (mục I-

190

Thần Học Đức Tin

IV). Mục thứ năm sẽ đúc kết bảy mô hình được sử dụng để trình bày thần học đức tin xưa nay. Mục I THỜI GIÁO PHỤ Khi tìm hiểu khái niệm về đức tin trong Tân ước, chúng ta đã thấy các thánh tông đồ đề cập đến nhiều khía cạnh, chẳng hạn như về tương quan giữa tin và biết, tin và hy vọng, tin và yêu, tin và phó thác, tin và hành động... Những đề tài này đã được gợi lên từ truyền thống Do thái Cựu ước. Khi giảng đạo cho vùng văn hóa Hy lạp, các giáo phụ gặp thấy một não trạng khác. Các triết gia Hy lạp thích truy tầm chân lý, qua những cuộc tranh biện. Phải xử trí như thế nào đây? Dựa theo lời tuyên bố khẳng khái của thánh Phaolô trong thư gửi Côrintô, vài giáo phụ chủ trương rằng đức tin không cần đếm xỉa đến triết học: Thập giá đã chẳng bị họ coi là điên rồ đấy ư (x. 1Cr 1,23)? Chúng ta có thể lấy câu nói của ông Tertullianô như tiêu biểu cho lập trường này: “Đâu có gì chung giữa Athènes và Giêrusalem? Đâu có gì chung giữa viện Hàn lâm với Hội thánh?”60 Tuy nói thế nhưng ông Tertullianô đã sử dụng những lý luận của pháp luật để bênh vực Kitô giáo, cũng như ông đã sử dụng những từ ngữ triết học để diễn tả mầu nhiệm Ba Ngôi. Như vậy, mặc nhiên ông đã chấp nhận cần phải đối thoại với văn hóa Hy lạp và Rôma, một điều mà nhiều giáo phụ khác đã thực hiện.61 Chúng ta hãy điểm qua vài tác giả, được coi như dọn đường cho thánh Augustinô, một khuôn mặt nổi bật nhất trong các suy tư về đức tin. 60

De praescriptione haereticorum, VII, 9 = SC 46, 98.

Về điểm này, xem thêm thông điệp Fides et ratio của đức thánh cha Gioan Phaolô II, số 36-42. 61

Những suy tư về bản tính đức tin

191

I. Đức tin và văn hóa Khi giới thiệu Kitô giáo với văn hóa Hy lạp, vài giáo phụ không ngần ngại khẳng định rằng đức tin là cửa dẫn vào “triết học chân chính” (minh triết sophia, gnosis), còn triết học chỉ chuẩn bị cho đức tin. Theo thánh Giustinô, triết học chứa đựng những mầm của “lý” (logos) còn Đức Kitô là chính Lời (Logos, hoặc Lý, Đạo). Clêmentê Alexandria đặt tên cho đạo lý về Thiên Chúa là philosophia (Stromata I,18, 90). Chúng ta tạm gọi đó là “đức tin khách thể”; vấn đề trở nên gai góc hơn khi bước sang “đức tin chủ thể”. Các triết gia Hy lạp đề cao cái “biết”; cái biết này có gì khác với các biết của đức tin không? Các giáo phụ dứt khoát trả lời rằng: có sự khác biệt giữa hai cái “biết” ấy. Cái biết của đức tin vượt trên khả năng lý trí. Để chấp nhận chân lý đức tin, lý trí cần được “chiếu sáng” (Giustinô, Apologia I, 61, 12). Ngoài ra, tuy đức tin là đỉnh cao của tri thức, nhưng tri thức đức tin còn hướng dẫn cuộc sống và các hành vi, đòi hỏi cuộc dấn thân luân lý nữa. Cần thiết phải có những đức tính luân lý (chẳng hạn như tâm tình vâng phục, kiên nhẫn) thì mới có thể đạt đến sự hiểu biết mầu nhiệm. Nói khác đi, khi nói đến bản chất đức tin, các giáo phụ còn thêm vai trò của ý chí: tin là đón nhận Lời Chúa; đây là một hành vi tự do, và kèm theo ý muốn thực hành. Để có thể tuân theo Lời Chúa, con người phải dẹp tắt những tật xấu dục vọng (Clementê Alexandria, Stromata, I,3,5). II. Thánh Augustinô Trong các giáo phụ, khi bàn về đức tin, thánh Augustinô (350430) giữ một vị trí độc đáo bởi vì đã để lại nhiều suy tư súc tích về nội dung đạo lý cũng như những khía cạnh tâm lý của nhân đức. Cần ghi nhận rằng những suy tư này không chỉ là thành quả

192

Thần Học Đức Tin

của việc nghiên cứu Lời Chúa mà còn dựa trên chính kinh nghiệm bản thân nữa, kinh nghiệm của một người đã được Chúa kêu gọi cải hoán (xc. Sách Tuyên xưng, Confessiones) cũng như kinh nghiệm của một mục tử đương đầu với những luồng tư tưởng đe dọa đời sống đạo. Chúng tôi muốn nêu bật ba điểm sau: 1/ hồng ân đức tin; 2/ tin và hiểu; 3/ tương quan giữa lý trí và đức tin. 1/ Hồng ân đức tin Thánh Augustinô nhấn mạnh rằng đức tin là một hồng ân của Thiên Chúa, được ban cho con người tội lỗi. Đây là một quan điểm chống lại chủ trương của nhóm Pêlagiô: họ cho rằng mạc khải của Thiên Chúa đã là hồng ân rồi. Nhờ mạc khải, con người cố gắng tuân giữ kỷ luật thì đủ sức để thực hành các nhân đức. Theo thánh Augustinô, nói như vậy là coi nhẹ công trình cứu chuộc của Đức Kitô rồi. Con người cần được ơn thánh chữa lành và soi sáng thì mới có khả năng thực hành các nhân đức, kể cả đức tin. Con người được nên công chính nhờ đức tin, chứ không phải nhờ sự tuân giữ lề luật. Nhờ có đức tin, con người mới có thể lập công trạng; việc gì làm mà không do đức tin đều là tội lỗi, như thánh Phaolô đã nói (Rm 14,23). Đạo lý về đức tin như hồng ân sẽ được công đồng Orange II (năm 529) tiếp nhận và định tín. 2/ Tin để hiểu, hiểu để tin (intellige ut credas, crede ut intelligas)62 Các chân lý đức tin do Thiên Chúa mạc khải và được thông truyền nhờ lời giảng dạy của Hội thánh. Con người đón nhận các

62

Sermo 43, 7, 9; Epist, 120, 1, 3.

Những suy tư về bản tính đức tin

193

chân lý ấy vì tín thác vào một thế giá có thẩm quyền chứ không vì sự hiển minh nội tại. Dĩ nhiên, tin thì khác với mê tín, cuồng tín. Vì thế con người cần phải kiểm chứng các lời khẳng định để xem có phải là do Chúa phán dạy hay không. Việc chấp nhận một chân lý dựa trên uy tín của một người chuyên môn là điều xảy ra thường tình trong cuộc sống: nó không đi ngược lại bản tính tự do của con người, trái lại nó mở rộng kiến thức cho trí tuệ. Thánh Augustinô giải thích đoạn văn Isaia 7,9 theo bản dịch Hy lạp: “nếu các ngươi không tin thì các người sẽ không hiểu”63 theo nghĩa là: sự bền vững trong đức tin đòi hỏi một sự hiểu biết; đức tin vượt quá lý trí nhưng không đối nghịch với lý trí. Vì thế tin là một hành động tự do, hợp lý. Thực vậy, trước khi tin, con người phải đắn đo cân nhắc về những lý do khiến mình chấp nhận đức tin, suy xét về uy tín của người nói xem họ có đáng tin hay không (credere est cum assensione cogitare). Về điểm này, thánh nhân nhìn nhận sự can thiệp của ơn Chúa, cũng như tâm tình chân thành về phía con người. Như vậy, tin không chỉ là hành vi của lý trí mà còn là hành vi của ý muốn và tình yêu nữa. 3/ Đức tin và lý trí Đức tin không loại trừ lý trí: Thiên Chúa không thể nào hủy diệt tài năng mà Ngài đã ban cho con người, làm cho con người vượt xa loài cầm thú. Giữa lý trí và đức tin có sự hòa hợp. Có một tác dụng hỗ tương giữa hai phía. Lý trí giữ vai trò chuẩn bị trí tuệ; đức tin mang đến gia tài chân lý. Cần phải chấp nhận đức tin để có thể nắm bắt được nó, mặc dù đức tin vẫn luôn cần được làm sáng tỏ: “fides quaerit, intellectus invenit”. Đức tin thúc đẩy Nisi credideritis, non intelligetis. Nguyên bản Hípri là: “nếu các ngươi không vững tin thì các ngươi sẽ không đứng vững”). 63

194

Thần Học Đức Tin

sự suy tư.64 Thánh Augustinô đã dùng lý trí để phục vụ đức tin, dùng khả năng suy tư của mình để giải thích các mầu nhiệm của đạo (chẳng hạn mầu nhiệm Ba ngôi Thiên Chúa), cũng như kế hoạch của Thiên Chúa trong lịch sử (thí dụ trong tác phẩm Thành đô Thiên Chúa). Dù sao, trên đường hiểu biết chân lý đức tin, thánh nhân đặt nặng tác động nội tại của Thánh Linh. Ngoài ra, ngài cũng nhìn nhận vai trò quan trọng của Hội thánh: “giả như không có thế giá của Hội thánh Công giáo thì tôi sẽ chẳng tin vào Tin mừng được”.65 Đức tin mang tính năng động: con người tiến gần đến Chúa, gắn bó với Chúa, và sẵn sàng hy sinh những chuyện thế sự vì đức tin. Vì thế khi nói đến đức tin mang lại ơn cứu độ, thì đó không chỉ là chấp nhận chân lý mà thôi, nhưng còn là hoán cải và yêu mến. Tóm lại, thánh Augustinô đã để lại cho hậu thế nhiều suy tư về hành vi đức tin, và cách riêng là sự phân biệt giữa hai khía cạnh: fides quae (khía cạnh khách thể; nội dung đức tin); fides qua (khía cạnh chủ thể; việc chấp nhận đạo lý).66 Một thuật ngữ cổ điển nữa là phân biệt ba chiều kích đức tin: credere Deo, credere Deum, credere in Deum.67 “Credere Deo” nói đến động lực của đức tin, vì Chúa đã nói; “credere Deum” nói đến đối 64

De Trinitate, l. XV, c. 2, n. 2.

“Ego vero evangelio non crederem, nisi me catholicae ecclesiae commoveret auctoritas” Contra. epistolam quam vocant fundamenti, 5,6. 65

66

De Trinitate, l. XIII,2.

“Credere illi (Deo) est credere vera esse quae loquitur; credere illum (Deum) quia ipse est Deus; credere in illum (Deum), diligere illum”. De Symbolo I, 181: PL 40: 1190-1191. 67

Những suy tư về bản tính đức tin

195

tượng đức tin, tin rằng Thiên Chúa hiện hữu; “credere in Deum” thêm vào khía cạnh yêu mến, khi con người ký thác tất cả cuộc đời cho Thiên Chúa. Mục II THỜI TRUNG CỔ Vào thời Trung cổ, châu Âu sống trong một bầu khí văn minh Kitô giáo. Hầu hết những suy tư về đức tin nhằm đến việc giúp các tín hữu đào sâu thêm sự hiểu biết đạo của mình, chứ không phải để thuyết phục những người ở ngoài Giáo hội. Không lạ gì mà trọng tâm nghiên cứu của thần học là câu hỏi liên quan đến mối tương quan giữa đức tin và lý trí. Đối với vấn đề suy tư đang bàn, chúng ta có thể chia làm ba chặng như sau: 1/ giai đoạn thần học đan viện: lý trí đào sâu đức tin để nuôi dưỡng kinh nguyện; 2/ giai đoạn thần học kinh viện: lý trí có vai trò tự trị trong việc khám phá chân lý, nhưng luôn hòa hợp với đức tin; 3/ giai đoạn suy tàn: lý trí và đức tin hoàn toàn tách biệt nhau. I. Lý trí hỗ trợ cho đức tin: thánh Anselmô Trung thành với thánh Augustinô, thánh Anselmô (10331109) chủ trương rằng không bao giờ được sử dụng lý trí riêng rẽ mà không có sự trợ giúp của mạc khải. Người tín hữu nào yêu mến chân lý mà Thiên Chúa đã mạc khải thì không thể nào không vận dụng lý trí để hiểu biết; nếu ai không tìm hiểu thì hoặc chứng tỏ là họ không yêu mến, hoặc là họ lười biếng. Thánh nhân đã để lại công thức fides quaerens intellectum. Dù sao việc truy tầm hiểu biết diễn ra trong khung cảnh đời sống phụng vụ, cầu nguyện của đan viện dòng Biển đức: việc hiểu biết nhằm tăng trưởng đời sống đức tin. Tuy nhiên, sang thế kỷ XII, một cuộc khủng hoảng đã xảy ra do những thách đố mới của hoàn cảnh xã hội. Môi trường thần

196

Thần Học Đức Tin

học không còn là các đan viện nữa, nhưng là những trường đại học dựng lên tại các thành phố, nơi mà người ta thích tự do tranh luận đề truy tầm chân lý, chứ không im lặng chấp nhận những gì quyền bính áp đặt. Bầu khí này còn được thúc đẩy do việc du nhập các tác phẩm của Aristote vào châu Âu. Triết gia này không chỉ là vị thầy dạy văn phạm, lý luận, mà còn là tác giả của những khảo luận về vũ trụ, đạo đức. Vì thế câu hỏi được đặt ra cả về phương pháp luận cũng như về nội dung nghiên cứu. Về phương pháp luận, khi có sự tương phản giữa sự hiển minh của lý trí và đạo lý đức tin, thì tôi phải theo bên nào? Về nội dung nghiên cứu, lý trí có thể khám phá những điều gì mà không cần đến mạc khải? Xét về phương pháp luận, đã có những người nghiêng về sự hiển minh của lý trí hơn là đạo lý đức tin, nhưng trường hợp của ông Abélard (1079-1142). Ông đã được nhắc nhở rằng lý trí chỉ là “nữ tì” (ancilla) của thần học chứ không có thẩm quyền phán xử chân lý đức tin. Xét về nội dung, phải chờ đến thế kỷ XIII, với thánh Albertô Cả và thánh Tôma Aquinô, thì mới thấy câu trả lời chính xác. II. Ân sủng không phá hủy tự nhiên: thánh Tôma Aquinô Thánh Tôma Aquinô (k.1225-1274) phát biểu sự hòa hợp giữa lý trí và đức tin dựa trên nguyên tắc “ân sủng không phá hủy nhưng nâng cao tự nhiên”.68 Đức tin giả thiết và kiện toàn lý trí. Nhờ được đức tin soi sáng, lý trí được giải thoát khỏi những giới hạn mỏng dòn để vươn lên đến các mầu nhiệm cao siêu của Thiên Chúa.

“Gratia non destruit naturam, sed elevat et perfecit” (Summa Theologica, I, q.1, a.8, ad 2m). 68

Những suy tư về bản tính đức tin

197

Ngoài việc trả lời thách đố thời đại về tương quan giữa lý trí và đức tin (triết học và thần học), thánh Tôma đã thảo ra một khảo luận về đức tin (đặc biệt là Summa Theologica, II-II, qq.1-16),69 vẫn còn được Giáo hội sử dụng trong các văn kiện gần đây.70 Người đã áp dụng nhiều phạm trù của triết học để phân tích đức tin, chẳng hạn như: tin xét như là hành vi (actus) hoặc xét như là nhân đức (tập quán: virtus); đối tượng (obiectum) của đức tin; tương quan giữa lý trí và ý muốn của con người trong hành trình đức tin. Theo thánh Tôma, đức tin là một khả năng được Chúa ban cho trí tuệ, nhờ đó lý trí chấp nhận các thực tại thần linh mà mình chưa thấy. Đức tin cho ta được thông dự vào sự hiểu biết của Thiên Chúa, khởi đầu cho sự hưởng kiến hạnh phúc mai sau (x. II-II, q.4, a.1). Đức tin được nhìn dưới phạm trù “tập quán” (habitus), nghĩa là một sự chuẩn bị kiên vững nội tại, nhờ đó ta nắm chắc những thực tại vô hình; đây là một hậu quả của ơn thánh, nhờ đó thực tại thần linh được thông ban cho linh hồn và làm cho nó được thông dự vào sự sống vĩnh cửu. Như vậy, để tin vào các mầu nhiệm thần linh, trí tuệ cần được tăng cường khả năng nhờ ánh sáng siêu nhiên. Tuy nhiên, một khi đã chấp nhận đạo lý đức tin, thì trí tuệ tìm cách thấu nhập dựa theo khả năng của mình, và diễn tả niềm tin bằng những ý niệm, ngôn ngữ của loài người. Đây là một yêu sách của bản tính con người; tuy nhiên, cần phải ý thức rằng các công thức vẫn

Các tác phẩm khác: Super libros Sententiarum, III, dd. 23-25; De Veritate, q. 14, aa. 1-12; Summa contra gentiles, I, c. 6, III, ecc. 152, 154; In Boethii de Trinitate, q. 3, a. 1; Quodlibetalia, II, a. 6 et VI, a. 2; Chú giải Tin mừng Gioan, chương 4, 6, 7, 11; chú giải thư Hípri, chương 11. 69

Thông điệp Fides et ratio bàn về thánh Tôma ở các số 45-46; 57-61; 74; 78. 70

198

Thần Học Đức Tin

còn bất toàn trong việc diễn tả nội dung đức tin. Vì thế đức tin không dừng lại ở những công thức nhưng cần cố gắng đạt đến thực tại mà công thức muốn diễn đạt. Nói khác đi, đức tin nhằm đến chính Thiên Chúa, chứ không dừng lại ở các công thức (actus credentis non terminatur ad enuntiabile, sed ad rem: IIII, q.1, art. 2, ad 2). Khi phân tích bản chất đức tin, thánh Tôma nhấn mạnh đến khía cạnh chân lý. Thiên Chúa được nhìn như Chân lý đệ nhất và tuyệt đối. Chân lý đức tin được biểu lộ nơi Thánh kinh, nơi giáo lý và đời sống Hội thánh. Nơi con người, khả năng nắm bắt chân lý là trí tuệ. Trí tuệ chấp nhận một chân lý sau khi đã xét các chứng cớ nội tại và ngoại tại. Tuy nhiên, đối với các mầu nhiệm đức tin, lý trí không thấy sự hiển minh nội tại; vì thế ý chí can thiệp để thúc đẩy lý trí chấp nhận dựa trên uy tín của Thiên Chúa. Vì vậy, tin là một hành vi của lý trí và ý chí: tin là một hành vi tự do của con người, bởi vì con người tình nguyện chấp nhận đạo lý đức tin do lòng mến Chúa, chứ không tất nhiên bị thu hút bởi sự hiển minh nội tại. Nhưng đó là việc phân tích nhìn từ phía con người. Cần phải thêm rằng tin là một ân ban của Chúa: ngài soi sáng lý trí, nâng đỡ ý chí, gợi lên lòng ước muốn gắn bó với Thiên Chúa. Đức tin là kết quả của ơn thánh Chúa đồng thời cũng là hành vi của con người. Tác động của ơn thánh được diễn tả như là “soi sáng”, “thúc đẩy”, “thu hút”. Lấy lại công thức của thánh Augustinô, thánh Tôma diễn tả ba chiều kích của đức tin như sau: credere Deo, tin “vào Chúa” bởi vì Chúa là Đấng chân thật; credere Deum, tin “Chúa” như là Chân lý hiện hữu; credere in Deum, tin hướng về Chúa, nói lên lòng khao khát được ngắm nhìn Chúa, nơi mà con người sẽ thỏa niềm ước mong khi được thấy và kết hiệp với sự thật. Đức tin mang chiều kích cánh chung, hướng đến sự kết hiệp.

Những suy tư về bản tính đức tin

199

III. Lý trí tách rời khỏi đức tin: thuyết duy danh Chủ trương của thánh Tôma về sự hài hòa giữa lý trí và đức tin, giữa tự nhiên và ơn thánh đã bị phá vỡ bởi Duns Scotus và William Ockham, và trào lưu mang tên là “duy ý chí” (voluntarismus) hoặc “duy danh” (nominalismus) vào đầu thế kỷ XIV. Theo Duns Scotus (+1308), lý trí có khả năng chấp nhận đức tin nhờ những dấu chứng của phép lạ, chứ không cần đến ơn thánh. Ơn thánh trở nên cần thiết là do một quyết định của Thiên Chúa mà thôi, nhằm để cho ý chí được gắn bó quyết liệt hơn với đạo lý mạc khải. Ockham (+1347) còn đi xa hơn nữa: ông cho rằng Thiên Chúa có thể ban ơn cứu độ cho những người tuân giữ các luật lệ mà không có đức tin. Đức tin trở nên cần thiết là tại vì Thiên Chúa đã quyết định như vậy. Có lẽ hai ông muốn đề cao quyền năng siêu việt của Thiên Chúa; tiếc rằng họ đẩy mạnh một cách thái quá sự xa cách giữa Thiên Chúa và con người đến nỗi giữa đôi bên không còn chiếc cầu nào nữa. Thiên Chúa có thể làm bất cứ điều gì ngài muốn, và con người không thể lường trước những ý định của ngài. Khoảng cách sâu thẳm giữa con người với Thiên Chúa đã gây ra tâm trạng kinh hoàng nơi ông Martin Lutêrô (1483-1546). Ông nhận thấy bản tính con người đã bị hủy hoại bởi tội lỗi, vì vậy chỉ còn biết hoàn toàn tín thác vào công trạng của Đức Kitô mà thôi. Duy có điều là ông áp dụng tình trạng sa đọa không những cho ý chí mà cho cả lý trí nữa. Có lẽ vì ông cũng muốn phản đối phương pháp tranh luận đang thịnh hành ở kinh viện thời bấy giờ, cho nên ông đả kích việc sử dụng triết học vào thần học để bàn về Thiên Chúa. Đối với ông, đức tin của chúng ta chỉ dựa thuần túy trên Lời Chúa (Kinh thánh) mà thôi, vì thế ông loại bỏ các mệnh đề đức tin. Nói khác đi, khi nói đến đức tin, ông chú trọng đến khía cạnh tín thác (fiducia) vào Thiên Chúa, và ông coi nhẹ việc chấp nhận các đạo lý đức tin do Hội thánh

200

Thần Học Đức Tin

giảng dạy. Mối băn khoăn chính của ông không phải là việc nắm bắt chân lý, nhưng là ơn công chính hóa. Dựa theo các đoạn văn của thánh Phaolô, ông chủ trương rằng con người được nên công chính chỉ nhờ lòng tin mà thôi (sola fide), chứ không do các việc làm. Ông làm nổi dậy cuộc tranh luận giữa ông Phaolô và ông Giacôbê về sự liên hệ giữa đức tin và hành động, tuy rằng thực sự giáo huấn của hai thánh tông đồ không có gì mâu thuẫn với nhau. Trên thực tế, vấn nạn của ông Lutêrô về đức tin không chỉ giới hạn vào tiến trình công chính hóa của con người, nhưng còn mang theo nhiều hệ luận liên quan đến toàn thể cấu trúc đức tin của Hội thánh: sổ quy thư Thánh kinh, các bí tích, vai trò của hàng giáo phẩm. Công đồng Trentô đã được triệu tập để trả lời những thách đố của ông: tầm quan trọng của đức tin trong tiến trình công chính hóa.71 Dù muốn dù không, từ sau công đồng Trentô, người ta nhận thấy hai khuynh hướng khác biệt trong việc trình bày đức tin, về phía Tin lành và về phía Công giáo. Phản ứng lại quan điểm về niềm tin như là tin tưởng phó thác, công đồng Trentô nhấn mạnh đến việc lý trí chấp nhận đạo lý mạc khải. Việc chấp nhận này chứng tỏ con người muốn quy hướng về Thiên Chúa, và được triển nở nhờ đức cậy và đức mến, là những thành tố của việc được trở nên công chính. Như vậy, bên Tin lành nhấn mạnh khía cạnh tin tưởng và phó thác vào Chúa; bên Công giáo nhấn mạnh đến sự chấp nhận đạo lý mạc khải, và như vậy nêu bật khía cạnh tri thức cũng như vai trò của huấn quyền Giáo hội. Thật ra đó là hai khía cạnh của đức tin bổ túc lẫn nhau chứ không trái nghịch nhau. Tiếc rằng bầu khí tranh

71

Xc. Decretum de iustificatione, 13/1/1547.

Những suy tư về bản tính đức tin

201

luận sôi nổi của thời ấy không cho thấy điều đó. Bên Tin lành có lý khi nhấn mạnh đến chiều kích tương quan tín thác; nhưng nếu chỉ dừng lại ở chỗ này thì sẽ đưa đến thái độ chủ quan, như thực sự đã xảy ra. Phía Công giáo có lý khi nêu bật chiều kích khách thể của đạo lý mạc khải, cũng như hoạt động của lý trí và ý chí; nhưng nếu chỉ dừng lại ở đây thì có nguy cơ thu hẹp đức tin vào một mớ kiến thức, như thực sự đã xảy ra. Phải chờ những cuộc đối thoại đại kết mới đạt được cái nhìn đa diện như sẽ thấy ở công đồng Vaticanô II. Mục III THỜI CẬN ĐẠI Vào thời cận đại, nhiều thách đố và vấn nạn được đặt lên cho thần học về đức tin, từ phía bên trong và bên ngoài Giáo hội. 1. Bên trong Giáo hội, những cuộc tranh luận giữa Tin lành và Công giáo vẫn tiếp tục. Có điều là phía Tin lành không chỉ giới hạn vào ông Lutêrô mà còn với những nhân vật khác (chẳng hạn Melanchthon, Calvin), và không bao lâu sau, chính họ cũng chia rẽ thành nhiều giáo phái. Mỗi giáo phái xác định lại kinh Tin kính (Confessio hoặc sách Giáo lý Catechismus của mình), cách thức giải thích Kinh thánh. Ngoài ra, giữa các giáo phái cũng nảy lên cuộc tranh luận về địa vị của lý trí: có người coi nhẹ lý trí và chỉ muốn nói đến thái độ tín thác hoặc tâm tình đạo đức (pietismus), nhưng cũng có người muốn xác định những điều phải tin. 2. Về phía Công giáo, ngay cả giữa các trường phái kinh viện (dòng Đa Minh, dòng Tên, dòng Cát Minh), cũng nảy ra nhiều cuộc tranh luận liên quan đến tiến trình tâm lý diễn đến đức tin (analysis fidei). Con người tiến đến đức tin bằng những con đường nào: lời giảng, phép lạ, các chứng cớ lý trí, các gương

202

Thần Học Đức Tin

nhân đức? Những dấu hiệu này đã đủ để nảy sinh đức tin hay chưa? Từ lúc nào, con người cần tới sự can thiệp của ơn thánh? 3. Với sự phát triển của công cuộc truyền giáo sang châu Mỹ, châu Phi, châu Á, người ta nhận thấy rằng hàng triệu người chết mà chưa được rửa tội. Phần rỗi của họ sẽ như thế nào? Phải hiểu thế nào về lời Chúa Giêsu: “ai tin và lãnh phép rửa thì được cứu rỗi” (Mc 16,16)? Phải chăng những ai không được rửa tội đều bị trầm luân? Các nhà thần học đã đưa ra sự phân biệt giữa đức tin “minh nhiên” và đức tin “ám tàng” (fides explicita / implicita), xét rằng thư gửi Hípri (11,6) chỉ đòi hỏi phải tin vào Thiên Chúa là Đấng thưởng phạt là đủ! Và rồi, ngoài phép rửa bằng nước (in re) còn có phép rửa bằng lửa (lòng ước ao: in voto) nữa. 4. Tuy nhiên, những thách đố lớn nhất cho đức tin vào thời cận đại là những phong trào duy lý, duy tín, dần dần mở đường cho các phong trào vô thần. - Có người tố cáo rằng khuynh hướng vô thần cận đại bắt nguồn từ Lutêrô. Theo ông, con người đến với Thiên Chúa với lòng tín thác, chứ không phải với lý trí. Dựa trên tiền đề này, triết gia Emmanuel Kant, qua sự phân biệt giữa “lý trí thuần túy” và “lý trí thực tiễn”, cho rằng con người chấp nhận Thiên Chúa bằng lý trí thực tiễn chứ không phải bằng lý trí thuần túy. Tuy nhiên, khởi đi từ tiền đề ấy, vài triết gia đi đến kết luận rằng Thiên Chúa ở ngoài tầm của lý trí; nói khác đi, lý trí không thể biết gì về Thiên Chúa. Một hệ luận là lý trí không thể chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa. Từ chủ trương lý trí không thể chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa đến chỗ phủ nhận sự hiện hữu Thiên Chúa, chỉ cần một bước ngắn. Trên thực tế, nhiều nhà khoa học thực nghiệm đã không chấp nhận đức tin với lý do là lý trí chỉ có thể biết cái gì hữu hình, có thể quan sát được. Sự khẳng định các thực tại siêu nghiệm ra ngoài phạm vi khoa học.

Những suy tư về bản tính đức tin

203

- Thực ra, vào thời cận đại, sự chối bỏ Thiên Chúa không chỉ dựa trên những luận cứ tri-thức-luận vừa nói, nhưng còn dựa trên một tiền đề khác, được đặt tên là “thuyết nhân bản vô thần” (humanisme athée), theo đó, nếu con người muốn tự do đích thực thì cần loại bỏ Thiên Chúa. Bao lâu con người còn tin có Thiên Chúa thì vẫn còn bị ràng buộc bởi những luật lệ do Ngài đã đặt ra. Vì thế, để được tự do thực sự, con người cần thoát ly khỏi Thiên Chúa, dám nghĩ và dám làm, sáng tạo những đường hướng hoạt động cho chính mình. 5. Công đồng Vaticanô I (1869-1870) đã dành hiến chế Dei Filius để bàn về đức tin Công giáo, gồm bốn chương: 1/ Thiên Chúa tạo thành. 2/ mạc khải. 3/ đức tin. 4/ tương quan giữa đức tin và lý trí. Bối cảnh văn hóa của châu Âu vào cuối thế kỷ XIX khác với thời Trung cổ. Trước đây, có thể nói được là đức tin bao trùm toàn thể đời sống xã hội, ảnh hưởng tới pháp luật, giáo dục, văn hóa. Lý trí được coi như một phương thế để đào sâu thêm sự hiểu biết về đức tin. Thế nhưng tình hình đã thay đổi nhiều vào thời cận đại. Lý trí được tách rời khỏi đức tin. Lý trí được coi như biểu tượng của việc tự do truy tầm chân lý, tiêu chuẩn của khoa học. Xét vì không lúc nào đức tin cũng có thể hòa hợp với lý trí, cho nên đức tin bị xem như phản khoa học, và dễ bị đồng hóa với mê tín. Đó là chủ trương của phái duy lý (rationalismus). Ở một thái cực đối lập, phái duy tín (fideismus) cho rằng đức tin vượt xa lý trí; do đó không có sự hòa hợp gì giữa đức tin và lý trí. Khi trình bày lập trường của Giáo hội về đức tin, công đồng Vaticanô I vừa muốn bảo vệ tính cách siêu việt của mạc khải và đức tin, vừa biện minh cho tính cách hợp lý của đức tin: đức tin vượt lên lý trí nhưng không phi lý! Để có thể xác định tương quan đúng đắn giữa đức tin và lý trí, công đồng thấy cần phải

204

Thần Học Đức Tin

đánh giá đúng mức khả năng của lý trí trong việc truy tầm chân lý. Chúng ta sẽ điểm qua vài giáo huấn căn bản của công đồng được phát biểu trong chương III của hiến chế: a) bản chất đức tin; b) những động lực khả tín; c) đối tượng của đức tin; d) sự cần thiết của đức tin. a) Bản chất của đức tin Công đồng Vaticanô I định nghĩa đức tin như là: “một nhân đức siêu nhiên, nhờ đó cùng với ơn soi sáng và giúp đỡ của Chúa mà ta tin thật những điều Chúa đã mạc khải không phải vì lý trí tự nhiên đã nhận ra sự thật nội tại của sự vật, nhưng vì uy thế của chính Thiên Chúa mạc khải là Đấng không thể lầm lẫn cũng không thể lừa dối ai”.72 Đàng sau câu định nghĩa này, công đồng muốn nói rằng lý trí không phải là tiêu chuẩn duy nhất của chân lý. Ngoài những chân lý mà con người có khả năng khám phá, có những chân lý khác mà con người chỉ có thể biết được nhờ Thiên Chúa mạc khải. Đối với những chân lý mạc khải, con người phải đón nhận bằng đức tin siêu nhiên. Lý trí chấp nhận các chân lý mạc khải không phải vì nhận thấy bằng chứng hiển minh nội tại của nó, nhưng dựa trên uy tín của Thiên Chúa, vì ngài là Đấng không thể sai lầm (canon 1). Trong chương bốn, công đồng nhìn nhận rằng có hai cấp bậc tri thức: tri thức tự nhiên, gồm những chân lý mà lý trí có khả năng khám phá; thi thức siêu nhiên gồm những chân lý vượt quá “Hanc vero fidem, quae humanae salutis initium est, Ecclesia catholica profitetur virtutem esse supernaturalem, qua, Dei aspirante et adiuvante gratia, ab eo revelata vera esse credimus, non propter intrinsecam rerum veritatem naturali rationis lumine perspectam, sed propter auctoritatem ipsius Dei revelantis, qui nec falli nec fallere potest” (Constitutio Dei Filius c.3: DzSch 3008). 72

Những suy tư về bản tính đức tin

205

khả năng của lý trí. Giữa hai cấp bậc ấy có sự hòa hợp, xét vì cả hai đều bắt nguồn bởi một Thiên Chúa, và ngài không thể nào tự mâu thuẫn. b) Những động lực khả tín Tuy rằng đức tin vượt quá tầm hiểu biết của lý trí, nhưng điều này không có nghĩa là tin là một hành vi mù quáng. Chống lại những khuynh hướng dựa đức tin trên nền tảng tâm tình chủ quan, công đồng khẳng định rằng tin là điều hợp lý, dựa trên những dấu hiệu hiển minh khách quan: sự kiện mạc khải, các phép lạ, các lời tiên tri (canon 3). Những dấu hiệu này không chứng minh nội dung của tín điều, nhưng bảo đảm rằng chúng do Chúa truyền dạy và đáng tin cậy. Dù sao, công đồng nhìn nhận rằng cả ánh sáng bên trong (nhờ ơn Chúa) lẫn dấu hiệu bên ngoài đều cần thiết để con người chấp nhận chân lý mạc khải. Nhưng đó là nói cách tổng quát mà thôi, bởi vì đối với một vài người, thì có lẽ những dấu hiệu bên ngoài không cần thiết. Chính điều này tạo ra đặc tính “tự do” của đức tin. Đức tin là một hành vi của ý chí tự do, không những theo nghĩa là con người không bị cưỡng bách từ một tác nhân bên ngoài, nhưng còn theo nghĩa là con người tự ý chấp nhận tin nhờ ơn thánh cũng như do lòng yêu mến Chúa, chứ không do sự hiển minh nội tại của chân lý (canon 5). c) Đối tượng của đức tin Phải tin những điều gì? Câu trả lời thật đơn giản bởi vì đã được nói đến trong định nghĩa về đức tin: phải tin tất cả những điều Chúa đã mạc khải. Làm sao biết được những điều Chúa mạc khải? Đến đây cần có sự can thiệp của Giáo hội. Giáo hội trình bày cho chúng ta biết những điều Chúa đã mạc khải. Chúng ta tin vào Thiên Chúa

206

Thần Học Đức Tin

(vì thế mà gọi là đức tin “hướng Chúa” hoặc “đối thần”); Giáo hội trình bày chân lý mạc khải với những công thức đức tin (tín điều) vừa xác định nội dung vừa tạo ra một sự hợp nhất trong việc tuyên xưng. Giáo hội xác định tín điều qua giáo huấn trang trọng (của công đồng hoàn vũ, hoặc giáo huấn “ex cathedra” của đức giáo hoàng) hoặc qua giáo huấn thông thường và phổ quát. d) Sự cần thiết của đức tin Đức tin cần thiết để con người được cứu rỗi (được nên công chính). Dĩ nhiên đó là hiểu về đức tin sống động nhờ đức ái (x. Gl 5,6) và kiên trì. Đức tin được nuôi dưỡng và củng cố nhờ chứng tá của toàn thể Hội thánh. Mục IV CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II Vào thời cận đại, đức tin Công giáo gặp nhiều khó khăn, không chỉ vì những cuộc cấm cách của những chính quyền ngoại giáo, nhưng còn bởi những trào lưu triết học và khoa học muốn loại trừ tôn giáo ra khỏi xã hội. Giáo hội bị dồn vào thế phòng vệ, phải lo bảo vệ đức tin trước những sai lạc. Một ngành thần học được thiết lập mang tên là “Hộ giáo” (hay “Minh giáo”: apologetica) nhằm tìm ra những lý chứng để bênh vực đức tin Công giáo trước những cuộc tấn công. Môn này gồm ba mục chính, tương đương với ba mặt trận: 1/ bênh vực mạc khải của Chúa Kitô, chống lại thuyết duy lý; 2/ bênh vực Kitô giáo là đạo chân thật, chống lại các tôn giáo; 3/ bênh vực Giáo hội Công giáo như là Hội thánh chân thật, chống lại các lạc giáo và ly giáo. Các sách hộ giáo có thể được coi như là khảo luận về đức tin Công giáo.

Những suy tư về bản tính đức tin

207

Tuy nhiên, sang thế kỷ XX, nhiều luồng gió mới đã làm thay đổi cách trình bày thần học nói chung và đức tin nói riêng. Kể từ khi phái Tin lành chủ trương chỉ nhận Kinh thánh như nguồn mạch duy nhất của đức tin (sola Scriptura), bên Công giáo phản ứng lại bằng cách đề cao Thánh truyền và Huấn quyền, đến độ coi nhẹ Kinh thánh. Phong trào Thánh kinh vào thế kỷ XX đã thúc đẩy thần học Công giáo cần dựa trên Sách thánh nhiều hơn. Một cách tương tự như vậy, những cuộc đối thoại đại kết đã mời gọi hãy tìm những điểm chung giữa các giáo hội, hơn là tranh luận về những dị biệt, cách riêng khuyến khích trở về thời các giáo phụ khi mà các giáo hội bên Đông và bên Tây vẫn duy trì mối dây hiệp nhất tuy tôn trọng sự đa dạng. Nhờ vậy, những điểm nhấn mạnh một chiều dần dần được kết hợp trong một cái nhìn rộng lớn hơn. Thật vậy, trước đây, đối lại với thần học Tin lành nhấn mạnh đến khía cạnh chủ thể của đức tin (tin có nghĩa là tín thác vào Thiên Chúa), thần học Công giáo nhấn mạnh đến khía cạnh khách thể của đức tin (tin có nghĩa là chấp nhận các đạo lý mà Giáo hội đã dạy). Thế nhưng thánh Augustinô và thánh Tôma đã chẳng nói rằng đức tin gồm cả hai khía cạnh, chủ thể và khách thể (fides qua creditur và fides quae creditur) đấy ư? Một yếu tố khác cũng ảnh hưởng không nhỏ đến quan điểm về đức tin là học thuyết về nhân vị (personalisme) phát triển vào giữa thế kỷ XX: mạc khải và đức tin được nhìn trong bối cảnh của cuộc đối thoại liên bản vị.73 Thiên Chúa nói với con người qua mạc khải, và con người đáp lại với Chúa bằng đức tin. Trước hết, tin phải là “tin ai” (tin tưởng, tin cậy, tín thác), rồi mới “tin cái gì” (điều mà người ấy nói). Tin là một cuộc gặp gỡ.

73

X. Jean Mouroux, Je crois en toi. La rencontre avec le Dieu vivant, Cerf Paris 1954, 2nd éd. (1 éd. 1948)

208

Thần Học Đức Tin

Chúng ta hãy lướt qua thần học đức tin của công đồng Vaticanô II và sách Giáo lý Hội thánh Công giáo. I. Công đồng Vaticanô II Công đồng Vaticanô II bàn về đức tin trong nhiều văn kiện,74 và đặc biệt là trong hiến chế tín lý về Mạc khải (Dei verbum), số 5–6 Công đồng trình bày mạc khải như là một cuộc đối thoại âu yếm giữa Thiên Chúa với loài người (số 2). Cuộc đối thoại, bằng hành động và lời nói, diễn ra qua một lịch sử lâu dài, từ hồi tạo dựng, qua các tổ phụ và ngôn sứ trong Cựu ước, và đạt tới chóp đỉnh nơi Đức Kitô (số 3-4). Chúa nói trong mạc khải, con người đáp lại bằng việc tin, như được số 5 diễn tả như sau: Phải bày tỏ sự vâng phục bằng đức tin đối với Thiên Chúa mạc khải (Rm 1,5; 2Cr 10,5-6). Nhờ sự vâng phục đó, con người phó thác toàn thân cho Thiên Chúa một cách tự do “dâng lên Thiên Chúa mạc khải sự suy phục hoàn toàn của lý trí và ý chí” (Vaticanô I), đồng thời sẵn lòng chấp nhận mạc khải mà Ngài ban cho.

Tin là đáp trả lời Chúa. Thái độ này được mô tả bằng nhiều động từ: vâng phục, phó thác, đón nhận. - Tin là “vâng phục”. Đây là thuật ngữ mà thánh Phaolô sử dụng ở đầu và cuối thư gửi Rôma. Cũng tương tự trong tiếng Việt, trong nguyên gốc Hy lạp, vâng phục hàm ý lắng nghe Lời Chúa và suy phục.

Hiến chế Gaudium et spes bàn đến hiện tượng vô thần và tục hóa trong thế giới ngày nay (chương I, số 19-21). Vấn đề đức tin cũng được nêu lên trong các cuộc đối thoại đại kết (Hiến chế Lumen gentium) và công cuộc truyền giáo (Sắc lệnh Ad gentes). 74

Những suy tư về bản tính đức tin

209

- Tin là “phó thác”. Đây là cũng là một từ ngữ Thánh kinh, nói lên sự trao hiến toàn thân cho Thiên Chúa dìu dắt. Đặc biệt công đồng nêu bật hai quan năng cao quý nhất nơi con người là trí tuệ và ý chí. - Tin là “đón nhận”. Trong chế độ mạc khải hiện hành, tin là đón nhận Đức Kitô, Lời của Thiên Chúa. Tin không phải là một tâm tình vu vơ, nhưng có một đối tượng là những điều mà Thiên Chúa đã mạc khải. Như vậy, xét từ phía con người, tin vừa là một thái độ hiện sinh, bao hàm toàn thể nhân vị (trao phó, tín thác), vừa là một hành vi của trí tuệ, chấp nhận chân lý. Hơn thế nữa, tin còn là một tác động của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa lôi kéo con người lại với ngài, đưa con người vào kết hiệp với ngài. Tác động của ơn thánh được quy gán cho Thánh Linh, được mô tả qua các động từ như sau: - Thánh Linh đánh động trái tim và hướng nó về Thiên Chúa. Trong Kinh thánh, “trái tim” ám chỉ nơi thâm sâu nhất của con người, nơi gặp gỡ Thiên Chúa và quyết định những vấn đề sinh tử (x. Rm 10,9; Ep 3,17; 1Ga 5,20). - Thánh Linh mở mắt tâm trí, làm cho cảm thấy ngon ngọt khi thuận nhận chân lý. - Thánh Linh kiện toàn đức tin với những linh ân, giúp cho nó được tăng trưởng và vững mạnh. Như vậy, tin vừa là hành động của con người vừa là tác động của Thiên Chúa. Kinh thánh nói nhiều đến sự cần thiết của ân sủng trong tiến trình đức tin. “Không ai đến được với Thầy nếu Cha Thầy không lôi kéo” (Ga 6,44-45). “Không ai có thể xưng Đức Giêsu là Kyrios nếu không do Thần khí” (1Cr 12,3). Sách Công vụ Tông đồ (16,14) kể lại rằng đang khi thánh Phaolô

210

Thần Học Đức Tin

giảng tại Philípphê, thì Chúa mở lòng cho chị Liđia để tin nhận Lời Chúa. Bước qua số 6, công đồng Vaticanô II tái khẳng định những gì mà công đồng Vaticanô I đã tuyên bố về đối tượng của đức tin, cách riêng khi phân biệt khả năng của lý trí. Tự bản năng, lý trí có thể nhận biết Thiên Chúa như là nguồn gốc và cứu cánh của vạn vật. Nhưng lý trí không thể nào biết được những chân lý liên quan đến đời sống nội tại của Thiên Chúa cũng như kế hoạch cứu độ. Những chân lý này được biết nhờ mạc khải siêu nhiên, và được đón nhận nhờ đức tin. II. Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo bàn rộng về đức tin trong phần “Mạc khải” (số 142-175), lấy lại giáo huấn của công đồng Vaticanô I và Vaticanô II, với lối trình bày khá mới mẻ. Chúng ta có thể phân biệt ba khía cạnh của đức tin: khía cạnh chủ thể (fides qua), khía cạnh đối thể (fides quae) và khía cạnh đời sống (đức tin trong đời). A. Fides qua: khía cạnh chủ thể 1/ Nói cách tổng quát, đức tin là “việc con người đáp lại Thiên Chúa, Đấng mạc khải và hiến mình cho con người, đồng thời ban ánh sáng cho con người đang đi tìm ý nghĩa tối hậu của đời mình (số 26). Đức tin được đặt trong bối cảnh cuộc đối thoại: Thiên Chúa mạc khải, mời gọi; con người đáp lại lời mời gọi (số 142-143). Hành vi đáp lại này được diễn tả qua hai thái độ: vâng phục và gắn bó. a) Vâng phục: tự nguyện quy thuận lời đã nghe, bởi vì chân lý của lời đó đã được Thiên Chúa là chính Chân lý bảo đảm (số 144).

Những suy tư về bản tính đức tin

211

b) Gắn bó bản thân con người với Thiên Chúa, đồng thời và không thể tách biệt, là tự nguyện chấp nhận tất cả chân lý được Thiên Chúa mạc khải (số 150). Tin là thưa Amen đối với các lời, các lời hứa và các điều răn của Thiên Chúa, và là phó thác một cách tuyệt đối cho Đấng là Amen của tình yêu vô tận và của sự trung tín trọn vẹn (số 1064, kết thúc phần thứ nhất). 2/ Những đặc điểm chính: tin vừa là ân ban của Thiên Chúa vừa là hành vi của con người. a) Tin là một hồng ân của Thiên Chúa, là một nhân đức siêu nhiên do Thiên Chúa tuôn ban (số 153), trích dẫn Dei verbum số 5. Điều này cũng muốn lên sự khác biệt giữa “đức tin” và “tín ngưỡng”. b) Đức tin là một hành vi nhân linh: trí tuệ và ý chí con người hợp tác với ơn thánh Chúa (số 154). Đến đây, dựa theo công đồng Vaticanô I, sách Giáo lý Hội thánh Công giáo phân tích hành vi nhân linh qua hoạt động của hai quan năng là trí tuệ và ý chí, hiểu biết và yêu mến. + Tin là một hành vi hiểu biết sáng suốt: (i) tuy rằng động lực khiến chúng ta tin không hiển minh đối với lý trí, nhưng tin không phải là điều phi lý, bởi vì có những dấu chỉ đáng tin (số 156); (ii) đức tin thì chắc chắn bởi vì dựa trên chính Lời của Thiên Chúa, Đấng không thể nói dối (số 157) (iii) đức tin tìm hiểu biết, muốn biết rõ hơn sâu xa hơn (số 158).

212

Thần Học Đức Tin

+ Tin là một hành vi tự do,75 đồng thời cũng là (i) một tình yêu độc hữu dành cho Thiên Chúa là Đấng Thiện hảo tuyệt đối (số 229); (ii) lòng gắn bó thảo hiếu (số 2609); (iii) hướng đến sự kết hợp huyền nhiệm (số 2709). c) Tin mang chiều kích cánh chung (i) đức tin cần thiết để được cứu rỗi (số 161; x.12531255);76

Sự tự do của đức tin được hiểu theo hai nghĩa: nội tại và ngoại tại. Dựa theo thánh Tôma, công đồng Vaticanô I hiểu về tự do nội tại: vì lý trí không thấy sự hiển minh nội tại của mệnh đề cho nên không buộc phải chấp nhận cách tất yếu. Công đồng Vaticanô II mở rộng ra sự tự do theo nghĩa ngoại tại: không ai có thể bị cưỡng bách chấp nhận đức tin; con người chỉ bị thu hút bởi sức mạnh của chân lý, chứ không thể bằng bạo lực. 75

Đức tin cần thiết để được cứu rỗi. Mệnh đề này có thể hiểu theo hai nghĩa: 1/ Theo các tác giả Tin mừng, tin là điều kiện để được cứu rỗi (xc. Mc 16,16; Ga 3,16-18; 5,24). Tuy nhiên, một câu hỏi đã sớm nảy lên: những người không có đức tin thì sao? Tình trạng này không do lỗi tại họ, nhưng chỉ vì họ chưa được nghe giảng Tin mừng. Các nhà thần học kinh viện đã tìm cách trả lời bằng cách phân biệt tình trạng đức tin ám tàng (implicita: tin rằng Thiên Chúa hiện hữu và là đấng thưởng phạt, dựa theo Hr 11,6), và tin minh nhiên (explicita). Đối với những người chưa được nghe loan báo Tin mừng, thì đức tin ám tàng cũng đủ. Sang thế kỷ XX, các cuộc tranh luận trở nên sôi nổi hơn, liên quan đến sự cứu rỗi của những người ngoài Kitô giáo. 2/ Từ thời Cải cách Tin lành, một đề tài trở thành sôi nổi, liên quan đến tiến trình trở nên công chính (iustificatio), được công đồng Trentô bàn trong Sắc lệnh về việc công chính hóa (Decretum de iustificatione, khóa VI, ngày 13/1/1547). Tiến trình này bao gồm nhiều hành vi: hoán cải, thay đổi tâm tư não trạng, chế ngự các bản năng dục vọng. Tiến trình thanh luyện này cũng cần sự can thiệp của ơn Chúa. 76

Những suy tư về bản tính đức tin

213

(ii) đức tin cần kiên trì và tăng trưởng, được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và hành động qua đức ái (số 162); (iii) đức tin là khởi đầu của sự sống muôn đời (số 164). d) Đức tin vừa mang tính cá nhân (“Tôi tin”) vừa mang chiều kích Hội thánh (“Chúng tôi tin”). Đức tin là một hành vi của Hội thánh (i) từ nguồn gốc: đức tin của Hội thánh đi trước, sinh sản, nâng đỡ và nuôi dưỡng đức tin của chúng ta (số 166; 181; 1124). (ii) trong lúc thông truyền. Người tín hữu đón nhận đức tin từ Hội thánh, tuyên xưng đức tin trong Hội thánh, và truyền đạt lại cho tha nhân. (iii) Đức tin là dây liên kết: sự hợp nhất trong việc tuyên xưng đức tin (“một đức tin duy nhất: số 172-175), sự nâng đỡ hỗ tương nhờ lời nói và những gương tốt. Xc. Những mẫu gương đức tin: ông Abraham, tổ phụ của những kẻ tin (số 145-147); Đức Maria kẻ thực hành đức tin tuyệt hảo (số 148-149; 494; 506). B. Fides quae: khía cạnh đối thể Tin là chấp nhận các chân lý mạc khải. Tuy nhiên, chúng ta không tin vào các công thức, nhưng tin vào những thực tại được các công thức diễn tả (số 170).77 Ngay từ đầu, các thánh tông đồ đã diễn tả và thông truyền đức tin qua những công thức ngắn ngủi. Hội thánh cũng sớm muốn tóm tắt những yếu tố cốt yếu của đức tin thành những bản toát lược hữu cơ, được gọi là “biểu thức đức tin” (tín biểu: số 171; 77

Xem thêm “Các tín điều đức tin” ở các số 88-90; 889.

214

Thần Học Đức Tin

185-188). Suốt phần thứ nhất, sách Giáo lý Hội thánh Công giáo giải thích nội dung đức tin Kitô giáo dựa trên kinh Tin kính với ba chương (x. số 190). Nội dung cơ bản của đức tin là “chỉ có một Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần” (số 178; xem thêm 150-152). C. Đức tin trong đời sống Kitô hữu 1/ Cấu trúc của sách Giáo lý Hội thánh Công giáo xoay quanh bốn khía cạnh của đức tin: tuyên xưng đức tin, cử hành đức tin, sống đức tin, đức tin cầu nguyện. 2/ Vài chi tiết a) Đức tin và các bí tích - Các bí tích đức tin (số13; 15; 1122; 1123; 1133; 1201). - Đức tin và phép rửa (số 1236; 1253; cf. 977; 978; 1226; 1427; 1987; 1992; 2017). Việc tuyên xưng đức tin khi lãnh phép rửa: số 189. - Bí tích thêm sức (số 1305). - Bí tích Thánh Thể: toát yếu và tổng luận đức tin (số 1327). - Bí tích thống hối (số 1470; 1492). - Bí tích xức dầu (số 1519). - Hôn phối (số 1558; 2225). b) Đức tin và hành động luân lý - Các nhân đức đối thần là nền tảng của hành động luân lý Kitô giáo: đức tin là nguồn mạch đời sống luân lý (số 1812; 1813; 2087).

Những suy tư về bản tính đức tin

215

- Đức tin là đối tượng của mười điều răn (số 2086-2089). c) Đức tin và cầu nguyện - Chúng ta đi vào cầu nguyện qua cánh cửa đức tin (số 2656; 2711). - Lịch sử đức tin (mạc khải) và lịch sử cầu nguyện như nhau (Abraham, Môsê..., Đức Maria). - Kinh nguyện đức tin không chỉ hệ tại kêu cầu “lạy Chúa, lạy Chúa”, nhưng là chuẩn bị tâm hồn để thi hành ý Chúa (số 2611). - Chóp đỉnh của việc cầu nguyện trùng hợp với chóp đỉnh đức tin, đó là chiêm niệm (n.2715; 2716). Nhận xét 1/ Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo đã phân tích nhiều khía cạnh của đức tin: như một hồng ân Chúa ban, như một hành vi nhân linh, bao gồm toàn thể con người trong đó nổi bật là vai trò của lý trí (hiểu biết) và tình yêu. Đức tin được nhìn từ khía cạnh chủ thể cũng như khía cạnh đối thể. Một điểm mới là đức tin còn được nhìn dưới khía cạnh Hội thánh “Tôi tin - Chúng tôi tin”. Trong bối cảnh này, cần thêm những đoạn văn nói đến “cảm quan đức tin” (sensus fidei). Xc. GLCG số 91-93.99; 250; 785; 889; 904 2/ Bên cạnh bộ mặt “tĩnh” của đức tin, chúng ta không nên bỏ qua bộ mặt “động”. Xét vì đức tin là cái gì sống động cho nên có sự tiến triển. Sự tiến triển này có thể hiểu theo nhiều nghĩa: a) Về phía cộng đoàn Hội thánh, có sự tiến triển trong việc hiểu biết các sự việc và lời nói thuộc kho tàng đức tin (số 94, trưng dẫn số 8 của hiến chế Dei verbum)

216

Thần Học Đức Tin

b) Về phía mỗi người tín hữu, đức tin của chúng ta có thể tăng về phía đối thể, khi chúng ta hiểu biết sâu rộng hơn các đạo lý; đồng thời đức tin có thể tăng về phía chủ thể khi chúng ta tin tưởng phó thác vào Chúa hơn. “Lạy Chúa, chúng con tin, nhưng hãy tăng thêm đức tin cho chúng con” (Mc 9,24), và đặc biệt là tiến đến cảm nghiệm huyền nhiệm. 3/ Những tội trái nghịch đức tin (GLCG 2087-2089) Các sách thần học luân lý nói đền nhiều thứ tội trái nghịch đức tin, nhưng sách Giáo lý Hội thánh Công giáio chỉ liệt kê vài thứ, tựa như: “nghi ngờ” dưới hai dạng “cố tình” hay “vô tình” (số 2088), và đặc biệt là bốn tội: vô tín, lạc giáo, bội giáo, ly giáo. Mặt khác, mê tín (superstitio, số 2111) và cuồng tín (fanatismus) cũng có thể coi như trái nghịch với đức tin. Những thái độ này có khi bắt nguồn từ sự thiếu hiểu biết về đức tin, nhưng cũng có khi do sự lạm dụng đức tin (hoặc tín ngưỡng) vào những mục tiêu chính trị thương mại. Để kết thúc mục này, nên biết là đức thánh cha Gioan Phaolô II đã viết một thông điệp Fides et ratio (14/9/1998) bàn về tương quan giữa đức tin và lý trí. Ngài cũng dành một loạt bài huấn giáo về đức tin (từ ngày 13 tháng 3 đến ngày 19 tháng 6 năm 1985), mở đầu cho những bài huấn giáo về kinh Tin kính. Mục V NHỮNG QUAN ĐIỂM THẦN HỌC VỀ ĐỨC TIN TỪ SAU CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II Chúng ta đã điểm qua những quan điểm thần học khác nhau về đức tin trải qua lịch sử. Chúng ta có thể bổ túc thêm với những quan điểm từ sau công đồng Vaticanô II, và tóm lược vào bảy

Những suy tư về bản tính đức tin

217

“mô hình”, dựa theo cha Avery Dulles.78 Thần học Kinh viện đã phân biệt hai khía cạnh của đức tin: khía cạnh khách thể (fides obiectiva, fides quae creditur) ám chỉ đạo lý đức tin; khía cạnh chủ thể (fides subiectiva, fides qua creditur) ám chỉ thái độ gắn bó của con người đối với Thiên Chúa (tin tưởng, tín thác). Các nhà thần học hiện đại còn nêu bật nhiều khía cạnh khác nữa: ánh sáng, tín thác, vâng phục, cảm nghiệm, hành động, gặp gỡ. 1/ Chấp nhận những công thức đạo lý Theo mô hình thứ nhất, tin có nghĩa là chấp nhận những chân lý, đạo lý đức tin (được cô đọng qua kinh Tin kính, tín điều). Đây là một mô hình rất cổ điển, như chúng ta ghi nhận nơi các bản văn Tân ước: các thánh tông đồ đã phát biểu công trình cứu độ thành những công thức tuyên xưng; các giáo phụ đã soạn những tín biểu. Những công thức đức tin cần thiết để phát biểu niềm tin chung của Giáo hội, tạo nên sự thông hiệp, cũng như để bài trừ những lý thuyết sai lạc. Các công đồng Vaticanô I và II đều hiểu đức tin như là thuận nhận những chân lý do Thiên Chúa mạc khải và Huấn quyền xác định. Dĩ nhiên, đức tin không thể nào chỉ giới hạn vào việc học thuộc lòng kinh Tin kính, nhưng còn bao gồm việc tham dự phụng vụ, thực hành các nhân đức. Trên thực tế, không thiếu lần người ta cho rằng mình có đức tin chỉ vì thuộc giáo lý. Một điều thiếu sót khác của mô hình này nằm ở chỗ là nhiều lần người ta (kể cả các nhà thần học) bám chặt vào ý nghĩa các từ ngữ của công thức đạo lý và quên đi giới hạn của ngôn ngữ

78

The Assurance of Things Hoped For, New York, 1994. Cha Avery Dulles S.J. (1918-2008, được thăng hồng y năm 2001) cũng đã áp dụng phương pháp “mô hình” để tìm hiểu những lối tiếp cận Giáo hội (Models of the Church, 1974) và Mạc khải (Models of Revelation, 1983).

218

Thần Học Đức Tin

loài người: đâu phải hết những tâm tình đều có thể diễn tả ra lời? Các nhà huyền bí đã biết như vậy khi họ nghiêng về “thần học phủ định”. Thậm chí thánh Tôma cũng lưu ý rằng đức tin không dừng lại ở công thức nhưng cần vươn đến Thực tại, nghĩa là sự kết hiệp với Thiên Chúa. 2/ Ánh sáng siêu việt Mô hình thứ hai quan niệm đức tin như là một ánh sáng do Chúa ban, nhờ đó con người có thể nắm bắt các chân lý mạc khải. Các giáo phụ đã mô tả tác động của ơn Chúa như là sự chiếu sáng (illuminatio); thánh Tôma gọi đó là “ánh sáng đức tin” (lumen fidei: Summa Theologica II-II, q.1, art.4, ad 3m). Vào thời nay, cha Karl Rahner muốn nêu bật đến khía cạnh này, khi cho rằng đức tin hệ ở ánh sáng “siêu việt” (transcendental) do Chúa ban, hơn là ở việc chấp nhận những chân lý đặc thù (phạm trù, categorial).79 Điều này được áp dụng đặc biệt cho những người ngoài Kitô giáo: tâm trí họ hướng về Thiên Chúa như là đối tượng của tình yêu (hơn là chấp nhận những chân lý đặc thù mà họ chưa biết). Đây là một hồng ân do Chúa ban cho những người chưa được nghe sứ điệp Tin mừng. 3/ Tín thác cậy trông Đây là chủ trương cổ điển của phái Cải cách Tin lành, dựa theo những bản văn của sách Sáng thế (chẳng hạn như ông Abraham), các thánh vịnh, Isaia, cũng như Tin mừng nhất lãm, các thư thánh Phaolô gửi Rôma, Galát và Hípri. Đối với Lutêrô, đức tin mang lại ơn cứu độ là lòng tín thác vào Thiên Chúa. Ông tố cáo thần học kinh viện là quá nhấn mạnh đến khía cạnh trí tuệ

79

Karl Rahner, Foundations of Christian Faith, Crossroad, New York 2004, 227-228.

Những suy tư về bản tính đức tin

219

trong đức tin (như là chấp nhận chân lý) mà bỏ qua lòng tin tưởng cậy trông của những con người xao xuyến. Vào thời nay, vài nhà thần học Tin Lành (tựa như Jurgen Moltmann, Wolfhart Pannenberg) đề cao chiều kích hy vọng trong đức tin. Đức tin được phát sinh từ lời hứa, và vì vậy bao hàm niềm hy vọng chắc chắn vào lòng trung tín của Thiên Chúa. 4/ Cảm nghiệm tâm linh Hai mô hình đầu tiên nghiêng về chân lý và sự hiểu biết, mô hình thứ ba thiên về hy vọng tương lai, mô hình thứ bốn đề cao khía cạnh cảm nghiệm tâm linh. Đức tin được quan niệm như là sự kết hiệp huyền nhiệm với Thiên Chúa. Người tín hữu gặp gỡ Đức Kitô sống động, và họ được hưởng chứng tá nội tâm của Thánh Linh, như thánh Phaolô đã viết trong Rm 8,16 và Gl 4,6. Mô hình này dựa trên truyền thống huyền bí của Kitô giáo, từ Đionysiô Areopagita, Bênađô, Bonaventura. Vào thời cận đại, chủ trương này được gợi lên nơi phong trào mộ đạo (Pietismus) bên Tin lành, và đặc biệt là nơi Friedrich Schleiermacher. Đức tin không phải là chấp nhận chân lý cho bằng chia sẻ cảm nghiệm tâm linh của Đức Giêsu, hoặc của những nhân vật khác được nhắc đến trong Kinh thánh. Khuynh hướng này cũng muốn đối thoại với các truyền thống tôn giáo lớn ở Á châu, trong đó cảm nghiệm huyền bí là một yếu tố nòng cốt. 5/ Vâng phục Khía cạnh này đã được thánh Phaolô nói đến trong lời mở đầu và kết thúc thư Rôma (1,5; 16,26), và vào thời nay, được nhà thần học Tin lành Karl Barth đề cao. Ông muốn nhấn mạnh đến thái độ của con người là thụ tạo đứng trước địa vị cao sang của Thiên Chúa: Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn siêu việt. Tin hệ ở thái độ lắng nghe Thiên Chúa, hơn là tuân giữ các giới răn. Đối

220

Thần Học Đức Tin

với Barth, đức tin bao hàm ba đặc điểm liên kết chặt chẽ với nhau trong ngôn ngữ tiếng Đức: erkennen (nhận biết), anerkennen (nhìn nhận, suy phục), bekennen (tuyên xưng). Điều quan trọng nhất là suy phục Thiên Chúa, nhìn nhận Ngài đã nơi nương náu duy nhất, và tuân theo con đường cứu độ do Ngài đã lập ra. Một tác giả khác của Tin lành, Dietrich Bonhoeffer, cũng nhấn mạnh đến đức tin như là vâng phục: kẻ nào tin thì mới vâng phục, và ai vâng phục thì mới tin. Đức tin đòi hỏi vâng phục kể cả trong những điều cam go nhất, tựa như bài giảng trên núi, để trở nên giống với Đức Kitô, một con người sống cho tha nhân. 6/ Hành động Mô hình thứ sáu chủ trương đức tin như là hành động (praxis), được đề cao trong thần học giải phóng (Johannes B. Metz, Gustavo Gutierrez). Họ chỉ trích những mô hình trên đây là tư sản, cá nhân, không quan tâm gì đến những người nghèo khổ, bị áp bức. Theo họ, đức tin cần phải biến thành hành động trong xã hội và lịch sử. Đức tin được coi như tham dự vào cuộc giải phóng của Đức Giêsu khỏi những quyền lực thế gian. Khuynh hướng này lưu ý đến thuật ngữ “thực hành chân lý” (Tin mừng Gioan 3,21) và “đức tin mà không có việc làm là đức tin chết” (Thư Giacôbê 2,17). Ở đây, hành động được hiểu theo nghĩa là giải phóng khỏi những cảnh bất công trong xã hội. 7/ Tương quan liên bản vị Mô hình thứ bảy đề nghị đức tin như là mối tương quan cá vị với Thiên Chúa. Nhờ đức tin con người liên kết với Thiên Chúa, chia sẻ vào cuộc sống của Đức Kitô; nhờ thông hiệp với cái chết và phục sinh của Đức Kitô, con người cũng được kết hiệp với Thiên Chúa Ba ngôi; rồi từ đó, cuộc đời con người được biến đổi từ tâm tư đến hành động. Jean Mouroux, Hans Urs von

Những suy tư về bản tính đức tin

221

Balthasar, Henri de Lubac có thể coi như những đại biểu của khuynh hướng này. Đức tin bao hàm một cuộc gặp gỡ, và cuộc gặp gỡ này gây ra một sự biến đổi cuộc sống. Đức tin ảnh hưởng đến toàn thể con người: trí tuệ, ý chí, tình cảm. Kết luận Bảy mô hình vừa nêu tượng trưng cho bảy quan điểm thần học về đức tin. Chúng ta có thể nhận thấy nhiều điểm nhấn khác nhau, nhìn từ phía con người: đôi khi nhấn tới khía cạnh tri thức hiểu biết, đôi khi nhấn tới khía cạnh ý chí tình cảm; có người đề cao thái độ suy phục tín thác, người khác muốn nêu bật cuộc đối thoại gặp gỡ. Đàng sau những khác biệt về điểm nhấn, cha Avery Dulles còn muốn cho thấy những hình ảnh khác nhau về Thiên Chúa trong các mô hình. 1/ Trong mô hình công thức đức tin, Thiên Chúa tỏ ta như là một Thầy dạy, mà lời giáo huấn cần được chấp nhận. 2/ Trong mô hình siêu việt, Thiên Chúa là Đấng soi sáng tâm trí những người chìm đắm trong u tối. 3/ Trong mô hình tín thác, Thiên Chúa là vị Ân nhân lân tuất mà ta có thể tin tưởng vì ngài giữ lời hứa. 4/ Trong mô hình cảm nghiệm, Thiên Chúa là Tình nhân thu hút tâm hồn những kẻ đi tìm kiếm. 5/ Trong mô hình vâng phục, Thiên Chúa là Thượng đế đòi hỏi sự tùng phục 6/ Trong mô hình hành động, Thiên Chúa là Nhà giải phóng ban sức mạnh cho những ai tranh đấu chống lại cảnh bất công áp bức.

222

Thần Học Đức Tin

7/ Trong mô hình tương quan liên bản vị, Thiên Chúa là nguồn hạnh phúc, lôi kéo mọi người đến chia sẻ vinh quang với mình. Dĩ nhiên, người ta có thể nghĩ ra nhiều mô hình khác nữa. Nhưng việc kiểm kê các mô hình nhắc nhở chúng ta rằng trải qua lịch sử, đã có nhiều quan điểm khác nhau về đức tin.

Phần Thứ Ba

SUY TƯ THẦN HỌC VỀ ĐỨC TIN

Trong hai phần vừa rồi, chúng tôi đã điểm qua những cái nhìn khác nhau về thần học đức tin trong Kinh thánh và trong lịch sử Giáo hội. Trong phần này, chúng tôi cố gắng tổng hợp những dữ kiện ấy và trình bày mạch lạc thần học về đức tin. Như đã nói ngay từ nhập đề, “tin” là một thái độ cần thiết trong tương quan xã hội: cuộc sống xã hội được xây dựng trên niềm tin tưởng giữa những phần tử với nhau; tuy nhiên ở đây, chúng ta không bàn đến lòng tin (hay chữ Tín) giữa con người với nhau, nhưng chỉ giới hạn vào niềm tin đối với Thiên Chúa.

224

Thần Học Đức Tin

Nói thế vẫn chưa đủ, cần phải hạn chế đề tài hơn nữa: thần học Kitô giáo phân biệt giữa “tín ngưỡng” (niềm tin) và “đức tin”. Bất cứ con người nào cũng có “tín ngưỡng”, tức là một mối liên hệ nào đó với Thực Tại Siêu việt (mang tên là Thiên Chúa, hoặc Đấng Chí Tôn, hoặc Chân, Thiện, Mỹ, hay danh xưng nào khác). Niềm tin ấy nằm trong bản tính con người, nghĩa là do chính Đấng Tạo hóa phú bẩm; còn “đức tin” thuộc một bình diện cao hơn, bởi vì là một thái độ của con người đáp trả lại Thiên Chúa mạc khải. Thái độ này được mô tả dưới nhiều thể thức khác nhau, như lịch sử thần học đã cho thấy: khi thì coi như là “niềm tín thác, gắn bó”; khi thì coi như là “ánh sáng, nhãn quan”; khi thì coi như là “chấp nhận đạo lý”. Dù sao cũng nên biết rằng tuy “đức tin” khác với “tín ngưỡng” nhưng hai bên liên hệ với nhau, như sẽ nói sau. Phần này gồm hai chương: trước hết, (chương Năm) chúng ta hãy tìm hiểu bản chất của đức tin, nghĩa là dưới bộ mặt “tĩnh”; kế đó, chúng ta sẽ tìm hiểu bộ mặt “động” của nó, theo dõi những thăng trầm của đức tin trong đời sống (chương Sáu).

Chương Năm

BẢN CHẤT ĐỨC TIN Thần học Công giáo bàn đến đức tin như là một trong ba nhân đức “đối thần” (hay nói đúng hơn, nhân đức “hướng về Chúa”: virtutes theologales). Ba nhân đức này (Tin - Cậy - Mến) được gọi là “đối thần” không chỉ vì chúng quy hướng chúng ta về Thiên Chúa, mà còn vì chúng được chính Thiên Chúa ban cho chúng ta. Mặt khác, tuy chúng ta tách rời ra từng nhân đức để học hỏi, nhưng trên thực tế cả ba gắn chặt với nhau, như chúng ta đã thấy khi phân tích khái niệm đức tin trong Kinh thánh. Thật vậy, một đàng, tin có nghĩa là tín thác vào Thiên Chúa, dựa trên niềm xác tín rằng Thiên Chúa trung thành sẽ thực hiện lời đã hứa; mối liên lạc giữa “tin” và “hy vọng” được nêu bật trong định nghĩa đức tin ở đầu chương 11 của thư gửi Hípri. Đàng khác, tin có nghĩa là gắn bó với Thiên Chúa, kết hợp với Ngài: điều này được nêu bật nơi thánh Phaolô (Gl 5,6) và thánh Gioan; thậm chí thánh Giacôbê khẳng định rằng đức tin không có việc làm (nghĩa là thiếu yêu mến) là đức tin chết. Cách riêng, trong chương này, chúng tôi muốn nêu bật mối

226

Thần Học Đức Tin

tương quan giữa đức tin với Chúa Ba Ngôi. Đức tin Kitô giáo khác với các tôn giáo độc thần ở chỗ tuyên xưng rằng: Thiên Chúa chúng ta là Một (duy nhất) trong sự thông hiệp của Ba ngôi vị. Hơn thế nữa, Thiên Chúa Ba ngôi không chỉ là “đối nhân” của đức tin, mà còn là “tác nhân” của đức tin nữa: đức tin của chúng ta bắt nguồn từ Thiên Chúa và trở về với Thiên Chúa, theo như một công thức cổ truyền đã phát biểu: “trong Thánh Linh, cùng với Đức Kitô, đến Chúa Cha” (In Spiritu- Cum Christo Ad Patrem). Đó là thứ tự của ba mục trong chương này.80 1/ Trước tiên, xét trong tương quan với Thánh Linh, đức tin là một ân ban. Nếu không có ân ban thì không thể nào có đức tin. 2/ Xét trong tương quan với Đức Kitô, đức tin là một sự gắn bó cá vị với Đức Kitô, bao hàm toàn thể cuộc sống; đồng thời, bởi vì Đức Kitô là đầu Hội thánh cho nên đức tin cũng mang chiều kích hiệp thông với Hội thánh. 3/ Xét trong tương quan với Chúa Cha, đức tin là một hành vi hướng đến Thiên Chúa, Đấng là Chân lý và cũng là hạnh phúc của con người. Mục I TRONG THÁNH LINH Như vừa nói, đức tin được gọi là một nhân đức “đối thần” bởi vì do Thiên Chúa ban. Cần có ơn Chúa thì chúng ta mới có thể Tư tưởng chương này dựa theo bài viết của Josef Truetsch, “Explicación teológica de la fe”, in: Mysterium salutis, vol.I, tomo II, Ed. Cristiandad, Madrid 1969, p.915-993. Về Chúa Ba Ngôi trong đời sống Kitô hữu, xem Đời sống tâm linh, tập III (Thần học về đời sống tâm linh Kitô giáo), các chương Một-Ba; tập VII (Cầu nguyện Kitô giáo), chương Năm, trang 162173; tập IX (Bí tích tình yêu), chương Một. 80

Bản chất đức tin

227

tin Chúa. Tại sao vậy? Ít là có hai lý do chính. 1/ Lý do thứ nhất là vì khoảng cách vô biên giữa chúng ta với Thiên Chúa. Tuy rằng con người tự thâm tâm vẫn nuôi lòng khao khát muốn hiểu biết và chiếm hữu Thiên Chúa là hạnh phúc đời mình, nhưng con người không tài nào vươn lên tới Ngài được. Ngài là Đấng cao cả ngàn trùng, còn con người chúng ta thì thấp bé. Vì thế cần phải chính Ngài đích thân tiến lại để nâng chúng ta lên, đưa chúng ta xích lại gần Ngài. 2/ Trên thực tế, Thiên Chúa đã mạc khải ý định của Ngài cho chúng ta, Ngài đã muốn mời gọi chúng ta vào chia sẻ tình tri âm với Ngài. Thế nhưng tâm thức chúng ta không dễ chấp nhận đường hướng mà Ngài vạch ra. Không lạ gì mà Đức Giêsu đã mở đầu sứ vụ với lời kêu gọi: “Hãy hoán cải và tin vào Tin mừng” (Mc 1,15). Sự hoán cải không chỉ hiểu về sự thay đổi những lối sống trái với luân thường nhưng nhất là thay đổi não trạng: chấp nhận những hệ trật giá trị của Tin mừng, trái ngược với tục lệ dân gian, chẳng hạn như: phục vụ tha nhân thay vì để cho người ta phục vụ mình, cho đi hơn là nhận lãnh, tha thứ thay vì hận thù...; hay nói tắt, chấp nhận “mất mạng sống vì Chúa để tìm thấy sự sống thật” (x. Mt 10,39). A. Hồng ân đức tin Chính trong bối cảnh ấy mà chúng ta cần Chúa ban ơn thay lòng đổi dạ, ngõ hầu có thể đi vào đường lối của Ngài. Sự cần thiết của tác động ơn thánh trong hành trình đức tin được Tân ước diễn tả qua nhiều lối nói. - Sau khi ông Simon Phêrô tuyên xưng đức tin về bản tính của Đức Giêsu, thì chính Người lại nói cho ông biết: “Này anh, không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha trên trời” (Mt 16,17). Một tư tưởng tương tự cũng được thánh Mátthêu ghi lại nơi lời chúc tụng của Đức Giêsu: “Không ai biết

228

Thần Học Đức Tin

rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho” (Mt 11,25-27). Hai đoạn văn này so sánh đức tin như là một “ánh sáng” soi sáng tâm trí nhờ đó con người nhận ra chân lý của Chúa. - Thánh Gioan diễn tả tác động của ơn thánh như là một “sức lôi cuốn”, thu hút con người đến với Thiên Chúa: “Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy” (Ga 6,44); “Không ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho” (Ga 6,65). - Đức tin là một ơn ban của Thiên Chúa. Truyền thống Kitô quy gán công việc này cho Thánh Linh, dựa trên nhiều đoạn văn Tân ước, chẳng hạn như 1Cr 2,10: “Chúng ta đã được Thiên Chúa mặc khải cho, nhờ Thánh Linh. Thật vậy, Thánh Linh thấu suốt mọi sự, ngay cả những gì sâu thẳm nơi Thiên Chúa”, hoặc 1Cr 12,3: “Chẳng có ai có thể nói rằng ‘Đức Giêsu là Chúa’ nếu không do tác động của Thánh Linh”. - Cách riêng, vai trò của Thánh Linh đối với việc chấp nhận và hiểu biết Lời Chúa đã được Tin mừng thánh Gioan nhấn mạnh trong bài diễn từ tại nhà Tiệc ly: “Đấng Bảo trợ là Thánh Linh, Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng ấy sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14,26). Dựa trên những đoạn văn ấy, công đồng Vaticanô I đã tuyên bố rằng: “Không ai có thể thuận nhận lời giảng Tin mừng ... nếu không có sự soi sáng và sự linh hứng của Thánh Linh, Đấng làm cho mỗi người cảm thấy ngọt ngào khi chấp nhận và tin vào chân lý”.81 Giáo huấn này được công đồng Vaticanô II lặp lại trong “Nemo evangelicae praedicationi consentire potest, sicut oportet ad salutem consequendam absque illuminatione et inspiratione Spiritus Sancti, 81

Bản chất đức tin

229

Hiến chế Dei verbum, số 5.82 B. Tác động của Thánh Linh Thật ra công đồng Vaticanô II không chỉ lặp lại Vaticanô I nhưng còn mô tả những tác động của Thánh Linh trải qua những chặng tiến triển của đức tin, từ khi bắt đầu đến lúc hoàn bị: Để có được đức tin này, cần có ân sủng Thiên Chúa đến trước nâng đỡ và sự trợ giúp bên trong của Thánh Linh, Đấng lay chuyển và quy hướng con tim về cùng Thiên Chúa, mở mắt lý trí và cho mọi người cảm thấy dịu ngọt khi ưng thuận và tin vào chân lý. Và cũng chính Thánh Linh không ngừng kiện toàn đức tin bằng các ân huệ của Ngài để giúp con người ngày càng thấu hiểu mặc khải sâu xa hơn. Dựa theo thánh Tôma Aquinô, thần học đã diễn giải tác động của ân sủng qua ba chặng tiến trình đức tin: chuẩn bị, thực hiện, kiện toàn. 1/ Chuẩn bị đức tin Tác động của ân sủng được ví như là một tiếng gọi nội tâm,83 kêu mời con người hãy tin vào lời giảng. Ân sủng tác động như một thứ “bản năng” (instinctus) mới, quy hướng con người về với Thiên Chúa. Tuy nó tác dụng trên ý chí (ước muốn), nhưng nó cũng chi phối cả lý trí nữa. Ân sủng tác dụng trên trí tuệ, thúc qui dat omnibus suavitatem in consentiendo et credendo veritati” (Hiến chế Dei Filius, chương 3: DzSch 3010). Xem thêm sách GLCG số 153. Thực ra sự cần thiết của tác dụng ơn thánh đối với việc tin đã được nhiều công đồng nói đến, chẳng hạn như công đồng Orange II năm 529; công đồng Trentô năm 1547. 82

83

vocatio interior: Summa Theologica I-II, q.113, a.1, ad 3m; In Joh. c.1, lectio 6, n.3; c.6, lectio 5; In Rom. c.8, lectio 6; interior instinctus invitans: Summa Theologica I-II, q.2, a.9, ad 3m.

230

Thần Học Đức Tin

giục nó hãy hòa đồng quan điểm của mình theo quan điểm của Chúa là Chân lý. Thật vậy, tin có nghĩa là tự ý trao mình cho tiếng gọi của Chúa, hoàn toàn dựa vào Ngài, vì biết rằng Ngài là sự thật và không thể nào sai lầm. Ân sủng vừa nâng cao (gratia elevans) khả năng của con người (ra như ban cấp một thứ bản năng mới), vừa chữa lành (gratia sanans) những yếu đuối của bản tính tự nhiên, vốn quen lý luận theo cái nhìn phàm tục. Thật vậy, để có thể chấp nhận sự “khôn ngoan của thập giá”, chúng ta cần một ơn chữa trị đặc biệt, bởi vì lý luận tự nhiên chỉ thấy thập giá là sự điên rồ (x. 1Cr 1,23). 2/ Thực hiện đức tin Sau khi chuẩn bị linh hồn để đón nhận đức tin, ân sủng trợ giúp để linh hồn có thể thực hiện đức tin, nghĩa là tin vào Thiên Chúa. Dựa theo những đoạn văn Tân ước, thánh Tôma Aquinô ví vai trò của ơn thánh trong giai đoạn này như là “ánh sáng” (lumen fidei): Chúa ban cho con người ánh sáng đức tin, nhờ đó con người nhận biết những chân lý của Chúa bởi vì con người phán đoán mọi sự “với cặp mắt đức tin”, thuật ngữ gặp thấy nơi các thánh tông đồ (xc. 1Pr 1,8-9). Việc phú ban ánh sáng để hiểu biết và phán đoán được thánh Phaolô quy gán cho Thánh Linh (1Cr 2,10-11). Ánh sáng đức tin tác động chính yếu trên trí tuệ, giúp cho nó đánh giá mọi vật với cái nhìn của Chúa. Đồng thời nó cũng tác động trên ý chí bởi vì nó dẫn ta đến yêu mến và kết hợp với Thiên Chúa. Như vậy, ân sủng tác động nơi chúng ta vừa như là khẳng định chân lý vừa như là yêu mến. Quả thật, như thánh Tôma đã lưu ý, chúng ta tin vào chính Chúa, chứ không chỉ tin vào những công thức phát biểu chân lý về Chúa84. Những công thức chỉ diễn tả một phần nào thực tại, nhưng thực “Actus credentis non terminatur ad enuntiabile, sed ad rem” (Summa Theologica II-II, q.1, a.2, ad 2m). 84

Bản chất đức tin

231

tại thì vượt xa những công thức. Đức tin dẫn chúng ta đến với chính Thiên Chúa là Chân lý và là Hạnh phúc, chứ không dừng lại ở những hình thức diễn tả ngài. 3/ Kiện toàn đức tin Xét vì đức tin là một thực tại sinh động, cho nên ân sủng cũng đồng hành với đức tin trong suốt tiến trình này. (Chúng ta sẽ bàn đến sự tăng trưởng đức tin trong chương tới). Truyền thống thần học giải thích tác động của Thánh Linh qua ba linh ân: thâm hiểu (intellectus) giúp chúng ta đào sâu thêm ý nghĩa của chân lý; minh luận (scientia) giúp ta phán đoán giá trị các thụ tạo theo ánh sáng đức tin; cao minh (sapientia) đưa chúng ta đến chiêm ngắm Thiên Chúa.85 C. Ân sủng và tự do Như vậy, dựa theo tư tưởng Kinh thánh, Giáo hội khẳng định rằng cần có ơn Chúa thì chúng ta mới có thể tin Chúa: đức tin là một ân ban của Thiên Chúa. Tuy nhiên, nói như thế không có nghĩa là đức tin hoàn toàn từ trời rơi xuống, chứ con người chẳng có vai trò gì. Nói khác đi, tin vừa là ân ban của Chúa vừa là hành vi của con người. Đã có nhiều ý kiến được đề ra để giải thích sự tương tác giữa hai nhân tố ấy, nhưng xem ra chưa đủ thuyết phục. Thật vậy, làm sao trả lời cho những vấn nạn sau đây: Phải chăng bởi vì đức tin là một ân ban, cho nên phải kết luận rằng sở dĩ có những người chưa có đức tin là tại vì họ chưa nhận được ơn Chúa? Hay là phải nói rằng Chúa đã ban ơn cho hết mọi người, Ở đây, chúng ta chỉ bàn về vai trò của Thánh Linh trong sự tăng trưởng đức tin nơi cá nhân người tín hữu. Về tác động của Thánh Linh đối với sự tiến triển đức tin của Hội thánh, xc. GLCG số 94. Đặc biệt Thánh Linh giúp Hội thánh hiểu rõ hơn ý nghĩa của Thánh Kinh, khám phá ý nghĩa “thần khí” (sensus spiritualis) của bản văn: GLCG số 113. Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI, tông huấn hậu thượng hội đồng Verbum Domini số 37-38. 85

232

Thần Học Đức Tin

vì thế ai không tin là tại lỗi của mình? Đâu là yếu tố tất định của đức tin: ân sủng về phía Chúa, hay tự do về phía con người? Chúng ta tạm chấp nhận rằng cả hai vế đều quan trọng, tuy dù không theo phương thức mỗi bên 50 phần trăm, nhưng theo phương thức cả hai 100 phần trăm. Từ tiền đề này, chúng ta có thể rút ra vài hệ luận sau đây. 1/ Đức tin là một ân ban tác động bên trong tâm hồn con người. Tuy vậy, Chúa Giêsu cũng đã truyền cho các môn đệ phải đi rao giảng Tin mừng cho khắp muôn dân để họ tin và được cứu độ (x. Mc 16,15-16). Thánh Phaolô cũng nhìn nhận điều ấy: “Làm sao kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe nếu không có ai rao giảng? Làm sao mà rao giảng, nếu không được sai đi? ... Ay vậy, có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Kitô” (Rm 10,14-17). Như vậy ơn thánh Chúa đòi hỏi sự hợp tác của con người, cách riêng là công cuộc loan báo Tin mừng của Hội thánh. Hội thánh phải tìm hết mọi phương thế để làm chứng tá cho Tin mừng, bằng đời sống thánh thiện, bằng các công tác bác ái, bằng lời cầu nguyện, bằng lời giảng và các phương tiện truyền thông. Các yếu tố này đều cần thiết, được thánh Phaolô ví như công việc của người gieo giống và trồng tưới, nhưng yếu tố làm cho cây nảy mầm và sinh trái là chính ơn Chúa (1Cr 3,67). Vì thế, không có lý do gì để con người tự đắc trước những thành quả của việc truyền giáo (x. Rm 3,27-31). 2/ Ánh sáng đức tin cần thiết để tin, nhưng không cất hết những trở ngại, bởi vì chúng ta còn trên đường lữ hành chứ chưa đạt tới đích. “Ánh sáng đức tin” (lumen fidei) chưa phải là “ánh sáng vinh quang” (lumen gloriae). Qua các nhân đức tin-cậymến, chúng ta mới chỉ thấy lờ mờ như trong tấm gương (x. 1Cr 13,12), chứ chưa được giáp mặt Chúa diện đối diện. Chính vì những góc cạnh lờ mờ ấy mà đức tin chúng ta còn phải gặp

Bản chất đức tin

233

những thử thách; nói khác đi, đức tin vẫn là một “thách đố”. Ánh sáng đức tin không miễn chuẩn chúng ta khỏi những nỗ lực tìm hiểu, đắn đo, ra như lần mò trong đêm tối. Nhưng chính đây lại là công trạng của chúng ta, khi chúng ta sử dụng tự do để suy phục Thiên Chúa, chứ không dựa theo phán đoán thiển cận của mình. 3/ Địa vị ưu việt của ân sủng trong tiến trình đức tin được Giáo Hội tuyên xưng đặc biệt khi ban bí tích rửa tội cho các ấu nhi. Thật vậy, thường bí tích rửa tội chỉ được ban cho những kẻ đã hiểu biết và chấp nhận đạo lý Kitô giáo. Nhưng trong trường hợp rửa tội cho các ấu nhi, Giáo hội muốn chứng tỏ rằng ơn thánh được ban cách vô điều kiện, ngay cả trước khi con người có khả năng tuyên xưng đức tin. Đức tin là một ơn ban, trước khi là một đáp trả. D. Đức tin và tín ngưỡng Như trên đã nói, chúng ta phân biệt “đức tin” và “tín ngưỡng”. Tín ngưỡng được coi như là một tâm tình tự nhiên được ghi khắc trong tâm khảm mọi người, thúc đẩy họ vươn đến Thực tại siêu việt tuyệt đối. Đức tin là một ơn ban để chúng ta chấp nhận gắn bỏ với Thiên Chúa mạc khải nơi Đức Giêsu Kitô. Đức tin là một ân huệ của Thánh Linh. Trong những năm sau công đồng Vaticanô II, có những luồng thần học muốn đánh giá các tín ngưỡng và tôn giáo ngoài Kitô giáo. Họ lập luận rằng tín ngưỡng và tôn giáo cũng là tác động của Thánh Linh, và là một “đạo” mà Thiên Chúa đã thiết lập để cứu độ những ai không được nghe giảng Tin mừng Đức Kitô. Phải nhận rằng chủ trương này có lý khi mở rộng tầm hoạt động của Thánh Linh trong thế giới. Trong thông điệp Redemptoris missio, đức thánh cha Gioan Phaolô II nhìn nhận rằng Thánh Linh đã hiện diện và tác động trong thế giới này ngay

234

Thần Học Đức Tin

từ lúc tạo dựng. Thánh Linh hiện diện trong các nền văn hóa, trong các tôn giáo của nhân loại (số 28). Nhờ vậy, tác giả thư gửi Hípri (chương 11) đã nhận thấy những mẫu gương đức tin nơi các tổ phụ và người công chính, như ông Abel, Enoc, Nôê, tuy dù họ chưa biết Đức Kitô. Tuy nhiên, ta không được phép tách rời Thánh Linh ra khỏi Đức Kitô, đến nỗi ra như Thiên Chúa đã ấn định hai đường cứu độ biệt lập: một bên là “đạo” của Thánh Linh, một bên là “đạo” của Đức Kitô. Không phải như vậy: Thánh linh là “thần khí của sự thật” (Ga 14, 16-17; 15,25; 16,1314), Ngài đưa các môn đệ đến sự thật trọn vẹn, và sự thật là Đức Kitô (Ga 14,6). Thánh Linh giúp cho các môn đệ nhớ lại và hiểu rõ hơn lời của Đức Kitô. Nếu ta có quyền khẳng định tác động của Thánh Linh ngay từ khởi nguyên lịch sử nhân loại, thì cũng phải khẳng định tác động của Đức Kitô, Lời của Thiên Chúa ngay từ lúc tạo dựng (Ga 1,3-4;10). Trong nhiệm cục hiện tại, Thánh Linh được ban cho nhân loại như là hoa trái của cuộc Vượt qua của Đức Kitô.86 Điều này đưa ta đến mục thứ hai, bàn về vai trò của Đức Kitô trong tiến trình đức tin. Mục II VỚI ĐỨC KITÔ Nhiều tôn giáo tin vào một Thiên Chúa duy nhất, chẳng hạn đạo Do thái, đạo Islam. Kitô giáo khác những đạo ấy ở chỗ tin rằng Thiên Chúa duy nhất đã tự mạc khải nơi Đức Giêsu Kitô. Ở đây chúng ta sẽ không nói đến Đức Kitô như là đối tượng của đức tin, (được tuyên xưng trong phần thứ hai của kinh Tin kính), nhưng như là tác nhân của đức tin. Thật vậy, khi đọc các bản văn Xc. Bộ Giáo lý Đức tin, Tuyên ngôn “Dominus Iesus” (ngày 6/8/2000), số 12. 86

Bản chất đức tin

235

Tân ước, đặc biệt các tác phẩm của thánh Phaolô và thánh Gioan, chúng ta nhận thấy rằng Đức Kitô không phải là một “mệnh đề” mà ta phải chấp nhận, nhưng là một “nhân vật” muốn tạo mối liên lạc với ta. Người mời gọi ta hãy đón nhận Người vào cuộc đời ta, chia sẻ cuộc sống với Người, uốn nắn đời ta hòa hợp với Người, trở nên thành phần của thân thể Người. Việc tháp nhập vào thân thể Đức Kitô diễn ra trong Hội thánh là thân thể của Người. Đức Kitô là đầu của Hội thánh: không thể nào tách rời Đức Kitô ra khỏi Hội thánh; tuy nhiên, không thể đồng hóa Hội thánh với Đức Kitô. Để có ý tưởng chính xác về tương quan giữa Đức Kitô với Hội thánh, cần bổ túc hình ảnh của Đức Kitô là Đầu với hình ảnh Đức Kitô là Lang quân: Hội thánh tuy hợp nhất với Đức Kitô nhưng cũng khác biệt, thậm chí đến nỗi có thể phản bội hôn phu của mình, vì thế cần phải cải hoán không ngừng. Đó là lý do mà chúng ta phân chia mục này thành hai đoạn: trước hết, chúng ta xét đến đức tin như một tương quan với Đức Kitô (tin là đón nhận Đức Kitô) nhằm nêu bật vài đặc tính cá biệt với Người; trong đoạn hai, chúng ta bàn đến chiều kích Hội thánh của đức tin, nghĩa là xét đức tin như tương quan với Đức Kitô là Đầu Hội thánh. I. Christus solus Trên đây chúng ta đã nói đến vai trò của Thánh Linh trong tiến trình đức tin. Thánh Linh giúp cho con người tin, nghĩa là đón nhận lời Chúa. Việc đón nhận này được thánh Phaolô diễn tả như là “vâng phục Tin mừng” (Rm 1,5; 16, 26). Thật ra, đối với các tín hữu, “Lời Chúa” hay “Tin mừng” không phải là tuyên ngôn, sứ điệp, nhưng là một nhân vật: Đức Giêsu Kitô. Vì thế chấp nhận Tin mừng có nghĩa là thiết lập một tương quan với Đức Kitô. Mối tương quan sống động được thánh Phaolô diễn tả như sau: “Tôi sống, nhưng không còn là tôi sống nữa, nhưng Đức Kitô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong

236

Thần Học Đức Tin

niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2,20). Tác giả thư gửi Hípri thì trình bày Đức Kitô như là “Đấng khai mở và kiện toàn đức tin” (Hr 12,2). Đối với thánh Gioan, Đức Kitô là Đường, Chân lý, Sự sống (Ga 14,6) . Đức Kitô là Lời Thiên Chúa, thông đạt cho chúng ta chân lý về Thiên Chúa. Hiểu như vậy, đối với chúng ta, tin là chấp nhận Chân lý sống động. Thiên Chúa Cha đã trao ban mình cho chúng ta qua Đức Kitô là Lời và Con yêu dấu của Ngài. Trong Thánh Linh, Thiên Chúa mời gọi chúng ta đáp lại tình yêu ấy. Trong mục trên đây, chúng ta phân tích đức tin nhìn dưới khía cạnh ân ban của Thiên Chúa. Bây giờ trong mục này, chúng ta phân tích đức tin nhìn dưới khía cạnh đáp trả về phía con người, được giải thích nơi các tác phẩm của thánh Tôma Aquinô và hai công đồng Vaticanô I và Vaticanô II, và được sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo tóm lại ở các số 154-156: “đức tin là một hành vi nhân linh, bao hàm lý trí và tự do”. Chúng ta hãy bắt đầu bằng việc đọc lại đoạn văn súc tích của Vaticanô II ở hiến chế về Mạc khải, số 5. Phải bày tỏ sự vâng phục bằng đức tin đối với Thiên Chúa mạc khải (Rm 1,5; 2Cr 10,5-6). Nhờ sự vâng phục đó, con người phó thác toàn thân cho Thiên Chúa một cách tự do “dâng lên Thiên Chúa mạc khải sự suy phục hoàn toàn của lý trí và ý chí” (Vaticanô I), đồng thời sẵn lòng chấp nhận mạc khải mà Ngài ban cho

Công đồng đã cô đọng giáo huấn của Hội thánh về đức tin, để trả lời cho nhiều thách đố trong các thế kỷ gần đây, liên quan đến đức tin: - Có nơi đề cao tính siêu việt của đức tin đến nỗi coi nhẹ sự đóng góp của lý trí, điển hình qua những câu nói: “nhắm mắt tin

Bản chất đức tin

237

theo”, “tin cho dù phi lý” (credo quia absurdum). - Một cách tương tự, có nơi nhấn mạnh đến khía cạnh tâm tình, cảm nghiệm của đức tin: tin là tín thác, tín nhiệm; nhưng coi nhẹ khía cạnh đạo lý của mạc khải. - Đối lại, có người cho rằng đức tin phản khoa học bởi vì chấp nhận những chân lý không thể kiểm chứng hay chứng minh. Chúng ta cũng biết rằng về phía thần học Công giáo, để phản ứng những luận đề một chiều của đối phương, người ta cũng dễ rơi vào lập trường một chiều đối nghịch, chẳng hạn để phản ứng lại chủ trương của phái Tin lành đề cao khía cạnh tín thác và giảm nhẹ đạo lý, thần học Công giáo đề cao việc chấp nhận đạo lý mà bỏ qua chiều kích tín thác. Công đồng Vaticanô II đã cố gắng kết hợp tất cả những khía cạnh đa dạng của đức tin. Chúng ta hãy lần lượt phân tích hành vi đức tin nhìn từ những hai quan năng cao quý nhất của con người là lý trí và ý chí. A. Đức tin và lý trí Kinh thánh và các giáo phụ nói nhiều đến đức tin như một sự hiểu biết. Con người ham thích hiểu biết, nhất là hiểu biết về chân lý liên quan đến nguồn gốc và cứu cánh cuộc đời. Đành rằng trong Kinh thánh, “biết” không chỉ là một tri thức thuần lý mà còn là một cảm nghiệm, nhưng “biết” cũng là một tri thức, một sự hiểu biết chân lý. 1/ Tin là một con đường khám phá chân lý Con người khám phá chân lý nhờ tác động của lý trí; tuy nhiên lý trí không phải là con đường duy nhất. Thật vậy, để khám phá chân lý, người ta sử dụng nhiều phương tiện khác nhau, có lúc dựa trên suy tư cá nhân, có khi dựa theo sự mách bảo của người khác. Trong những câu chuyện thường thức hàng ngày, chúng ta chấp nhận những điều được ông láng giềng kể lại, vì ta tin rằng

238

Thần Học Đức Tin

ông ta thành thực (tuy rằng không thiếu những trường hợp ông ta mắc tật ba hoa). Có những chuyện quan trọng hơn (chẳng hạn: về sức khỏe, pháp luật, kinh tế), chúng ta đi hỏi các nhà chuyên môn vì chúng ta tin tưởng vào sự hiểu biết của họ (tuy rằng cần đề phòng những ông bác sĩ giả, luật sư giả, chuyên viên giả). Cách riêng, các nhà khoa học thực nghiệm đòi hỏi phải kiểm chứng các lời khẳng định bằng những lý luận chắc chắn, mạch lạc, hoặc bằng những thí nghiệm. Nói tóm lại, có hai nguồn chính yếu để chúng ta khám phá chân lý: a) hoặc bằng những suy luận, chứng minh, kiểm chứng các kết luận; b) hoặc bằng cách dựa trên uy tín của những nhà chuyên môn. Nguồn thứ hai được gọi là “tin”. Trên thực tế, đa số các kiến thức của chúng ta đến từ nguồn này. Khi còn nhỏ, chúng ta chấp nhận lời dạy của cha mẹ và thầy cô. Chúng ta tin tưởng rằng họ hiểu biết hơn ta, họ yêu ta và muốn truyền thụ kinh nghiệm để giúp ta trưởng thành. Kể cả khi chúng ta đã khôn lớn, đã có khả năng tìm tòi, thì “tin” vẫn là nguồn cung cấp kiến thức cho ta. Thật vậy, dù một người trở thành chuyên gia về một ngành nào đó (thí dụ trong ngành vật lý), nhưng ông đâu có đâu có thể là chuyên gia trong các ngành khác (thí dụ: thiên văn, kinh tế, y khoa, lịch sử); ông đành chấp nhận những kết luận của công cuộc nghiên cứu của những chuyên gia trong các lãnh vực ấy. Điều mà ông đòi hỏi là những công cuộc nghiên cứu ấy được tiến hành nghiêm túc, theo đúng phương pháp khoa học. 2/ Lý trí đứng trước những chân lý đức tin Nếu trong lãnh vực kiến thức khoa học, “tin” giữ một chỗ đứng quan trọng trong việc thủ đắc kiến thức, thì trong những lãnh vực vượt quá thế giới khả nghiệm, “tin” lại càng cần thiết hơn nữa. Thật vậy, liên quan đến những thực tại thuộc thế giới thần linh hoặc thế giới mai hậu, khả năng hiểu biết của chúng ta bị hạn chế: chúng ta hoàn toàn mù thịt về những thực tại ấy.

Bản chất đức tin

239

Đến đây ta thấy ý nghĩa của việc Thiên Chúa mạc khải. Thiên Chúa muốn thông tri cho chúng ta về hạnh phúc tương lai: con người được mời gọi chia sẻ đời sống thần linh với Ngài. Liệu chúng ta có thể chấp nhận điều ấy không? Có thể trả lời như thế này. Chưa ai được thấy tận mắt cuộc sống thần linh ấy; nhưng chúng ta có thể chấp nhận điều Chúa mạc khải, bởi vì chúng ta tin rằng Thiên Chúa là chân lý, ngài không sai lầm và không muốn lường gạt ta. Nói cách khác, thông thường chúng ta chấp nhận một chân lý sau khi đã kiểm nghiệm các chứng cớ lập luận (chẳng hạn như: 2 với 2 là 4). Tuy vậy chúng ta cũng có thể chấp nhận những chân lý không do chứng cớ hiển nhiên, nhưng do uy tín của người làm chứng: người ấy am tường điều họ khẳng định và họ thành thực. Điều này xảy ra đối với các chân lý mà Chúa mạc khải. Chúng vượt qua tầm hiểu biết của chúng ta, nhưng chúng ta chấp nhận bởi vì chúng ta tin rằng Chúa thông biết mọi sự, Ngài không lầm lẫn và cũng không chủ ý lường gạt ta. 3/ Những lý do để tin Chúng ta tin vào lời Chúa dựa trên uy tín của Chúa: điều này dễ hiểu và cũng dễ chấp thuận. Khổ nỗi là Chúa đâu có hiện ra để nói với chúng ta. Chúng ta chỉ biết được lời Chúa qua các trung gian. Làm sao biết được các trung gian ấy nói lời Chúa, chứ không phải lời của họ? Vấn nạn đã được đặt ra từ trong Cựu ước rồi. Khi ông Môsê được Chúa ủy thác chuyển lệnh truyền cho vua Pharaô phải để cho dân Israel lên sa mạc, ông xin Chúa một dấu chỉ, ngõ hầu dân Israel cũng như vua Ai cập tin vào sứ mạng của mình (Xh 3,11.13; 4,1). Đến khi ông Môsê qua đời, dân Israel cũng đến chất vấn: “sau khi ông ra đi, làm sao biết được ngôn sứ giả hiệu và ngôn sứ chính danh?” (Đnl 18,21). Đây là một yêu sách hợp lý. Những người đương thời với Đức Giêsu

240

Thần Học Đức Tin

cũng nêu vấn nạn: “Ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì đây?” (Ga 6,30). Theo công đồng Vaticanô I, có những dấu chỉ để kiểm chứng sự kiện Thiên Chúa mạc khải, đó là lời tiên tri và các phép lạ.87 Thần học đặt tên là “những lý do khả tín” (motiva credibilitatis): chúng nằm bên ngoài nội dung đức tin, nhưng giúp cho đức tin được dựa trên một nền tảng hợp lý: tin có lý do, chứ không tin vu vơ. Có những chứng cớ để xác nhận các ngôn sứ và Đức Giêsu đã được Thiên Chúa sai đến. Thực ra, các tác giả liệt kê nhiều loại dấu hiệu khả tín: a) những dấu hiệu khách quan lịch sử (lời tiên tri, phép lạ); b) những dấu chỉ nội tại (cảm nghiệm tâm linh, sự cảm phục về đạo lý cao siêu, về gương mẫu nhân đức). Khoa tâm lý học tôn giáo đã dành nhiều cuộc nghiên cứu về những động lực đưa đến đức tin, mà chúng ta sẽ trở lại trong chương tới. Thực ra, có lẽ vấn đề “những lý do để tin” được công đồng Vaticanô I bàn đến nhằm bảo vệ tính cách khách quan của mạc khải, để chống lại thuyết duy tín (fideismus), chứ trên thực tế, khó nói được bao nhiêu người đã được dẫn đến đức tin bằng những con đường ấy. Dù sao, công đồng Vaticanô I vẫn còn nhắc nhở chúng ta đừng đồng hóa đức tin với cảm xúc. Cảm xúc có thể mù quáng, còn đức tin dựa trên nền tảng khách quan. 4/ Tin và hiểu Tóm lại, tin không phải là một hành vi phi lý. Chân lý mạc khải vượt quá tầm hiểu biết của lý trí, nhưng không phải là nghịch lý. Vì thế, tin không đồng nghĩa với cuồng tín, mê tín: người tín hữu phải kiểm chứng xem nguồn gốc của các tín điều,

Constitutio Dei Filius, cap.I (DzSch 3009), được sách GLCG trưng dẫn ở số 156. 87

Bản chất đức tin

241

xem có thực là do Chúa mạc khải hay không. Đàng khác, một khi biết rằng chân lý đức tin không trái ngược với lý trí, thì người tín hữu có quyền và có nghĩa vụ dùng lý trí để tìm hiểu đạo lý. Đây là vai trò của thần học, với chức năng được mô tả như là fides quaerens intellectum (đức tin đi tìm cách hiểu biết). Lý trí hỗ trợ cho đức tin bằng nhiều cách: - Trước khi chấp nhận đức tin: lý trí tìm cách kiểm chứng các nguồn gốc của mạc khải, để tránh “tin đồn tin nhảm”. - Sau khi chấp nhận đức tin: lý trí tìm cách hiểu biết nội dung, ý nghĩa của chân lý mạc khải, cũng như tìm ra những ví dụ so sánh từ kinh nghiệm hàng ngày. Chẳng hạn như đối với mầu nhiệm Thiên Chúa Ba ngôi, các giáo phụ ở các thế kỷ đầu tiên áp dụng vài thí dụ lấy từ đời sống thực vật cho thấy “ba trong một”: cây (rễ, thân, trái), nước (mạch, suối, nguồn), hoa (cành hoa, bông hoa, hương thơm); thánh Augustinô thì so sánh với các sinh hoạt tâm lý nơi con người (hiểu biết: Lời; yêu mến: Thánh Linh là tình yêu).88 Đức tin không làm cho lý trí bị tê liệt; trái lại, đức tin nâng cao và kích thích hoạt động của lý trí, như đức thánh cha Gioan Phaolô II đã trình bày trong thông điệp Fides et ratio. Cuộc tìm hiểu này kéo dài suốt đời: lý trí muốn hiểu biết nội dung của đạo lý mạc khải. Thánh Linh sẽ đến hỗ trợ sự cố gắng này nhờ ơn “thâm hiểu”, nhưng trí tuệ con người vẫn còn thấm thỏm muốn “biết” thêm và muốn “thấy”: khát vọng này chỉ được mãn nguyện khi màn đức tin được vén lên, mà con người được chiêm ngưỡng Chúa, diện đối diện. Thực ra, trên hành trình đức tin, con người có lẽ ít gặp khó khăn vì không hiểu nội dung chân Những thí dụ khác của việc áp dụng ngôn ngữ triết học để diễn đạt mầu nhiệm Thiên Chúa Ba ngôi được sách GLCG trưng dẫn ở các số 250-252. 88

242

Thần Học Đức Tin

lý, cho bằng không hiểu được “đường lối của Thiên Chúa”. Những câu hỏi “tại sao?” thường nổi lên khi người tín hữu gặp những cơn thử thách trái với dự tính của mình: Tại sao Chúa nhân lành lại để cho sự dữ xảy đến trong thế giới? Tại sao những người trung thành với luật Chúa lại bị bách hại? Tại sao còn có những bất công trên đời? .... Có lẽ những câu hỏi ấy sẽ không được giải đáp thỏa đáng; nhưng những thắc mắc không thể làm lay chuyển đức tin, như câu nói của hồng y John Henri Newman được sách GLCG trưng dẫn ở số 157: “Mười ngàn nỗi khó khăn không làm thành một sự hồ nghi”.89 Sự chắc chắn của đức tin dựa trên sự hiểu biết của Thiên Chúa, chứ không dựa trên lý luận của trí óc con người B. Đức tin và ý chí Chúng ta có thể bàn về vai trò của ý chí đối với đức tin qua hai đặc điểm sau: 1) đức tin như là hành vi tự do; 2) đức tin như là hành vi yêu mến. 1/ Hành vi tự do Sự tự do có thể được phân tích dưới hai khía cạnh: tự do ngoại tại và tự do nội tại. a) Tự do “ngoại tại” (hay tự do “thể lý”) có nghĩa là đức tin là phải được chấp nhận cách tự nguyện chứ không thể bị cưỡng bách, bó buộc. Đây là chủ trương ngàn đời của Hội thánh, mặc dù trong dòng lịch sử đã có nhiều khi đã không được tuân thủ. Công đồng Vaticanô II đã dành một văn kiện để bàn về vấn đề này, đó là tuyên ngôn Dignitatis humanae, với lời tuyên bố mở đầu ở số 2 như sau: “Con người có quyền tự do tín ngưỡng.

“Ten thousand difficulties do not make one doubt”, Apologia pro vita sua, c.5. 89

Bản chất đức tin

243

Sự tự do này hệ ở chỗ tất cả mọi người được hưởng tự do không bị cưỡng chế từ cá nhân, đoàn thể xã hội hay bất cứ quyền bính nhân loại nào khác, để trong lãnh vực tôn giáo, không ai bị ép buộc hành động trái với lương tâm mình, cũng như không bị ngăn cản hành động theo lương tâm, dù hành động đó là của riêng tư hay công khai, làm một mình hoặc chung với những người khác, được thực hiện trong những giới hạn chính đáng”. (Lời khẳng định này được GLCG trích lại ở số 2106). Quyền tự do tín ngưỡng đặt nền trên chính phẩm giá con người, theo như Lời Chúa mạc khải và chính lý trí cho biết. Và ở số 10, đi vào trường hợp cụ thể của đức tin, công đồng nói: Điểm chính yếu của đạo lý Công giáo, được chứa đựng trong Lời Chúa và từng được các giáo phụ giảng dạy, là con người phải đáp lại ơn gọi đức tin vào Thiên Chúa cách tự nguyện. Do đó, không được cưỡng bách bất cứ ai phải chấp nhận đức tin trái với ý muốn. Thật vậy, tự bản chất, hành vi đức tin là một hành vi tự ý, vì khi đã được cứu chuộc nhờ Chúa Kitô, Đấng Cứu thế, và được mời gọi trở nên dưỡng tử nhờ Đức Giêsu Kitô, con người chỉ có thể gắn bó với Thiên Chúa, Đấng tự mạc khải, khi được Chúa Cha lôi kéo, và khi tin phục Thiên Chúa với tất cả lý trí và tự do. Vì thế trong lãnh vực tôn giáo, việc loại trừ mọi hình thức áp chế đối với con người là điều hoàn toàn phù hợp với đức tin”.90 Để hiểu rõ tư tưởng của công đồng, chúng ta cần phân biệt hai khía cạnh của tự do: ngoại tại và nội tại. Tự do ngoại tại được hiểu là không bị cưỡng bách bởi một quyền lực bên ngoài, dù sự cưỡng bách đó là vật lý (vũ lực) hoặc tâm lý (dọa nạt). Đây là một yêu sách của phẩm giá con người: khác với con vật, con Ý tưởng này còn được công đồng lặp lại trong Sắc lệnh về Truyền giáo Ad gentes (số 13). 90

244

Thần Học Đức Tin

người có khả năng hành động sau khi đã suy nghĩ và quyết định. Cách riêng, đối với việc chấp nhận một chân lý, phẩm giá con người đòi hỏi rằng giữa con người với nhau, chúng ta chỉ có thể thuyết phục bằng lý lẽ, chứ không có quyền áp đặt bằng vũ lực trên những người khác. Tuy nhiên, đây mới chỉ là tự do “ngoại tại”, nghĩa là được thong dong khỏi mọi áp lực bên ngoài; hay nói cách khác, không bị người khác cưỡng bách. Ngoài tự do “ngoại tại”, còn có tự do “nội tại” nữa.91 b) Tự do “nội tại” (hay tự do “tâm lý”) Chúng ta có thể hiểu tự do nội tại theo hai nghĩa: một là tự do khỏi những đam mê cảm xúc, khiến ta không thể hành động theo ý muốn (chẳng hạn như một anh nghiện rượu thì không thể cưỡng lại hấp lực của chai rượu nằm trước mặt); hai là tự do trong việc truy tầm chân lý. Đây là thứ tự do mà chúng ta muốn nói đến. Con người có khuynh hướng tự nhiên là tìm Chân, Thiện, Mỹ. Khi đã tìm được chân lý rồi, lý trí con người buộc phải tuân theo chân lý. Điều này không trái với phẩm giá con người; ngược lại, giá trị của con người ở chỗ hành động hợp với lý trí. Thật vậy, ai làm ngược với lý trí là điên rồ ngu xuẩn, chứ không phải là tự do. Một thí dụ: đứng trước một chân lý toán học “2+2=4”, tôi phải chấp nhận nó, chứ không thể viện dẫn bản tính tự do để chủ trương khác đi! Bao lâu tôi chưa nhận ra được chân lý, tôi vẫn

Công đồng Vaticanô II đã mô tả tự do như là một phẩm giá con người như sau: “Thiên Chúa đã muốn để con người tự định liệu, tự quyết định đi tìm Đấng Tạo hóa và nhờ kết hợp với Ngài cách tự do, con người tiến tới sự hoàn thiện trọn vẹn và hạnh phúc. Vì thế, phẩm giá của con người đòi họ phải hành động theo sự chọn lựa ý thức và tự do, nghĩa là chính con người được thúc đẩy và được hướng dẫn từ bên trong, chứ không do bản năng mù quáng hay hoàn toàn do cưỡng bức bên ngoài” (Hiến chế Vui mừng và Hy vọng số 17). 91

Bản chất đức tin

245

phải mò mẫm tìm tòi, giữa nhiều ý kiến và giả thuyết khác nhau; nhưng đến khi đã tìm thấy chân lý chắc chắn thì tôi buộc phải theo. Đối với các chân lý đức tin, lý trí ở trong một trạng thái nan giải. Các chân lý đức tin tự nó không hiển minh, chẳng hạn như Chúa Giêsu hiện diện trong bí tích Thánh Thể. Tôi không thể nào sử dụng các phương tiện khoa học để kiểm chứng điều này. Tôi chấp nhận điều này vì dựa trên lời dạy của Chúa thôi. Vì vậy, ta thấy có một sự giằng co nội tại. Một đàng, lý trí không chịu khuất phục bởi chân lý đức tin vì không thấy chứng cớ hiển minh. Đàng khác, ý chí chấp nhận bởi vì dựa trên uy tín của Lời Chúa. Nhưng đây chính là công trạng của người có đức tin: chấp nhận chân lý không do sự hiển minh của nó, nhưng dựa trên uy tín từ bên ngoài. 2/ Hành vi yêu mến Nói đến ý chí, chúng ta dễ hình dung một quyết định độc đoán, không đếm xỉa chi đến lý lẽ. Đôi khi chúng ta cũng nghĩ như vậy về Thiên Chúa, chẳng hạn khi nói rằng: “xin vâng theo ý Chúa” là chúng ta muốn nói: Thưa Chúa, con đành thuận theo quyết định của Chúa, chứ lòng con chẳng phục đâu! Tuy nhiên, chúng ta hãy nghĩ đến một mô hình khác của ý chí, đó là khả năng yêu mến. Chúng ta nghiệm ra rằng một khi đã yêu ai thì chúng ta sẵn sàng làm bất cứ điều gì để làm đẹp lòng người yêu. Dĩ nhiên là có những tình yêu mù quáng, và do đó các hành động kèm theo cũng mù quáng điên rồ. Tuy vậy cũng có tình yêu sáng suốt: ta biết rằng người yêu không lợi dụng ta, trái lại còn muốn thành tâm giúp đỡ ta. Nhận ra được điều ấy, tại sao không đi theo tiếng gọi tình yêu? Đây chính là vai trò của ý chí trong đức tin. Ta đừng nên quan niệm rằng ý chí ép lý trí chấp nhận chân lý vì dựa trên uy tín của

246

Thần Học Đức Tin

Thiên Chúa; nhưng hãy nhìn như là tình yêu thúc giục lý trí hãy chấp nhận chân lý bởi vì đó là tiếng nói của người yêu. Tin là phó thác và tin tưởng vào Đấng chỉ mong muốn sự tốt lành cho chúng ta. Đó là ý nghĩa của những từ “suy phục, phó thác, chấp nhận” gặp thấy ở số 5 của hiến chế Dei Verbum. Vả lại, trong tiến trình này, con người được trợ giúp nhờ ơn thánh được ví như “ánh sáng” và “sự dịu ngọt” (Hiến chế Dei verbum số 5). Mặt khác, chính tại nơi đây mà con người phải chịu trách nhiệm về quyết định: tin hay không tin. Con người có thể khước từ không tin vào Thiên Chúa. Vì lý do gì? Có lẽ không chỉ nguyên vì lý trí không nhận thấy chân lý hiển minh, nhưng còn vì nhiều khó khăn khác. Đâu dễ gì chấp nhận tha thứ cho kẻ thù, đang khi bản năng của chúng ta xúi giục ngược lại? Chúng ta sẽ trở lại đề tài này trong chương tới, khi bàn về tâm lý của việc tin cũng như tâm lý của việc không tin. Đó là chưa kể nguy cơ đời sống không phù hợp với đức tin mà ta chấp nhận trên lý thuyết: tin một đàng, sống một nẻo. II. Christus caput Ecclesiae Chúng ta đã tìm hiểu đức tin như là một hành vi nhân linh: “Bằng đức tin, con người đem trí khôn và ý chí của mình quy phục Thiên Chúa cách trọn vẹn. Con người đặt trọn bản thân quy thuận Thiên Chúa” (Hiến chế Dei verbum số 5). Trong chế độ cứu độ hiện tại, việc tin nhận Thiên Chúa được diễn tả qua việc chấp nhận Đức Kitô là Lời mạc khải Thiên Chúa. Chúng ta hãy tiến thêm bước nữa. Ngày nay, chúng ta biết được Lời Đức Kitô qua lời giảng của Hội thánh. Việc gắn bó với Đức Kitô diễn ra qua việc gia nhập Hội thánh là hiền thê và thân thể của Đức Kitô. Dĩ nhiên, cần phải phân biệt hai cấp độ khác nhau: đức tin nhằm đến Đức Kitô, uốn nắn đời mình theo giáo huấn của Người; Hội thánh chỉ giữ vai trò môi giới, giống như

Bản chất đức tin

247

mũi tên vạch đường đến Đức Kitô mà thôi. Vai trò của Hội thánh đối với đức tin có thể tóm lại trong hai mệnh đề sau đây: 1/ Hội thánh thông truyền đức tin. 2/ Hội thánh tuyên xưng đức tin (xc. GLCG số 166-175: “Chúng tôi tin”). A. Hội thánh thông truyền đức tin Khi người dự tòng đến cửa nhà thờ xin lãnh phép rửa tội, vị chủ sự hỏi: “Con xin gì cùng Hội thánh?”, người dự tòng thưa: “đức tin”. Chúng ta biết rằng “đức tin” là một hồng ân mà Thánh Linh ban cho con người, chứ không do Hội thánh ban. Vì thế khi xin Hội thánh ban “đức tin”, người dự tòng muốn nói đến “đạo lý đức tin” hơn là “nhân đức tin”, hoặc nói theo ngôn ngữ kinh viện, Hội thánh trao “đức tin khách thể” (fides quae creditur) hơn là “đức tin chủ thể” (fides qua creditur). Trên thực tế, trước khi lãnh bí tích, người dự tòng tuyên xưng đức tin của Hội thánh được phát biểu qua kinh Tin kính: “Tôi tin kính Đức Chúa Trời là Cha..., tôi tin kính Đức Chúa Giêsu Kitô..., tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần...” Trong chương Ba, chúng ta đã ôn lại lịch sử tiến triển đạo lý trong Hội thánh, từ những kerygma của thời các tông đồ, sang các tín biểu vào thời các giáo phụ, rồi các tín điều từ thời Trung cổ. Chúng ta đã biết vì những lý do gì mà Hội thánh cần phát biểu niềm tin bằng những “công thức đức tin” hoặc “đạo lý đức tin”. Khi bàn về các “công thức phát biểu đức tin”, thiết tưởng nên lưu ý vài điểm sau đây. 1/ Nội dung đức tin vượt trên các công thức đức tin. Nội dung đức tin là chính mầu nhiệm Thiên Chúa. Mầu nhiệm này vượt qua khả năng diễn tả của ngôn ngữ loài người. Thực ra ngay trong cuộc sống hằng ngày, không phải lúc nào chúng ta cũng

248

Thần Học Đức Tin

tìm được ngôn ngữ thích hợp để diễn tả những thực tại mà chúng ta chứng kiến hoặc những ý nghĩ mà chúng ta cảm nhận. Thánh Tôma Aquinô đã nhắc nhở chúng ta điều đó: “đức tin không dừng lại ở các công thức, nhưng nhắm tới chính thực tại của đức tin (là Thiên Chúa)”,92 và thánh tiến sĩ cũng thú nhận: “Chúng ta biết Thiên Chúa không như thế nào, hơn là biết Ngài như thế nào”,93 và lối tiếp cận thích hợp hơn cả là thinh lặng (theologia apophatica).94 Mặc dù ý thức sự bất toàn của ngôn ngữ, Hội thánh vẫn phải sử dụng nó để diễn tả thực chất của đức tin. Điều này đã xảy ra ngay từ trong Tân ước: Chúa Giêsu đã dùng ngôn ngữ loài người để diễn tả đời sống nội tại của Thiên Chúa; các tác giả sách Tin mừng đã thuật lại lời nói và việc làm của Chúa Giêsu, và tìm cách thích nghi vào đời sống của Hội thánh nguyên thủy. Trải qua dòng lịch sử, Hội thánh đã tìm cách diễn tả đạo lý đức tin bằng những từ ngữ lấy từ văn hóa thời đại, chẳng hạn như tín điều “Đức Giêsu đồng bản tính (consubstantialis) với Chúa Cha” được phát biểu tại công đồng Nixea năm 325. 2/ Hội thánh được bảo đảm sự trợ giúp của Thánh Linh để thông truyền trung thực mạc khải của Thiên Chúa. Đó là ý nghĩa của đạo lý về sự bất khả ngộ của Hội thánh. Khái niệm “bất khả ngộ” (không thể sai lầm: infallibilitas) mang tính cách tiêu cực; vì thế, cần phải phát biểu cách tích cực hơn, đó là sự “bền vững trong chân lý”. Thật ra, duy chỉ có Đức Kitô mới là Chân lý. “Actus credentis non terminatur ad enuntiabile, sed ad rem" (Summa Theologica, II-II, q.1, art.1, ad 2m). 92

“De Deo scire non possumus quid sit, sed quid non sit” (Summa Theologica, I, q.3, prologus). 93

Về ngôn ngữ diễn tả cảm nghiệm huyền bí, xem: Đời sống tâm linh, tập IV, trang 337-350. 94

Bản chất đức tin

249

Người đã ký thác cho Hội thánh sứ mạng rao giảng chân lý, và Người hứa sẽ ban Thánh Linh để trợ giúp Hội thánh chu toàn sứ mạng ấy: Thánh Linh nhắc nhớ cho Hội thánh những lời của Đức Kitô và dẫn Hội thánh đến chân lý trọn vẹn (Ga 14,26; 16,13). Tuy nhiên, khi thi hành sứ mạng giảng dạy, Hội thánh sử dụng nhiều cấp độ khác nhau huấn quyền95. a) Có những chân lý mà Hội thánh khẳng định là do Chúa mạc khải, và buộc các tín hữu phải tin (de fide credenda, fide divina et catholica). b) Có những chân lý mà Hội thánh giảng dạy như là niềm tin chung của cộng đồng Dân Chúa (de fide tenenda), nhưng chưa dám khẳng định trăm phần trăm là do Chúa mạc khải. c) Có những chân lý mà Hội thánh nhận thấy phù hợp với niềm tin và lý trí lành mạnh, và đòi hỏi các tín hữu phải suy phục với lý trí và ý chí theo tinh thần đạo giáo (religiosum intellectus et voluntatis obsequium). Chúng ta có thể lấy một thí dụ trong môn Thánh mẫu học. Huấn quyền chỉ buộc phải tin bốn chân lý sau đây: 1/ Đức Maria trọn đời trinh khiết. 2/ Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. 3/ Đức Maria vô nhiễm nguyên tội. 4/ Đức Maria hồn xác lên trời. Đạo lý về Đức Maria là Mẹ Giáo hội thuộc về cấp thứ hai. Những đạo lý được trình bày trong các bài giảng có thể xếp vào cấp ba. 3/ Khi giải thích các tín điều, cần phải tìm hiểu ý nghĩa của các từ ngữ được sử dụng, dựa theo văn hóa đương thời. Ngoài ra, cũng cần phải quy chiếu về hai nguyên tắc “sự gắn bó giữa các mầu nhiệm” (nexus mysteriorum), và “hệ trật các chân lý”

Bộ giáo luật 1983, điều 750;752, quy chiếu về LG 25; DV 5.10. Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II, Tự sắc Ad tuendam fidem (18/5/1998). 95

250

Thần Học Đức Tin

(hierarchia veritatum); x. GLCG số 90. a) Thuật ngữ “sự gắn bó giữa các mầu nhiệm” của công đồng Vaticanô I nói lên sự liên hệ hữu cơ giữa các chân lý trong toàn bộ mạc khải. Việc tách rời một mầu nhiệm ra khỏi tổng bộ có nguy cơ sẽ rơi vào dị giáo. Chẳng hạn như những tín điều về Đức Maria cần được nối kết với các tín điều về Đức Kitô và về Hội thánh. Hai tín điều về Đức Maria “trinh khiết” và “mẹ” nhằm bảo vệ hai tín điều về Đức Kitô là Thiên Chúa và là người. Đức Kitô chỉ có mẹ nhưng không có cha tự nhiên, bởi vì Người hiện hữu từ muôn thuở, và Cha thật của Người là chính Thiên Chúa. Đối lại, tín điều về Đức Maria là mẹ muốn chứng tỏ rằng Đức Giêsu là người thật, chứ không phải là ảo nhân. b) Thuật ngữ “hệ trật chân lý” do công đồng Vaticanô II đề xuất trong Sắc lệnh về Đại kết (số 11). Các cuộc đối thoại để tái lập sự hợp nhất giữa các Kitô hữu cần được xúc tiến theo phương pháp tiệm tiến: khởi đi từ những điểm cơ bản mà mọi Giáo hội đều đồng nhất (chẳng hạn tín điều Chúa Ba Ngôi, tín biểu Constantinopolis), đến những điểm thứ yếu còn đang tranh luận hoặc có thể diễn tả với một lối trình bày khác. Dù sao, ý tưởng “hệ trật chân lý” cũng có ích bởi vì nó giúp chúng ta định vị các tín điều: không phải tất cả các tín điều đều quan trọng ngang nhau, cũng tương tự như không phải tất cả các bí tích đều quan trọng như nhau cho phần rỗi. Khi phân tích nội dung của kinh Tin kính (Summa Theologica, II-II, q.1, art.8), thánh Tôma Aquinô cũng khám phá ra một hệ trật trong đó. Hai đạo lý nòng cốt là Chúa Ba Ngôi (bởi vì sự sống vĩnh cửu hệ tại tham dự vào đời sống của Chúa Ba Ngôi), và mầu nhiệm Nhập thể (bởi vì nhờ nhân tính của Đức Kitô mà ta được khả năng thông dự vào sự sống vĩnh cửu). Những chân lý khác xoay quanh hai chân lý nền tảng ấy, hoặc thuộc về trật tự tự nhiên (chẳng hạn sự tạo dựng) hoặc thuộc về

Bản chất đức tin

251

trật tự siêu nhiên (chẳng hạn như Hội thánh và các bí tích). Mặt khác, sự phân biệt “hệ trật các chân lý” cũng cho phép Hội thánh tuy vẫn duy trì nội dung đức tin tông truyền, nhưng đồng thời phải tìm những ngôn ngữ mới để diễn tả đạo lý theo tâm thức của mỗi nơi mỗi thời, như đức thánh cha Gioan XXIII đã tuyên bố trong thánh lễ khai mạc công đồng Vaticanô II.96 B. Hội thánh tuyên xưng đức tin 1/ Tuyên xưng một niềm tin duy nhất Khi đọc lại lịch sử thành hình các công thức đức tin trong Hội thánh nguyên thủy, chúng ta thấy rằng các công thức này cần thiết không nguyên chỉ vì Hội thánh cần phải loan báo Tin mừng, nhưng còn vì Hội thánh cần những công thức để cùng nhau tuyên xưng đức tin, cách riêng trong các buổi họp cử hành phụng vụ. Thật vậy, một chức năng của “tín biểu” (biểu thức đức tin: symbolum fidei) là diễn tả sự hợp nhất của cộng đoàn. Ta có thể ví tín biểu như bài quốc ca: khi cùng nhau đọc lên kinh Tin kính, các phần tử cảm thấy mình được liên kết với nhau bởi vì cùng tin, hy vọng, yêu mến cùng một đối tượng: “Đó là đức tin của chúng ta, đó là đức tin của Hội thánh. Chúng ta hãnh diện tuyên xưng đức tin ấy trong Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta” Tín biểu cũng có chức năng phân định. Vào thời cổ, các tín biểu “công đồng” thành hình do những cuộc tranh luận với các dị giáo: các nghị phụ biểu quyết đức tin của Hội thánh (credimus: chúng tôi tin). Ai không ký nhận tín biểu là tự đặt mình khỏi sự thông hiệp của Hội thánh. 2/ Hiệp thông trong niềm tin Điều này đưa chúng ta đến một suy tư khác khi bàn về chiều 96

Được trích dẫn ở số 62 của Hiến chế Vui mừng và Hy vọng.

252

Thần Học Đức Tin

kích Hội thánh của đức tin, đó là sự liên đới hiệp thông trong đức tin. Nếu tách riêng ra từng cá thể, các tín hữu dễ cảm thấy bị lẻ loi và dễ bị chao đảo trước những thử thách. Nhưng khi hợp nhất với nhau, đặc biệt trong các buổi cử hành phụng vụ, chúng ta cảm thấy được sự nâng đỡ của những người đồng đạo, và được vững tin hơn. Thật vậy, cộng đoàn phụng vụ là biểu hiệu của cộng đoàn rộng lớn hơn của toàn thể Hội thánh, bao gồm cả Đức Maria và các thánh trên trời, như lời tuyên xưng trong kinh Tin kính về sự hiệp thông các thánh.97 Điều này càng đúng hơn nữa đối với các em thiếu nhi. Các em chưa đủ khả năng suy xét để quyết định chấp nhận đức tin. Vì thế các em cần được dựa vào đức tin của cộng đoàn tín hữu để học hỏi và sống đức tin. Đó cũng lý do vì sao Hội thánh ban bí tích rửa tội cho các nhi đồng. Trên nguyên tắc, bí tích này được ban cho người trưởng thành sau khi họ đã tuyên xưng đức tin. Tuy nhiên, trong trường hợp các nhi đồng, thì không những cha mẹ (hay người giám hộ) tuyên xưng đức tin thay cho các em, nhưng Hội thánh rửa tội cho các em in fide Ecclesiae: theo thánh Augustinô giải thích, em bé được rửa tội trong đức tin của cộng đoàn các tín hữu; chính Mẹ Hội thánh đã sinh ra tất cả chúng ta trong đức tin.98 3/ Cảm thức đức tin Một biểu hiện khác của sự liên đới trong đức tin là “cảm thức

97

Xc. Sách GLCG số 946-959.

Bộ Giáo lý đức tin, Huấn thị Pastoralis actio (20/10/1980). Thánh Augustinô, Epist. 98, 5: PL 33, 362; cf. Sermo 176, II, 2: PL 38, 950; Thánh Tôma Aquinô, Summa Theologica, IIIa, qu. 69, a. 6, ad 3; cf. qu. 68, a. 9, ad 3 98

Bản chất đức tin

253

đức tin” (sensus fidei). Thực tại này được sách Giáo lý Hội thánh Công giáo diễn tả ở các số 91-92 như sau: Mọi Kitô hữu đều tham dự vào ơn hiểu biết và việc lưu truyền chân lý mạc khải. Họ được xức dầu bằng Chúa Thánh Thần, là Đấng dạy dỗ họ (x. 1Ga 2,20.27) và dẫn họ tới sự thật toàn vẹn (Ga 16,13). “Toàn thể các tín hữu ... không thể sai lầm trong đức tin. Họ biểu lộ phẩm tính ấy nhờ cảm thức siêu nhiên về đức tin của toàn thể dân Chúa, khi từ các giám mục cho đến những giáo dân rốt hết đều đồng ý cách phổ quát về những điều liên quan đến đức tin và phong hóa” (LG 12). Trên đây chúng ta đã nhắc đến đặc ân bất khả ngộ của huấn quyền trong việc giảng dạy các chân lý về đức tin và phong hóa. Chủ thể của đặc ân này là hàng giám mục thừa kế các thánh tông đồ. Ở số 12 của Hiến chế về Hội thánh, công đồng Vaticanô II còn nói một chủ thể rộng hơn nữa của đặc ân bất khả ngộ: đó là toàn thể Dân Chúa. Công đồng đã trưng dẫn hai đoạn văn của thư thứ nhất thánh Gioan tông đồ (1Ga 2,20.27) làm nền tảng cho lời tuyên bố ấy. Dựa vào những đoạn này, ta có thể giải thích “cảm thức đức tin” như là một quan năng mà Thánh Linh ban cho Hội thánh để phân định cái gì phù hợp với đức tin, và cái gì trái nghịch với đức tin. “Cảm thức” này không chỉ giới hạn vào lãnh vực đạo lý nhưng còn bao trùm toàn thể sinh hoạt đức tin, từ phụng vụ đạo đức cho đến cách cư xử. Chúng ta đừng đồng hóa “cảm thức đức tin” với “dư luận”, bởi vì dư luận thì thay đổi theo thời và dựa theo tiêu chuẩn trần tục; duy chỉ những ai sống đức tin thì mới có sự nhạy bén đối với các thực tại thuộc lãnh vực đức tin.99 Tuy vậy, cũng nên ghi nhận rằng trong lịch sử Giáo hội, lắm lần những cuộc cải cách phát xuất từ những tín Sách GLCG nhắc đến “cảm thức đức tin” ở nhiều đoạn: số 91-93; 99; 250; 785; 889; 904. 99

254

Thần Học Đức Tin

hữu đơn sơ chất phác nhưng lại nhạy bén với Tin mừng hơn các người học thức. Điều này được Huấn quyền mặc nhiên công nhận khi đề cập đến “cảm thức đức tin” trong những văn kiện về giáo dân: Công đồng Vaticanô II, Hiến chế về Hội thánh số 35; đức giáo hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn Người tín hữu giáo dân số 14. Trong ngôn ngữ thần học, “cảm thức đức tin” (sensus fidei) đôi khi cũng được gọi là “cảm thức các tín hữu” (sensus fidelium), hoặc “sự đồng thuận của các tín hữu” (consensus fidelium). Những từ ngữ này muốn nói lên sự thông hiệp giữa các tín hữu nhờ đức tin, một đức tin không do mình tạo ra, nhưng được tiếp nhận từ Thánh Linh qua Hội thánh. Sự hiệp thông với Hội thánh giúp các tín hữu được đứng vững trong chân lý. Vì thế các tín hữu cần nuôi dưỡng “cảm thức Hội thánh” (sensus Ecclesiae), nghĩa là nhận thức chính xác về bản tính của Hội thánh, và sống hiệp thông với Hội thánh của mọi nơi mọi thời.100 Kết luận Trong mục này, chúng ta đã lần lượt bàn về hai đề tài: tin như là hành vi nhân linh, tin như là hành vi cộng đoàn. Ta có thể ví với hai mặt của đức tin: thứ nhất, tin như là sự chấp nhận trong lòng, thứ hai, tin như là tuyên xưng ngoài miệng. Thần học còn dùng một cách phát biểu khác: fides qua creditur (khía cạnh chủ thể), fides quae creditur (khía cạnh khách thể). Tuy chúng ta phân tích từng góc cạnh để tìm hiểu, nhưng thực tế, tất cả đều gắn bó chặt chẽ với nhau: tin vừa là hành vi của trí tuệ vừa là hành vi của ý muốn (biết và yêu); tin là suy phục gắn bó, và gắn bó với ai. Trong quá khứ, đôi khi người ta nhấn mạnh một khía

Thuật ngữ này được dùng trong nhiều văn kiện của công đồng Vaticanô II (CD 15; DV 23; AG 19; OT 8). 100

Bản chất đức tin

255

cạnh này mà bỏ qua khía cạnh khác, chẳng hạn như khi chỉ nêu bật thái độ tin tưởng phó thác mà coi nhẹ việc chấp nhận đạo lý, và ngược lại. Người ta cũng có thể chỉ lúng túng về mặt con người, thử hỏi làm sao có thể dung hòa giữa lý trí và chân lý mạc khải, nhưng bỏ qua tác dụng của ơn sủng, và ngược lại. Cần có cái nhìn bao quát tổng hợp. Chúng ta sẽ còn gặp thấy nhiều sự phân biệt khác trong mục tiếp sau đây. Mục III ĐẾN CHÚA CHA Trong mục thứ nhất, “trong Thánh Linh”, chúng ta phân tích đức tin như một hồng ân Chúa ban. Trong mục thứ hai, “nhờ Đức Kitô”, đức tin được nhìn như một hành vi nhân linh, bao gồm trí tuệ và ước muốn. Trong mục thứ ba, đức tin được nhìn như một nhân đức hướng về Chúa (virtus theologalis), nhắm đến Thiên Chúa như là tận điểm. Như đã nói trước đây, một đặc trưng của đức tin Kitô giáo (khác biệt với Do thái giáo và Hồi giáo) là việc tuyên xưng rằng Thiên Chúa đã tự mạc khải nơi Đức Giêsu Kitô, Lời Chúa nhập thể. Thoạt tiên xem ra thánh Phaolô và thánh Gioan đặt Đức Kitô làm trung tâm của đức tin, nhưng nếu đọc kỹ các bản văn, chúng ta thấy rằng Đức Kitô chưa phải là tận điểm của đức tin. Thật vậy, Đức Kitô mạc khải Thiên Chúa cho chúng ta: Người tỏ bày khuôn mặt hiền phụ của Thiên Chúa, cũng như kế hoạch mà Thiên Chúa dành cho loài người. Chỉ cần trưng dẫn vài đoạn văn tiêu biểu thì đủ rõ. Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philípphê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha (Ga 14,9). Những kẻ Cha đã chọn từ giữa thế gian mà ban cho con, con đã cho họ biết danh Cha...Con đã cho họ biết danh Cha, và

256

Thần Học Đức Tin sẽ còn cho họ biết nữa, để tình Cha đã yêu thương con ở trong họ, và con cũng ở trong họ nữa (Ga 17,6.26).

Tư tưởng của Tin mừng nhất lãm cũng trùng hợp với Tin mừng của Gioan về điểm này: “Ngoài Cha ra, không ai biết Con là ai, cũng như không ai biết Cha là ai, ngoài Con ra và những kẻ mà Con mạc khải cho” (Lc 10,22; Mt 11,25-27). Chúng ta cũng có thể nói một cách tương tự về vai trò của Thánh Linh, dựa theo tư tưởng của thánh Phaolô. Thánh Linh biến đổi chúng ta nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô là Con Thiên Chúa, nhờ đó chúng ta đáng trở nên dưỡng tử của Chúa: “Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: Abba, cha ơi” (Gl 4,6; x. Rm 8,14-17). Như vậy Đức Kitô và Thánh Linh đều đưa chúng ta về với Thiên Chúa Cha. Truyền thống thần học đã tạo ra nhiều thuật ngữ chuyên môn để nói đến những hình dạng của mối tương quan giữa đức tin với Thiên Chúa: tin như “hành vi” (fides actualis) và tin như “nhân đức” (fides habitualis); đức tin “hoàn toàn” (fides formata, perfecta) và “bất toàn” (fides informata, imperfecta), đức tin “minh nhiên” (explicita) và “ám tàng” (implicita). Chúng tôi sẽ giải thích ý nghĩa các thuật ngữ ấy khi trình bày ba đề tài sau đây: 1/ Tin là một nhân đức. 2/ Tin là một nhân đức hướng Chúa. 3/ Đức tin cần thiết để được ơn cứu độ. I. Tin như “hành vi” và như “nhân đức” Trong các ngôn ngữ châu Âu, danh từ fides (tiếng La tinh, foi tiếng Pháp, faith tiếng Anh) có thể dịch là: lòng tin, niềm tin, đức tin. Trong Tân ước, “tin” được coi như một thái độ của con người đối với Thiên Chúa. Thái độ này có thể mang nhiều hình thức

Bản chất đức tin

257

khác nhau. Dần dần, thần học phân biệt thành hai dạng thức chính, đó là “hành vi” (actus) và “nhân đức” (virtus), chẳng hạn như thánh Tôma Aquinô trong sách Tổng luận thần học101. “Nhân đức” hàm ngụ ý tưởng bền vững, ví như một tập quán; còn “hành vi” (hành động) thì diễn ra từng chặp. Thú thực không dễ gì xác định đoạn văn nào của Tân ước nói đến hành vi và đoạn nào nói đến nhân đức, hoặc có thể bao hàm cả hai. Thực ra, ý tưởng “nhân đức” bắt nguồn từ văn hóa Hy lạp. Ông Platon (Republica IV) đã phân biệt bốn nhân đức căn bản: khôn ngoan, can đảm, tiết độ, công bình. Quan niệm về bốn nhân đức được tác giả sách Khôn ngoan tiếp nhận vào Kinh thánh: “Đấng Cao minh sẽ dạy cho biết sống tiết dộ và khôn ngoan, công bình và can đảm” (Kn 8,7), nhưng không được thông dụng cho lắm. Thánh Ambrosiô (k.330-397) đặt tên cho chúng là bốn nhân đức “trụ” (virtutes cardinales), vì coi như trụ cột cho đời sống luân lý; các nhân đức khác đều xoay quanh bốn nhân đức này. Thánh Grêgoriô Cả (k.330-604) tiến thêm một bước nữa khi nâng các nhân đức lên tới số bảy: bên cạnh bốn nhân đức “tru”, còn thêm ba nhân đức “hướng Chúa” (virtutes theologales) là tin, cậy, mến. Gọi là “hướng Chúa” bởi vì trọng tâm hướng về Thiên Chúa và do Thiên Chúa ban cho chúng ta. Nên biết là thánh Phaolô nói về “tin”, “trông cậy” (hy vọng), “yêu mến” riêng rẽ ở nhiều nơi, chứ ít khi đặt chúng liền kề nhau (x. 1Cr 13,13; 1Tx 1,3; 5,8), và cũng không đặt tên cho chúng là “nhân đức” (trong 14 lá thư, danh từ nhân đức arete chỉ xuất hiện một lần ở Pl 4,8). II. Tin là một nhân đức hướng về Chúa Tin là một nhân đức “hướng về Chúa” không những vì nhắm Trong khảo luận về đức tin, thánh Tôma, sau khi đã bàn về đối tượng (Summa Theologica II-II, q.1), lần lượt bàn về hành vi nội tại và ngoại tại (qq.2-3) và nhân đức (q.4). 101

258

Thần Học Đức Tin

đến Thiên Chúa như là đối tượng mà còn vì do Chúa ban (GLCG số 1812-1813). Chúng ta đã bàn về khía cạnh “ân ban” trong mục Một khi nói đến vai trò của Thánh Linh rồi, bây giờ chúng ta chú ý đến đối tượng của nhân đức. Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo (số 1814) định nghĩa nhân đức tin như sau: Đức tin là nhân đức hướng Chúa, nhờ đó chúng ta tin vào Thiên Chúa và tất cả những gì Ngài đã nói và mạc khải cho chúng ta, và những gì Hội thánh dạy chúng ta tin, bởi vì Thiên Chúa chính là Chân lý. Nhờ đức tin, con người tự nguyện phó thác toàn thân cho Thiên Chúa. Chúng ta có thể phân tích định nghĩa đức tin vừa rồi qua một vài công thức cổ điển của thần học. A. Credere Deum, credere Deo, credere in Deum Thánh Augustinô đã diễn tả chiều kích “hướng Chúa” của đức tin qua một công thức gồm ba vế: credere Deum, credere Deo, credere in Deum (tin Chúa, tin vì Chúa, tin vào Chúa). 1/ Credere Deum (tin Chúa) Vế thứ nhất ám chỉ nội dung của đức tin: tin tất cả những gì Chúa đã mạc khải. Những chân lý này không chỉ liên quan đến bản tính Thiên Chúa mà còn bao gồm những công việc của Chúa (tạo dựng, cứu chuộc, thánh hóa) cũng như những thực tại xảy ra trong lịch sử cứu độ (sự sa ngã, tội lỗi). 2/ Credere Deo (tin vì Chúa) Vế thứ hai muốn nói lên động lực của đức tin: tôi tin bởi vì Chúa đã dạy như thế. Tôi chấp nhận những điều mà Ngài đã dạy bởi vì Ngài là Chân lý, Ngài không thể sai lầm và cũng không lường gạt ai.

Bản chất đức tin

259

3/ Credere in Deum (tin vào Chúa) Vế thứ ba hướng đức tin về tương lai. Một đàng, tôi tin vì Chúa đã dạy; đồng thời, tôi tin vì Chúa đã yêu tôi, Người là hạnh phúc của đời tôi. Nhờ tin mà tôi được kết hiệp với Ngài. Khi so sánh vế thứ ba với vế thứ nhất, chúng ta nên ghi nhận rằng: nội dung đức tin (vế thứ nhất) bao gồm nhiều chân lý khác với Thiên Chúa (chẳng hạn sự tạo dựng, Hội thánh, các bí tích, và thậm chí sự hiện hữu của tội lỗi, sự dữ, ma quỷ); nhưng trong vế thứ ba thì chỉ dành riêng cho Thiên Chúa mà thôi: duy Thiên Chúa mới đáng cho chúng ta đặt niềm tin tưởng tuyệt đối; kể cả Hội thánh cũng chỉ là phương tiện chứ không phải là cứu cánh.102 Dù sao thì ở đây khi nói đến Thiên Chúa, chúng ta không hiểu về một Đấng Thượng đế ngự trên chốn Cửu trùng, như hiểu về Thiên Chúa mạc khải nơi Đức Giêsu Kitô. Chúng ta biết rằng người Do thái vẫn tin vào Thiên Chúa của “Abraham, Isaac, Giacob” nhưng họ không chấp nhận Thiên Chúa mạc khải nơi Đức Giêsu. B. Đức tin được linh hoạt nhờ đức mến Chúng ta phân biệt ba nhân đức “hướng Chúa” (tin, cậy, mến), bởi vì chúng ta có thể nhìn Ngài từ ba góc độ: Chân lý, Hạnh phúc, Tình yêu. Tuy nhiên, Thiên Chúa là một, và ta không thể nào chỉ chọn lựa một khía cạnh và bỏ qua hai khía cạnh kia. Trong lịch sử đã có những hiểu lầm đáng tiếc, như đã xảy ra ngay từ thời các thánh tông đồ. Một lập trường cực đoan đã bám

X. GLCG số 169; 750. Khi chuyển sang tiếng Việt, credere in Deum được dịch là “tin kính” (tôi tin kính Đức Chúa Trời .., tôi tin kính Đức Chúa Giêsu ..., tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần). 102

260

Thần Học Đức Tin

vào câu nói của thánh Phaolô “chỉ duy đức tin mới mang lại ơn công chính hóa”, và coi nhẹ các hành động luân lý (x. Rm 3,28). Thánh Giacôbê đã phản ứng lại và tuyên bố “đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Thực ra thánh Phaolô không hề chủ trương rằng chỉ cần chấp nhận chân lý mặc khải là đủ để được cứu độ. Không, đức tin đưa con người đến chỗ “mặc lấy Đức Kitô”, “đồng hóa với cái chết và phục sinh của Người”. Nói tắt, đức tin cần được linh hoạt nhờ đức ái (fides per caritatem operatur: Gl 5,6). Dựa trên những nhận xét vừa rồi, thần học đã phân biệt giữa đức tin “sống” (fides formata) khi được kết hợp với đức ái; đối lại là đức tin “chết” (fides informis), tình trạng của những người mất ân nghĩa với Thiên Chúa. Theo công đồng Trentô, những người phạm tội trọng vẫn còn đức tin, đừng kể khi họ phạm tội “bất tín” (Denz. Sch. 1578; GLCG số 1815). III. Đức tin và ơn cứu rỗi Đức tin cần thiết để được cứu rỗi. Đạo lý này được ghi lại trong sách Giáo lý Hội thánh Công giáo ở số 161, dựa trên những đoạn văn Tin mừng (xc. Mc 16,16; Ga 3,16-18; 5,24). Tuy nhiên, một câu hỏi đã sớm nảy lên: những người không có đức tin thì sao? Tình trạng này không do lỗi tại họ, nhưng chỉ vì họ chưa được nghe giảng Tin mừng. Các nhà thần học kinh viện đã tìm cách trả lời bằng cách phân biệt tình trạng đức tin “ám tàng” (implicita: tin rằng Thiên Chúa hiện hữu và là đấng thưởng phạt, dựa theo Hr 11,6), và đức tin “minh nhiên” (explicita). Đối với những người chưa được nghe loan báo Tin mừng, thì đức tin ám tàng cũng đủ. Một cách tương tự như vậy, khi nói đến bí tích rửa tội, thần học phân biệt giữa việc lãnh bí tích “thực sự” (in re) và lòng “ước ao” lãnh bí tích (in voto), cũng giống như sự phân biệt giữa rửa tội “bằng nước”

Bản chất đức tin

261

và rửa tội “bằng lửa”. Sang thế kỷ XX, các cuộc tranh luận trở nên sôi nổi hơn, liên quan đến sự cứu rỗi của những người ngoài Kitô giáo. Công đồng Vaticanô II đã đề cập đến vấn đề này ở nhiều văn kiện khác nhau: Hiến chế tín lý về Hội thánh số 16, Sắc lệnh về hoạt động truyền giáo số 7, Hiến chế Vui mừng và Hy vọng số 22, và được sách Giáo lý Hội thánh Công giáo tóm lược đạo lý ở các số 847848 và 1260. Kết luận Để diễn tả vai trò của đức tin trong cuộc sống Kitô hữu, các nhà thần học nói đến “cặp mắt đức tin” hoặc “ánh sáng đức tin”.103 Theo sự giải thích của thánh Tôma Aquinô, ánh sáng đức tin là sự thông dự vào sự hiểu biết của chính Thiên Chúa,104 nhờ đó con người nhận định các thực tại dựa theo cái nhìn của Thiên Chúa, chứ không theo phán đoán tự nhiên (x.1Cr 2,15). Nhờ ánh sáng đức tin, Hội thánh nhận ra những “dấu chỉ thời đại”, nghĩa là tiếng của Chúa qua những biến cố lịch sử (x. Hiến chế Vui mừng và Hy vọng số 11). Mặt khác, thuật ngữ “ánh sáng đức tin” (lumen fidei) gợi lên niềm khao khát cánh chung: người tín hữu ước mong được chiêm ngưỡng chính Thiên Chúa, chứ không chỉ nhìn vạn vật dưới ánh sáng của Chúa. Đức tin mang chiều kích chiêm niệm, khắc khoải được chiêm ngắm Thiên Chúa diện đối diện trong ánh sáng vinh quang (lumen gloriae) (x. GLCG số 163).

103

Xc. Mt 11,25; 16,17; Cv 16,14; 1Cr 1,10; 2Cr 4,4-6; Ep 1,17; 4,17-19; Cl 1,21; 3,9-10. “Sacra doctrina sit velut quaedam impressio divinae scientiae” (Summa Theologica, I, q.1.a.1, ad 2m. “Lumen fidei ... est quasi sigillatio primae veritatis in mente” In librum Boethii de Trinitate, q.3, a.1, ad 4. 104

262

Thần Học Đức Tin

Chương Sáu

NHỮNG THĂNG TRẦM CỦA ĐỨC TIN Như đã nói ở đầu phần thứ Ba, chúng ta có thể phân tích đức tin dưới dạng “tĩnh” hay dưới dạng “động”. Trong chương vừa rồi, chúng ta phân tích bản chất của đức tin, nhìn trong tương quan với Ba Ngôi Thiên Chúa cũng như từ phía những quan năng con người; đó là dạng tĩnh. Trong chương này, chúng ta theo dõi sự tiến triển của đời sống đức tin nơi mỗi người, nghĩa là dạng động. Trong đời sống tự nhiên, con người tăng trưởng dần, từ lúc thơ nhi, trải qua những lứa tuổi ấu nhi, thiếu nhi, trưởng thành.105 Liệu đức tin có tăng trưởng theo đà ấy không? Mặt khác, đời người không phải lúc nào cũng đi lên: đúng ra có lúc lên lúc xuống, và không thiếu những cơn khủng hoảng xảy ra, tuy không phải mọi cuộc khủng hoảng đều tiêu cực. Một cách tương tự như vậy, đời sống đức tin cũng có những lúc thăng trầm. Trong Tân ước, chúng ta gặp thấy những đoạn nói đến “tin 105

Xc. Đời sống tâm linh, tập III trang 350-352; tập VIII trang 265-271.

264

Thần Học Đức Tin

/ không tin”, cũng như những đoạn nói đến: “đức tin èo ọt, đức tin yếu ớt, đức tin vững mạnh”. Chúa Giêsu nhiều lần trách các môn đệ là “kém tin” (Mt 8,20; 16,8-9), “yếu tin” (Mt 14,30-31); và họ cũng thú nhận: “Lạy Chúa, chúng con tin, nhưng tăng thêm đức tin cho chúng con” (Mc 9,24). Chương này gồm hai mục. Mục thứ nhất tìm hiểu những thăng trầm của đức tin trong cuộc đời. Mục thứ hai nói đến những tội lỗi trái nghịch đức tin, quen được bàn trong những sách luân lý. Mục I ĐỨC TIN TRƯỞNG THÀNH Chúng ta có thể bắt đầu khảo sát tiến trình đức tin bằng một câu hỏi liên quan đến nguồn gốc của nó: làm thế nào để tin Chúa? Thực ra, có nhiều cách thức đặt câu hỏi và trả lời. - Thần học cổ điển vạch ra những lý chứng về sự hiện hữu của Thiên Chúa (được thánh Tôma Aquinô tóm lại thành “ngũ đạo”), mà ta có thể coi như khởi đầu cho mọi diễn từ về Thiên Chúa. Thánh nhân cũng nêu lên một vấn nạn chống lại niềm tin vào Thiên Chúa, đó là sự hiện hữu của sự Dữ trên đời này. Nếu có Thiên Chúa toàn năng tốt lành, thì không thể có sự dữ; thế nhưng thực tế là sự Dữ vẫn lộng hành; vì thế phải kết luận rằng không có Thiên Chúa (Summa Theologica, I, q.2, a.1). - Tâm lý học thực nghiệm cũng quan tâm đến việc nghiên cứu nguồn gốc cảm nghiệm tâm linh.106 Chỉ cần ghi nhận rằng ít người dùng con đường lý trí để khám phá Thiên Chúa. Phần lớn người ta “theo đạo” do truyền thống xã hội (gia đình, làng xóm, dân tộc). Một số khác do những hoàn cảnh éo le của cuộc sống. 106

Xc. Đời sống tâm linh, tập I trang 123-133.

Những thăng trầm của đức tin

265

Dù sao, đường hướng nghiên cứu này dừng lại ở cảm nghiệm tâm linh (hoặc tín ngưỡng) nói chung, chứ chưa lên tới đức tin. - Một hướng khảo cứu khác đi từ kinh nghiệm của những cuộc “trở lại đạo” (conversion). Tuy nhiên, dựa trên một vài trường hợp cụ thể thì khó rút ra những kết luận tổng quát. Thiết tưởng thay vì tìm hiểu: đức tin nảy sinh như thế nào?, chúng ta hãy đặc câu hỏi: đức tin tăng trưởng như thế nào? Đề tài khá rộng lớn, chúng tôi chỉ giới hạn vào những câu trả lời của thần học tâm linh cổ truyền, được bổ túc với vài đóng góp của tâm lý thực nghiệm, cộng thêm kinh nghiệm của các nhà huyền bí về sự thanh luyện đức tin. I. Sự tăng trưởng đức tin dựa theo thần học cổ điển Đức tin cần phải tăng trưởng cũng tựa như đời sống. Trong Đời sống tâm linh, tập III, chúng tôi đã liệt kê những mô hình diễn tả sự tiến triển đời sống tâm linh trong truyền thống Kitô giáo.107 A. Tân ước Thánh Phaolô quan niệm đời sống Kitô hữu như một cuộc lữ hành (1Cr 10,1-13; x. Hr 4,1tt; 12,1tt), thậm chí như một cuộc chạy đua trong sân vận động (1Cr 9,26; Pl 3,12-14). Hình ảnh này muốn nói lên nỗ lực tiến tới không ngừng để đến đích điểm. Mặt khác, thánh tông đồ cũng phê bình sự khác biệt về trình độ giữa các tín hữu: ngoài sự đối chọi giữa con người “theo xác thịt / theo thần khí” (carnalis / spiritualis: Gl 5,16-21), ta còn gặp thấy sự so sánh giữa “ấu trĩ / trưởng thành” (parvulus / vir: Đời sống tâm linh, tập III, chương X, “Hành trình tâm linh: những giai đoạn tiến triển” trang 311-342. 107

266

Thần Học Đức Tin

1Cr 13,11; 14,20; Ep 4,14); “bất toàn / trọn hảo” (imperfecti / perfecti: 1Cr 2,6; 14,20; Cl 4,12). Tác giả cũng phác họa cho ta thấy những dấu chỉ của mỗi tình trạng qua những nét chính như sau. 1/ Những đặc trưng của tình trạng ấu trĩ tinh thần: - chạy theo sự “khôn ngoan thế gian”, thay vì đi tìm sự khôn ngoan của Thiên Chúa bị thế gian coi là điên rồ (1Cr 1,21tt); - tự hào là thông thạo hết đường lối của Chúa, mà không biết rằng Thiên Chúa chỉ tỏ mình ra cho kẻ bé mọn (Mt 13,11); - sử dụng tự do để chiều theo sở thích của mình (1Cr 8,9; 9,4t; 10,29), chứ không phải để xây dựng anh em; - thích những đặc sủng hiếu kỳ để phô trương, thay vì quý trọng đặc sủng cao nhất là đức mến (1Cr 12,31; 13,1tt); - bị lôi cuốn theo các trào lưu mới lạ, bởi vì đức tin chưa cắm rễ sâu (Ep 4,14). 2/ Những dấu chỉ của người trưởng thành tinh thần: - thâm tín về lòng tin vào Chúa (Rm 14,5; 1Tx 1,5), từ đó cố gắng khám phá ra kế hoạch cứu độ của Ngài trong lịch sử; - thay đổi não trạng để biết phân định điều gì là tốt lành theo ý Chúa (Hr 5,14; 1Cr 14,20; Rm 12,2); - ngoan ngoãn để cho Thánh Linh dẫn dắt trong việc hiểu biết ý định của Chúa (Cl 1,9); đi theo Thánh Linh để phát sinh những hoa trái của Thánh Linh (Gl 5,22). - đi sâu vào mầu nhiệm Đức Kitô, với mọi kích thước dài rộng cao sâu (Ep 3,14-19) để rồi mang hết sức lực phục vụ mầu nhiệm ấy trong Hội thánh (Ep 2,20tt), trong sự thật và tình bác ái (Ep

Những thăng trầm của đức tin

267

4,15).108 B. Truyền thống Kitô giáo Ngay từ thời các giáo phụ, nhiều tác giả đã sử dụng những mô hình khác nhau để mô tả các chặng tiến triển đời sống tâm linh, chẳng hạn: - Mô hình hiểu biết Kinh thánh. Ông Origène phân biệt ba cấp: “khai tâm” đọc Kinh thánh theo nghĩa chữ; “tiến bộ” đọc theo nghĩa luân lý; “hoàn bị” đọc theo nghĩa thiêng liêng hay thần khí. - Mô hình kết hiệp với Thiên Chúa. Ông Đionisiô chia hành trình tâm linh thành ba chặng: “thanh luyện” những bất toàn; “chiếu sáng” nhờ đức tin; “kết hiệp” chiêm ngắm Chúa. - Mô hình tiến triển đức ái, theo thánh Augustinô, với ba chặng: khởi đầu, lớn lên, hoàn hảo. - Mô hình thanh luyện theo thánh Gioan Thánh giá: thanh luyện chủ động và thanh luyện thụ động. - Mô hình tiến triển về nhân đức theo thánh Tôma: từ chỗ thực hành bảy nhân đức đến chỗ được hướng dẫn bởi bảy ơn của Thánh Linh. - Mô hình tiến triển về cầu nguyện theo thánh Têrêsa Avila, qua bảy căn của lâu dài nội tâm. Đành rằng sự tiến triển đời sống tâm linh cũng bao hàm sự

Một dấu hiệu nữa để phân biệt giữa ấu trĩ và trưởng thành có thể rút từ hai giai đoạn mạc khải: Lề luật và Tin mừng (Gl 4,1-4). Kẻ ấu trĩ tuân giữ lề luật vì sợ hình phạt, còn người trưởng thành giữ luật vì yêu mến như con cái. Đây cũng là hiệu quả của Thánh Linh, Đấng giải thoát chúng ta khỏi sự sợ hãi của nô lệ ngõ hầu sống tình con thảo với Chúa (Gl 4,6; Rm 8,15-17). 108

268

Thần Học Đức Tin

tiến triển về đức tin, nhưng người ta có thể tách rời ra thành một đề tài nghiên cứu độc lập, cách riêng nhìn dưới khía cạnh tâm lý con người. II. Những chặng tiến triển đức tin dựa theo tâm lý học Tâm lý thực nghiệm đã thực hiện nhiều nghiên cứu về những chặng đường tiến triển đức tin dựa theo tuổi tác. Tuy nhiên không thiếu những vấn nạn được nêu lên liên quan đến phương pháp: phải hiểu thế nào về sự tiến triển? Phải chăng chỉ cần theo dõi sự thực hành đức tin dựa theo các lứa tuổi? Liệu đức tin có tăng trưởng cùng nhịp độ với tuổi tác không? Trên thực tế, ai ai cũng biết là “trưởng thành thể lý” là một chuyện, “trưởng thành tâm lý” là chuyện khác. Chúng ta cũng có thể nói một cách tương tự về sự trưởng thành đức tin: không đương nhiên đức tin tăng trưởng cùng với tuổi đời. Mặt khác, lấy tiêu chuẩn nào để đánh giá sự trưởng thành đức tin: phải chăng vì đã hiểu đạo lý hơn? Phải chăng vì siêng năng đi nhà thờ hơn? Phải chăng vì tham gia vào công tác bác ái hơn? Những cuộc tranh luận về phương pháp còn tiếp tục. Chúng tôi chỉ xin đan cử hai tác giả làm thí dụ: James W. Fowler và Francisco Jalics. A. James Fowler Trong quyển sách xuất bản năm 1981, Stages of Faith: The Psychology of Human Development and the Quest for Meaning (Những chặng đức tin. Tâm lý của sự phát triển nhân bản và việc đi tìm ý nghĩa), tác giả (một giáo sư và mục sư của Giáo hội Methodist) quan niệm rằng sự trưởng thành đức tin cần được lồng trong cái nhìn toàn diện của con người: suốt đời, con người xây đắp những tương quan với bản thân, với Thiên Chúa và với tha nhân. Những tương quan này chịu chi phối bởi nhiều nhân

Những thăng trầm của đức tin

269

tố: đường lối tư duy và phán đoán các hành vi luân lý, cách thức đối xử với nhà cầm quyền, vũ trụ quan. Riêng trong lãnh vực tôn giáo, ông Fowler để ý đến cách thức định hướng cuộc sống dựa theo niềm tin của mình. Ông chia làm sáu chặng như sau: - Giai đoạn 0 (khởi đầu): trẻ sơ sinh chưa có đức tin. Tuy nhiên, em bé bắt đầu phát triển niềm tín thác vào kẻ chăm sóc mình; đây là nền tảng của đức tin về sau. - Giai đoạn 1 (khoảng 2-6/8 tuổi): đức tin trực giác và phóng dọi. Em bé bắt đầu biết nói và bắt đầu biết chơi. Óc tưởng tượng được thành hình. Em bé nhận thức về Thiên Chúa cách trực giác, và phóng dọi lên Thiên Chúa những cảm nghiệm của mình về thế giới (hình dung Thiên Chúa giống như các nhân vật mà mình quen biết). - Giai đoạn 2 (khoảng 6/8 tuổi cho đến 11/13 tuổi): đức tin huyền thoại. Em bé chịu ấn tượng bởi những chuyện kể, và hiểu câu chuyện theo nghĩa đen. Thiên Chúa được nhìn như là Đấng ban thưởng hay trừng phạt. - Giai đoạn 3 (khoảng từ 11/13 tuổi cho đến lúc trưởng thành; có những người trì trệ trong giai đoạn này đến suốt đời): đức tin quy ước. Thiếu nhi bắt đầu suy tư về những tình cảm của mình cũng như nắm bắt những hình ảnh của bạn bè nghĩ về mình. Thiếu nhi coi trọng các mối dây tương quan xã hội, và dễ dàng chấp nhận ý kiến của nhóm, với tính cách triệt để. - Giai đoạn 4 (từ 17 tuổi, nhưng có khi muộn hơn): đức tin cá nhân. Người thanh niên xét lại các điều đã được truyền thụ trước đây. Họ ý thức trách nhiệm của mình, chứ không chỉ dựa vào nhóm, và muốn tạo cho mình một lối suy tư riêng biệt. Điều này đôi khi có thể dẫn tới việc không tham gia các buổi cử hành của cộng đồng nữa.

270

Thần Học Đức Tin

- Giai đoạn 5 (tuổi trung niên, khoảng tứ tuần): đức tin hài hòa. Họ tìm cách dung hòa những lãnh vực xem ra đối chọi nhau: Thiên Chúa vừa siêu việt vừa nội tại, Ngài toàn năng nhưng đã tự ý hạn chế mình. Họ trở nên khiêm tốn hơn khi nói về Thiên Chúa. Họ cũng sẵn sàng đối thoại với những người không cùng tín ngưỡng. Nên ghi nhận là không phải tất cả các người trung niên đều đạt tới trình độ này. - Giai đoạn 6: đức tin phổ quát. Rất ít người đạt đến. Tác giả trưng dẫn một vài nhân vật tiêu biểu: Gandhi, Martin Luther King, Mẹ Teresa Calcutta. Họ hoàn toàn dựa vào Thiên Chúa, ra khỏi bản ngã của mình, và muốn cải tạo xã hội hầu chuẩn bị cho Vương quốc Thiên Chúa. Chúng ta có thể ghi nhận là tác giả không chỉ giới hạn lãnh vực nghiên cứu vào các tín hữu Công giáo. Đức tin trưởng thành vượt lên biên cương của các tôn giáo lịch sử và đạt đến Thực tại huyền nhiệm. B. Francisco Jalics Trong cuốn sách tựa đề “Con đường đức tin”,109 tác giả vạch ra bốn giai đoạn của sự tăng trưởng đức tin: đức tin ấu nhi; đức tin thanh niên; đức tin tráng niên; đức tin chín chắn. Tuy phân tích đức tin dựa theo các lứa tuổi, nhưng sự tiến triển không xảy ra cách tự động: có người xét về tuổi tự nhiên thì đã lục tuần, nhưng xét về đức tin thì vẫn còn ở giai đoạn ấu trĩ . Cách riêng, tác giả nghiên cứu tâm trạng “lệ thuộc và tự do” trong tương quan với Thiên Chúa. 1/ Đức tin ấu nhi

109

Francisco (Ferenc) Jalics S.I., Il cammino nella fede, San Paolo, Cisinella Balsamo, 1982.

Những thăng trầm của đức tin

271

Em bé hoàn toàn dựa vào cha mẹ, em cần cha mẹ che chở đùm bọc, về sinh lý cũng như về tình cảm. Cha mẹ trở thành lẽ sống của em. Em chấp nhận uy quyền của cha mẹ: cái gì cha mẹ bảo là đúng thì em cũng cho là đúng; cái gì cha mẹ bảo là sai, thì em cảm thấy có lỗi. Em cảm thấy an toàn khi được cha mẹ yêu thương; nếu bị hất hủi, em cũng sẽ không chấp nhận chính mình. Em sống trong tình trạng chịu lệ thuộc vào cha mẹ. Trong bối cảnh này, em cũng tiếp nhận Thiên Chúa, được đồng hóa với cha mẹ. Mối nguy là nếu trong đời, người ta chỉ dừng lại ở giai đoạn này thì đức tin sẽ là “ấu trĩ”: Thiên Chúa được nhìn như một viên cảnh sát; cần phải tìm cách sống phù hợp với luật pháp, nếu không thì sẽ bị phạt. Cuộc sống đạo trở nên gánh nặng. Một mặt trái nữa là có thể đức tin này không ảnh hưởng gì đến cuộc sống: đức tin chỉ giới hạn vào các buổi tham dự phụng vụ, hoặc khi gặp hoàn cảnh éo le cần được Chúa giúp đỡ. Đức tin được đồng hóa với sự an toàn và che chở. 2/ Đức tin thanh niên Đối với người bạn trẻ, gia đình không còn là chốn an toàn duy nhất nữa; thậm chí đôi khi gia đình trở thành ngột ngạt. Người trẻ muốn tự tay xây dựng cuộc đời, muốn tự lập. Từ đó nảy ra ý tưởng muốn chống lại uy quyền của cha mẹ: người bạn trẻ không hoàn toàn chấp nhận điều mà cha mẹ quyết định; anh ta muốn đi tìm ý nghĩa cuộc đời dựa theo ý kiến hoặc kinh nghiệm của riêng mình. Đời sống đạo cũng bị ảnh hưởng. Người bạn trẻ không còn cảm thấy tùy thuộc vào Thiên Chúa như là hồi còn nhỏ. Tệ hơn nữa, đôi khi Thiên Chúa có vẻ xa rời anh. Vì thế, anh tỏ ra lãnh đạm với việc giữ đạo của anh, và thậm chí anh có thể vùng lên chống Thiên Chúa khi gặp phải một tai ương bất ngờ (chẳng hạn

272

Thần Học Đức Tin

như mất một người thân yêu, xảy ra một tai nạn...). Người bạn trẻ thường gặp khủng hoảng vì phải chọn lựa ở ngã ba đường: hoặc trở về tình trạng sống đạo của thời niên thiếu, hoặc bỏ đạo. Trên thực tế, sự lựa chọn có nghĩa là hoặc đi lùi lại thời thơ ấu (và không muốn tiến nữa), hoặc đi tiếp (với rủi ro trở thành vô thần). 3/ Đức tin tráng niên Không phải tất cả các thanh niên đều trải qua sự thử thách vừa nói. Dù sao, người tráng niên là người lãnh trách nhiệm chứ không dựa dẫm vào người khác. Ý thức về bản lĩnh của mình dễ đưa con người đến chỗ cảm thấy cô đơn trơ trọi trên đời này. Tâm trạng này có thể giúp cho người tráng niên tiến đến đức tin trưởng thành: họ cảm nhận Thiên Chúa không theo những khuôn mẫu truyền thống, nhưng họ gặp gỡ Thiên Chúa trong đời sống. Vì thế, ở giai đoạn này họ phải chiến đấu nhiều với đức tin: khi còn nhỏ họ chạy đến với Thiên Chúa vì cần tìm đến nơi nương tựa; bây giờ họ đã tự lập, và họ tự tin, một sự tự tin khiến họ có cảm tưởng rằng mình không cần đến Thiên Chúa nữa. Vì thế điều quan trọng là cần biết dung hòa những điều xem ra trái ngược: vừa tin tưởng vào mình vừa tín thác vào Thiên Chúa; vừa khám phá ý nghĩa của cuộc đời do mình kiến tạo, vừa nhìn nhận rằng Thiên Chúa cũng hiện diện trong cuộc đời của mình nữa. Nói cho cùng, tìm cách dung hòa giữa vừa chấp nhận sự tự lập của mình vừa chấp nhận sự lệ thuộc vào Thiên Chúa. 4/ Đức tin chín chắn Người đạt được đức tin chín chắn là kẻ đã vượt qua các khủng hoảng của giai đoạn trước đây, và tìm sự hài hòa giữa những yếu tố xem ra đối chọi với nhau. Cuộc khủng hoảng có thể kéo dài nhiều năm. Sự vượt qua cuộc khủng hoảng có thể ví với hình ảnh của hạt thóc chết đi để sinh hoa trái, hoặc với sự quặn đau lúc chuyển dạ để sinh ra một sinh linh mới.

Những thăng trầm của đức tin

273

Kẻ có đức tin chín chắn sống mọi biến cố của cuộc đời trong tương quan với Thiên Chúa. Họ đánh giá mọi sự theo nhãn giới của Tin mừng. Họ không theo đuổi tiền bạc, thành công, quyền lực, nhưng họ quan tâm đến sự bình an hòa hợp với mọi người vì nhận ra tiếng gọi của Thiên Chúa trong mọi vật. Thái độ tín thác vào Thiên Chúa không phải như giai đoạn ấu trĩ (nương tựa vào Chúa vì cảm thấy cần đến Ngài), nhưng như là sự đáp trả tự do cho tình yêu Chúa, được diễn tả qua sự dâng hiến mình cho Ngài. Như đã nói trên đây, sự trưởng thành đức tin chỉ là một phần của sự trưởng thành đời sống tâm linh. Khi tách rời ra một lãnh vực cụ thể để nghiên cứu, xem ra các tác giả chú trọng đến mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa, cách thức hình dung về Thiên Chúa, chẳng hạn như: qua hình ảnh của Thượng đế toàn năng, Đấng Thưởng phạt, hoặc như một người cha, một người bạn... Những hình ảnh ấy có ảnh hưởng nhiều đến đời sống đạo, cách riêng trong việc cầu nguyện. Dù sao, phải nhìn nhận rằng đời sống đức tin còn bao gồm nhiều điều hơn là cách thức hình dung Thiên Chúa. Chẳng hạn như tự sắc Porta fidei của đức Bênêđictô XVI gắn sự trưởng thành đức tin với việc làm chứng tá và thực hành bác ái (xem số 13-14). III. Thanh luyện đức tin qua đêm tối Chúng ta chỉ mới điểm qua hai tác giả bàn về sự tiến triển đức tin dưới cái nhìn tâm lý học. Dưới góc độ của khoa học nhân văn, sự tiến triển là một hiện tượng tự nhiên của cuộc sống. Tuy nhiên, dưới cái nhìn thần học, cần thêm rằng sự tăng trưởng đức tin còn là công hiệu của tác động Thánh Linh nữa, qua những linh ân được ban cho chúng ta. Thiết tưởng có một điểm mà khoa nhân học và thần học gặp gỡ, đó là tiến trình tăng trưởng không luôn luôn là một cuộc

274

Thần Học Đức Tin

thăng tiến đều đều, nhưng có những lúc lên lúc xuống, và trải qua những cuộc khủng hoảng. Các nhà tâm lý học quen nói đến sự khủng hoảng vào lúc chuyển bước từ thời thơ ấu đến thời thanh niên, và lúc trung niên. Các văn kiện của Toà thánh về việc đào tạo tu sĩ và linh mục cũng nói đến những “chu kỳ khủng hoảng của ơn gọi”, chẳng hạn như: một thời gian sau khi thụ phong hoặc khấn dòng (nhiệt khí ban đầu đã giảm), tuổi trung niên (thay đổi sinh lý), tuổi già (rút lui khỏi môi trường hoạt động).110 Ở đây chúng tôi chỉ muốn dừng lại ở một điểm được nói nhiều nơi thánh Gioan Thánh giá và trường phái Cát minh, đó là sự trưởng thành đức tin trải qua những cuộc khủng hoảng, và điều này không chỉ tùy thuộc vào từ những hoàn cảnh sinh sống về phía con người, nhưng là do chính Chúa gây ra. Thực vậy, thánh Gioan Thánh giá đã phân biệt hai giai đoạn thanh luyện: “chủ động” bởi vì do con người giữ vai chính, và “thụ động”. Tác giả sử dụng hình ảnh “đêm tối” (noche) để mô tả sự thanh luyện này. “Đêm tối chủ động” (noche activa) muốn nói lên cố gắng của chúng ta để tẩy trừ tội lỗi, thanh luyện giác quan, cảm xúc, óc tưởng tượng, cũng như thanh luyện các quan năng cao cấp của tinh thần (trí tuệ, ký ức, ý chí) qua việc thực hành các nhân đức đối thần. “Đêm tối thụ động” (noche pasiva) do chính Thiên Chúa tác động để tẩy trừ khỏi hết mọi khiếm khuyết. Linh hồn trải qua “đêm tối giác quan” (noche del sentido), khi không còn cảm thấy những an ủi khả giác khi cầu nguyện, và “đêm tối tinh thần” (noche del espiritu), đôi khi được ví như luyện tội (nếu chưa dám nói là hỏa ngục), bởi vì hoàn toàn vắng bóng Thiên

Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II, tông huấn Pastores dabo vobis số 77; tông huấn Vita consecrata số 69. Xc. Đời sống tâm linh, tập III, trang 338. 110

Những thăng trầm của đức tin

275

Chúa.111 Mục tiêu của những cuộc thanh luyện là để cho linh hồn không còn bám víu vào (dù chỉ là hình ảnh, ý niệm) tiến đến “hư vô” (nada): hư không để dành “tất cả” cho Thiên Chúa. Có lẽ tác giả đang thuật lại chính cảm nghiệm của mình, khi bị anh em trong dòng bỏ rơi, hất hủi, tống ngục, tra tấn đang khi Người muốn thực hiện cuộc cải tổ dòng Carmêlô; nhưng đề tài “đêm tối đức tin” đã trở thành cổ điển trong thần học tâm linh, chẳng hạn như khi thánh Gregoriô Nyssa (k.335-k.394) mô tả chặng đường ông Môsê tiến lên gặp gỡ Chúa.112 Vào thời đại chúng ta, kinh nghiệm này được hai vị thánh đã kể lại trong một bối cảnh khác, đó là thánh Têrêsa Lisieux và chân phúc Têrêsa Calcutta. 1/ Cuộc thử thách đức tin của thánh Têrêsa Lisieux được kể lại trong phần thứ ba của quyển sách “Lịch sử một tâm hồn” (quen đặt tên là “Thủ bản C”). Chị đã viết lại cảm nghiệm của mình theo lệnh của mẹ Agnès, trong ba trang giấy. Qua đó, chị cho biết rằng từ Chúa nhật lễ Phục sinh (5/4) năm 1896, chị đã phải nếm một cuộc thử thách kinh khủng về đức tin, và cơn cám dỗ này kéo dài gần 18 tháng, cho đến lúc chị qua đời vào ngày 30/9/1897. Cuộc thử thách này liên quan đến niềm tin vào sự hiện hữu của Thiên Chúa. Để hiểu được nỗi khổ tâm của chị, chúng ta hãy nghe chị kể. Trước đây, con không thể hiểu được có những người không có niềm tin, không tin tưởng vào đời sau. Lúc ấy, đức tin của con rất sống động, sáng sủa. Hạnh phúc của con là luôn nghĩ đến thiên đàng; vì thế con không thể tin rằng có thể có những Tác giả trình bày đạo lý này trong sách Subida del Monte Carmelo (Lên núi Carmelo) và Noche oscura (Đêm tối tăm). Xc. Đời sống tâm linh, tập II, trang 281-283; tập III, trang 318-319. 111

112

X. Đời sống tâm linh, tập V, trang 186-188).

276

Thần Học Đức Tin người không có đức tin. Con nghĩ rằng họ sẽ mâu thuẫn với chính mình, khi phủ nhận không có trời, không có Đấng thưởng phạt đời sau... Thế rồi, vào chính ngày hoan hỉ của lễ Phục sinh, Chúa Giêsu đã cho con biết rằng có những linh hồn thực sự không có đức tin; vì lạm dụng ơn thánh mà họ đã mất đi kho tàng vô biên, nguồn mạch của những niềm vui thanh tao chân thực. Chúa đã cho phép linh hồn con bị xâm chiếm bởi những đêm tối dày đặc. Ý tưởng về Thiên đàng, trước đây rất là ngon ngọt đối với con, bây giờ trở thành cuộc chiến đấu, dằn vặt.

Thánh Têrêsa mô tả cuộc thử thách này với hình ảnh như là “đêm tối dày đặc”, “đường hầm kinh dị”, khi đi vào đó thì không thấy gì hết; kế đó, chị còn dùng hình ảnh “sương mù” làm ngăn cản không thể thấy cảnh vật để định hướng; và sau cùng, tác giả sử dụng hình ảnh “chiếc bàn của những tội nhân”. Chị ngồi vào bàn ăn, mà cảm thấy cay đắng. Chị sống như một người không có đức tin, không thể nghĩ đến trời, không có niềm hy vọng. Chị viết rằng: những bóng tối vừa nói ra như biến thành lời chế nhạo của những kẻ tội lỗi: “Ngươi mơ ước ánh sáng, người tưởng rằng sẽ chiếm hữu được Đấng Tạo hóa mãi mãi, người tưởng rằng một ngày nào ngươi sẽ ra khỏi cảnh sương mù này. Còn lâu! Ngươi hãy vui vì cái chết vì nó sẽ mang lại không phải là hy vọng nhưng là đêm tối của hư vô”. Như vậy, cái cám dỗ của Têrêsa là cái cám dỗ sẽ rơi vào hư vô; mọi sự trên đời này đều vô nghĩa; chẳng có hy vọng nào hết. Sau cùng, chị kết luận rằng: con mới chỉ diễn tả được một phần những thử thách; vì sợ rằng nếu nói hết thì con sẽ phạm tội lộng ngôn. Như vậy, có thể nói rằng cơn cám dỗ về đức tin cũng liên quan đến đức trông cậy, bởi vì cơn cám dỗ liên quan đến niềm tin về sự hiện hữu đời sau, theo đó, sau cuộc đời trần thế này sẽ chẳng còn gì nữa hết. Chết là hết! Cuộc đời chúng ta không có lối thoát, bởi vì nó sẽ rơi vào hư vô. Vì thế mà thánh Têrêsa dùng

Những thăng trầm của đức tin

277

hình ảnh “cái hầm đen tối” để mô tả cơn cám dỗ ấy: chị chỉ thấy đêm đen dày đặc, mà không thấy lóe lên ánh sáng nào từ đàng xa. Cảm giác này mang lại sự hoảng hốt: khi không thấy tương lai đàng trước thì chẳng dám tiến tới, và chỉ dò dẫm loay hoay tại chỗ. Dù sao, một điều đáng nói là chị xem cơn thử thách này như là chia sẻ nỗi cay đắng của những người vô thần. Khi nói đến những người không có đức tin, chúng ta nên phân biệt nhiều hạng người. Có người không tin vào Chúa Giêsu, không tin vào Giáo hội, nhưng họ vẫn tin vào ông Trời, vào Đấng Tối cao, vào một tôn giáo nào đó, và họ cũng tin có một cuộc sống nào đó sau đời này. Nhưng có những người không tin vào thần thánh, không tin vào cái gì thiêng liêng, thường hằng nào hết. Đối với họ, chỉ có sự hiện hữu của cuộc đời này, của trần thế này mà thôi. Đây là hiện tượng vô thần cận đại ở bên châu Âu, mà thánh Têrêsa liên tưởng đến, và sau này sẽ được phát biểu nơi các triết gia Nietzsche và Sartre. Trước đây, chị không tin rằng có thể có những người như vậy được, bởi vì ai cũng hy vọng vào đời sống bất tử. Qua sự thử thách này, chị đã nếm được tâm trạng của những người vô thần như vậy. Chị hình dung rằng mình cùng ngồi bàn với những người vô thần. Hình ảnh này làm chúng ta nghĩ đến Chúa Giêsu xưa kia cũng ngồi cùng bàn với các người thâu thuế, những người mang tai tiếng trong xã hội. Nhưng Chúa đã làm như vậy là để cho thấy rằng tình thương của Thiên Chúa ôm ấp hết mọi người, đặc biệt là những kẻ tội lỗi, những kẻ cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa. Thánh Têrêsa thì nghĩ cách khác. Những người được biết Chúa thường nhìn những người vô thần với cặp mắt trịch thượng, hoặc ít là với cặp mắt thương hại, đại khái cũng giống như người biệt phái trong dụ ngôn nói về hai người lên đền thờ cầu nguyện. Thánh nữ muốn ngồi đồng bàn với họ, để chia sẻ cảnh ngộ với họ, chứ không phải là nhìn từ xa hay từ trên cao. Và một khi đã đồng hóa mình với những người vô thần, thì thánh nữ đứng ra để cầu bầu cho họ, kêu xin

278

Thần Học Đức Tin

Chúa thương xót họ. Không phải là chị nài xin Chúa thương xót những kẻ tội lỗi, nhưng chị xin Chúa thương xót “chúng con là những kẻ tội lỗi”. Chị xếp mình trong hàng ngũ những kẻ vô thần để kêu cầu Chúa thương xót. Như vậy sự thử thách đức tin này trở nên cơ hội để chị tham gia vào cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu cứu vớt những người tội lỗi. 2/ Một cảm nghiệm tương tự cũng gặp thấy nơi chân phúc Têrêsa Calcutta, được ghi lại trong những lá thư gửi cho các cha linh hồn, được cha Brian Kolodiejchuk (Thỉnh nguyện viên lo việc phong thánh) xuất bản trong quyển sách “Mother Teresa: Come Be My Light” (Doubleday, New York 2007). Bên ngoài, ai cũng thấy Mẹ Têrêsa luôn vui tươi khi đến với người nghèo. Mẹ cũng là con người cầu nguyện say đắm trước Thánh Thể. Nhưng đâu ai biết được rằng trong suốt bao nhiêu năm trường, con người ấy cảm thấy sự vắng lặng của Thiên Chúa. Chỉ sau khi Mẹ qua đời, nhân cuộc tiến hành thủ tục phong thánh, người ta có dịp đọc lại các thư viết cho các cha linh hướng, thì mới biết rõ sự chiến đấu nội tâm của Mẹ. Ý định lập dòng các thừa sai bác ái không phải do sáng nghĩ cá nhân, nhưng là do Chúa Giêsu: Mẹ ý thức rõ điều đó. Nhưng cũng từ lúc đó Mẹ đã trải qua cảm nghiệm đau đớn của sự vắng lặng của Thiên Chúa. Chẳng hạn vào tháng 3 năm 1953, Mẹ đã viết cho đức cha Ferdinand Perrier (tổng giám mục Calcutta) như sau: “Xin đức cha cầu nguyện cho con, để con không phá hủy công trình của Chúa Giêsu, bởi vì con đang cảm thấy một sự tối tăm dày đặc trong con, ra như mọi sự đều chết. Xin đức cha cầu cùng Chúa cho con được can đảm”. Từ đó, trong các thư, mẹ ra như cứ lặp đi lặp lại lời khẩn nài: “Con cảm thấy cô đơn trong trái tim, và không thể diễn tả được” (tháng 1 năm 1955). “Trong con, tất cả là băng giá. Chỉ có đức tin mù quáng mới đẩy con đi, bởi vì thật ra mọi sự đều đen tối” (tháng 12 năm 1955). “Đôi khi cơn hấp

Những thăng trầm của đức tin

279

hối vì bị bỏ rơi thật là khủng khiếp, nhưng đồng thời lòng khao khát Đấng Vắng mặt cũng rất là mãnh liệt, và lời nguyện duy nhất mà con có thể đọc là “Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, con tin tưởng vào Chúa. Con sẽ làm nguôi cơn khát các linh hồn của Chúa” (tháng 3 năm 1956). “Con muốn mỉm cười ngay cả với Chúa Giêsu nữa, để che giấu Người sự đau khổ và tối tăm của linh hồn con” (tháng 4 năm 1957). Câu nói sau đây đủ tóm được tất cả tâm tình kéo dài hàng mấy mươi năm: “Linh hồn con cảm thấy mâu thuẫn: tự đáy lòng, con khao khát Thiên Chúa, nhưng đồng thời con lại có cảm giác là mình không được Chúa yêu thương, bị bỏ rơi, trống rỗng, chẳng có đức tin, chẳng có yêu mến... Thiên đàng chẳng có ý nghĩa gì đối với con, xem ra là một nơi trống rỗng”. Như thế tuy Mẹ Teresa tin chắc Thiên Chúa hiện diện, nhưng đồng thời cảm thấy Người vắng lặng kinh khủng. Dần dần Mẹ nhận ra ý nghĩa của sự đen tối này. Vào đầu năm 1960, mẹ viết cho cha Neuner: “Lần đầu tiên trong suốt mười một năm qua, con bắt đầu yêu mến sự đen tối. Bây giờ con hiểu được một tí chút về đêm tối và sự đau khổ của Chúa Giêsu trên mặt đất”. Thực ra, có người đã muốn so sánh ý nghĩa đêm tối của Mẹ Têrêsa Calcutta với kinh nghiệm của thánh nữ Têrêsa Lisieux, đó là chia sẻ kinh nghiệm thiếu vắng Thiên Chúa của con người thời đại. Có người giải thích đêm tối này như phương tiện để giúp cho Mẹ dửng dưng trước những tán thưởng mà dư luận dành cho công tác bác ái của Mẹ. Nhưng chúng tôi không muốn đi sâu vào điểm này. Chỉ cần ghi nhận rằng chính đức thánh cha Gioan Phaolô II đã áp dụng ý tưởng “cuộc thử thách đức tin” (hay đêm tối đức tin) cho chính Đức Mẹ Maria. Trong thông điệp Redemptoris Mater, ngài đã đọc lại suốt cuộc đời của Mẹ như là một hành trình đức tin, trải qua những đêm tối, mà đỉnh

280

Thần Học Đức Tin

cao nhất là lúc chứng kiến cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá, đấng mà thiên sứ Gabriel đã tiên báo là sẽ ngự trên ngôi báu của vua Đavít (số 18-19).113 Tuy vậy, Đức Mẹ đã giữ vững niềm tin, và người đã thấy ánh sáng ló dạng vào ngày Phục sinh. Trong cơn thử thách của mình, thánh Têrêsa Lisieux cũng nhìn ngắm cuộc thử thách của Đức Maria và tìm thấy nơi nương tựa, khi biết rằng người mẹ ấy cũng ở gần những con cái đau khổ. Mẹ Têrêsa Calcutta cũng vậy. Tóm lại, khi bàn về sự tiến triển của đức tin, chúng ta nhận thấy có nhiều lối tiếp cận khác nhau: lối tiếp cận của thần học tâm linh, lối tiếp cận của tâm lý thực nghiệm, lối tiếp cận của khoa thần bí, và chắc chắn còn nhiều lối tiếp cận khác nữa. Chúng tôi xin kết luận với một câu chuyện Đông phương, qua lối văn đơn sơ nhưng diễn tả đạo lý rất sâu sắc về ý nghĩa sự thanh luyện trong tiến trình trưởng thành đức tin. Hồi xưa có một khu vườn rất đẹp, nằm ở chính trung tâm của quốc gia. Nhà vua thường đi dạo trong vườn mỗi ngày, vào lúc thời tiết nóng bức. Trong vườn ấy có một cây tre rất oai vệ, đẹp nhất trong các cây trong vườn. Nhà vua thích cây tre ấy hơn tất cả mọi cây khác. Năm tháng lần lượt trôi qua. Cây tre càng lớn thì càng xinh. Cây tre biết rằng nhà vua rất yêu thích mình. Một bữa kia, nhà vua với vẻ mặt đăm chiêu, tiến tới gần cây tre yêu dấu. Cây tre cúi rạp mình xuống để bái nhà vua. Ngài nói với cây tre: “Này cây tre ơi, ta cần đến ngươi”.

113

Được sách GLCG trích lại ở số 165.

Những thăng trầm của đức tin

281

Cây tre hí hửng vì tưởng rằng đã đến giây phút mà mình mơ ước lâu nay, nên đã nhỏ nhẹ đáp lại: “Thưa ngài, con sẵn sàng, ngài muốn làm gì cũng được”. Nhưng giọng nhà vua trở nên nghiêm nghị: “Này cây tre ơi, để sử dụng ngươi, ta phải đốn ngươi”. Cây tre đâm ra hoảng hốt: “Thưa ngài, tại sao lại phải đốn? Ngài đã mất công bao nhiêu năm để vun trồng cho con lớn lên. Ngài muốn làm chi thì cứ làm tùy tiện, nhưng xin đừng đốn!” Giọng nói nhà vua càng nghiêm nghị hơn nữa: “Cây tre yêu dấu ơi, nếu ta không đốn thì ta không thể sử dụng ngươi”. Cả khu vườn nín lặng. Gió ngừng thổi. Chim không hót nữa. Cây tre từ từ cúi mình xuống, và thốt: “Thưa ngài, nếu ngài không đốn con thì không thể sử dụng, thì xin ngài cứ tự tiện đốn đi”. Nhà vua nói tiếp: “Cây tre yêu dấu ơi, không những ta phải đốn, mà còn phải chặt các cành lá và thân ngươi. Nếu không chặt, thì ta không dùng được!” Mặt trời liền ẩn sau đám mây. Đàn chim rủ nhau đi trốn. Cây tre nghẹn ngào nói không ra tiếng: “Thưa ngài, chặt đi!”. “Cây tre ơi, ta còn phải chẻ ngươi ra, móc tim của ngươi nữa. Nếu không thì ta không dùng được”. Cây tre không đáp lời nào nữa, và cúi rạp xuống đất. Thế là nhà vua đã đốn cây tre, tước hết cành, tỉa sạch lá, và chặt làm đôi, và khoét con tim. Rồi ngài đưa cây tre ra dòng suối nước, cạnh những cánh đồng khô cằn. Ngài đặt cây tre xuống đất, một đầu thì nối với dòng suối, đầu kia thì quay ra cánh đồng.

282

Thần Học Đức Tin Nước được chuyền qua ống tre và chảy ra đồng. Nhờ vậy, người ta gieo lúa, và sau một thời gian, hạt lúa mọc lên, và mùa gặt đã đến. Như thế cây tre xinh đẹp đã mang lại ân huệ dồi dào nhờ sự khiêm tốn của mình. Khi còn sống, cây tre tăng trưởng và trở nên duyên dáng, nhưng chỉ đẹp cho mình mà thôi. Bây giờ, nó bị tiêu hủy nhưng lại trở nên một kênh mang lại sự trù phú cho cả quốc gia.

Mục II THỰC HÀNH ĐỨC TIN Trong mục vừa rồi, chúng ta đã theo dõi sự tăng trưởng của đức tin: giống như một thực thể sống động, đức tin cần được nuôi dưỡng và tăng trưởng. Đây là một nghĩa vụ của tất cả các tín hữu, chứ không dành riêng cho vài nhà thần bí. Những phương tiện để nuôi dưỡng đời sống đức tin có thể lược tóm vào ba khía cạnh sau đây: a) xét dưới khía cạnh tri thức, đức tin cần được bồi dưỡng nhờ học hỏi, lắng nghe; b) xét dưới khía cạnh ý chí, đức tin cần được bồi dưỡng nhờ tình yêu và các nhân đức khác; c) xét như là ân huệ, đức tin cần được bồi dưỡng nhờ cầu nguyện, bí tích. Dù sao, như chúng ta đã biết, đức tin cần được kết hiệp với đức ái thì mới là “đức tin sống”, nếu không là “đức tin chết”. Điều này đưa là đến đề tài “sống đức tin”. I. Những nghĩa vụ kèm theo việc thực hành đức tin Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo đã tóm lại các khía cạnh

Những thăng trầm của đức tin

283

của việc sống đức tin qua bốn điểm chính: tuyên xưng, cử hành phụng vụ, sống đức mến, cầu nguyện. Việc tin trong lòng được phát biểu ra ngoài qua việc tuyên xưng. Mặt khác, chúng ta không tin vào một học thuyết trừu tượng, nhưng tin vào Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử: việc cử hành phụng vụ nói đến chân lý ấy; việc cử hành phụng vụ cũng là một hành vi tuyên xưng đức tin (x. GLCG số 1122-1126: các bí tích của đức tin). Đức tin cần được linh hoạt bằng đức mến, và cần được nuôi dưỡng bằng lời cầu nguyện. Một cách cụ thể hơn, thần học luân lý đã tóm lại các bổn phận của việc thực hành đức tin vào bốn điểm sau đây: học hỏi, tuyên xưng, truyền bá, giữ gìn đức tin. 1/ Học hỏi đạo lý đức tin Học hỏi đạo lý là điều cần thiết không những để biết rõ những gì buộc phải tin, mà còn đào sâu sự hiểu biết về Thiên Chúa. Đành rằng Thiên Chúa mạc khải các mầu nhiệm cho những tâm hồn bé nhỏ chứ không phải cho những kẻ tài cao học rộng, nhưng điều này không miễn chuẩn cho các tín hữu phải cố gắng, trong khả năng của mình, để học hỏi về Thiên Chúa, ngõ hầu được biết và mến Ngài hơn; đó là một phương thế để tăng trưởng đức tin. Ngoài ra, việc học hỏi đạo lý cũng cần thiết để người tín hữu có thể chia sẻ đức tin cho những người chưa biết đạo, hoặc để trả lời cho những ai muốn tìm hiểu đạo. Việc học hỏi này có những cấp độ khác nhau (những lớp giáo lý, các khóa thần học...), nhưng tựu trung vẫn dựa trên Lời Chúa. Trong lãnh vực này, ta cũng có thể học Lời Chúa qua việc theo dõi các lớp Kinh thánh, hoặc suy niệm Lời Chúa qua việc lắng nghe và cầu nguyện (lectio divina). Tông huấn hậu thượng hội đồng Verbum Domini của đức thánh cha Bênêđictô XVI (ngày 30/9/2010) đã dành phần II cho điều này (“Lời trong Hội thánh”, số 50-89).

284

Thần Học Đức Tin

Để hỗ trợ cho bổn phận học hỏi đạo lý của các tín hữu, các mục tử có bổn phận phải giảng dạy, cách riêng nhân dịp cử hành các bí tích, chẳng hạn như khi chuẩn bị lãnh bí tích rửa tội, rước lễ, hôn phối. Toà thánh đã ra nhiều văn kiện liên quan đến việc huấn giáo, chẳng hạn như Kim chỉ nam tổng quát về việc huấn giáo (Bộ Giáo sĩ, 15/8/1997), đặc biệt là sách Giáo lý Hội thánh Công giáo (1992). 2/ Tuyên xưng đức tin Đức tin không phải là một tâm tình vu vơ, nhưng là sự gắn bó với chân lý mạc khải. Việc tin trong lòng đưa đến tuyên xưng ngoài miệng (x. Rm 10,10). a) Việc tuyên xưng đức tin được thực hiện vào nhiều cơ hội. - Có khi là “công khai”, chẳng hạn như: khi lãnh bí tích Rửa tội, Thêm sức, hoặc khi đảm nhận một chức vụ trong Hội thánh (theo quy định của Bộ giáo luật, điều 833). - Có khi là “tư riêng”, hoặc trực tiếp hay gián tiếp. Cách trực tiếp khi đọc “kinh đức tin” vào lúc cầu nguyện, hoặc khi bị cám dỗ về đức tin. Cách gián tiếp khi bày tỏ đức tin qua các hành động, đặc biệt khi cầu nguyện. Thực vậy, khi cầu nguyện, chúng ta mặc nhiên tuyên xưng rằng Thiên Chúa hiện diện và lắng nghe chúng ta. Đức tin nuôi dưỡng việc cầu nguyện, cũng như sự cầu nguyện nuôi dưỡng đức tin. b) Việc tuyên xưng đức tin trở thành nghiêm trọng trong những trường hợp liên can đến vinh danh Thiên Chúa hoặc phần rỗi các linh hồn. Người tín hữu bày tỏ lòng trung tín với Thiên Chúa khi tuyên xưng niềm tin vào Ngài kể cả bằng mạng sống (Mt 10,32; x. Mc 8,38; Lc 9,26; 2Tm 2,12).

Những thăng trầm của đức tin

285

Tuy hiểu tuyên xưng như là một hành vi ngoài miệng, nhưng cần thêm rằng chúng ta tuyên xưng đức tin bằng cả cuộc đời: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,10). Nói cách khác, chúng ta có thể phạm tội chối bỏ đức tin khi không dám tuyên xưng cũng như khi ăn ở trái ngược với đức tin. 3/ Truyền bá đức tin Việc truyền bá đức tin nằm trong bản chất đức tin: nếu đã tin Chúa thì cũng tuyên xưng làm chứng cho Chúa. Thêm vào đó, chính Chúa Giêsu đã ủy thác cho các tông đồ và toàn thể Hội thánh hãy loan tin mừng khắp muôn dân. Trong quá khứ, đôi khi người ta đồng hóa việc truyền đạo với việc tuyên truyền một học thuyết để kết nạp thêm số thành viên. Để phản ứng lại, người ta chủ trương tôn trọng lương tâm của mỗi người, “đạo ai nấy giữ”. Nhằm sửa lại quan điểm ấy, trong thông điệp “Sứ vụ Đấng Cứu thế” (Redemptoris Missio, số 7-11) đức thánh cha Gioan Phaolô II giải thích rằng động lực của việc loan báo Tin mừng là tình yêu. Khi tôi mến phục một người tài năng đức độ thì tôi cũng muốn chia sẻ kinh nghiệm ấy cho hàng xóm, đồng thời cũng muốn cho họ làm quen với người ấy, vì biết chắc người ấy muốn làm điều tốt cho hết mọi người. Việc loan báo Tin mừng bắt nguồn từ tình yêu đồng loại, vì muốn cho họ được điều tốt. Việc loan báo Tin mừng không loại trừ việc đối thoại với các nền văn hóa và tôn giáo, để nhận ra những dấu vết của sự thật đã được Thánh Linh gieo vãi. 4/ Giữ gìn đức tin (x. GLCG số 162: kiên trì trong đức tin) Thoạt tiên, xem ra điều này đã quá hiển nhiên rồi. Tuy vậy,

286

Thần Học Đức Tin

các sách luân lý đã muốn xếp vào một mục riêng, nhằm cảnh giác các tín hữu hãy tránh những cơ hội nguy hiểm có thể làm đức tin bị lung lay (x. Rm 16,17; 2Cr 11,3; Ep 5,6-11; Cl 2,6-8; 2Ga 7-11; ...), chẳng hạn như đọc những sách báo trái nghịch với đức tin Công giáo, lui tới những môi trường chống phá đạo. Những cơ hội ấy có thể dẫn đến nguy cơ làm mất đức tin. Phải thú nhận rằng hoàn cảnh sinh sống hiện nay đã thay đổi nhiều so với thời xưa, chẳng hạn như tại châu Âu, khi mà Giáo hội Công giáo có ảnh hưởng mạnh trên các nền văn hóa giáo dục. Tại những nơi mà các tín hữu Công giáo chỉ là thiểu số, hoặc tại những nơi mà họ phải chung sống với những người thuộc nhiều quan điểm tôn giáo chính trị khác, thì sự “đề phòng” trở nên khó khăn hơn. Dù sao, chính trong bối cảnh ấy, mà người tín hữu cần được đào tạo để được trưởng thành hơn về đức tin ngõ hầu có khả năng trình bày cho người khác “những lý lẽ của niềm hy vọng của mình” (1Pr 3,14). II. Những tội trái nghịch đức tin (GLCG 2087-2089) Có nhiều thứ tội và cấp độ, được các tác giả phân loại dựa theo nhiều tiêu chuẩn khác nhau: 1/ Xếp theo sự trái nghịch với nghĩa vụ sống và tăng trưởng đức tin vừa được nói trên đây. Chúng ta có thể liệt kê nhiều loại. - Tội trái nghịch với bổn phận phải tin: vô tin, phản đạo. - Tội trái nghịch với bổn phận tuyên xưng đức tin: giấu giếm, chối bỏ đức tin. - Tội trái nghịch với bổn phận phải bồi dưỡng đức tin: không học hỏi giáo lý, đưa đến sự dốt nát về đạo lý. - Tội trái nghịch với bổn phận phải tránh những cơ hội nguy

Những thăng trầm của đức tin

287

hiểm cho đức tin. 2/ Xếp theo mặt tiêu cực hoặc tích cực - Tiêu cực là bỏ không làm (omissio): không chu toàn bổn phận phải học hỏi, tuyên xưng, truyền bá ... - Tích cực là phạm tội chống lại đức tin (commissio). Người ta thường kê ra bốn tội: vô tín, lạc giáo, bội giáo, ly giáo, tuy rằng danh sách còn có thể kéo dài hơn nữa. A. Vô tín (infidelitas) Theo nguyên ngữ, in-fidelitas có nghĩa là “không trung thành” (bất trung, bất tín). Tuy nhiên, theo nghĩa chuyên môn, infidelitas có nghĩa “không tin, thiếu đức tin”. Tiếc rằng trong quá khứ, từ ngữ infideles được gán cho những người “ngoại đạo” cũng như “vô đạo”, và rồi người ngoại đạo cũng bị kết án là “bất tín”. Thánh Tôma Aquinô phân biệt hai hoàn cảnh infidelitas: tiêu cực (negativa, materialis) và tích cực (positiva, formalis). 1/ Hoàn cảnh thứ nhất (những người ngoại đạo) không phải là tội luân lý: họ không tin đạo vì họ không được biết đạo, không được nghe giảng đạo. Do đó họ không có lỗi. 2/ Hoàn cảnh thứ hai là từ chối không tin chân lý mạc khải. Trường hợp này mới có trách nhiệm luân lý. Tuy nhiên, trên thực tế, thật khó xác định khi nào một người phạm tội khước từ không chịu tin theo chân lý. Trong các sách Tin mừng, chúng ta đọc thấy những lời kết án những kẻ “không tin” vào thời Đức Giêsu cũng như vào thời các thánh tông đồ: “Ai không tin thì đã bị xét xử rồi” (Ga 3,18); “Ai không tin sẽ bị luận phạt” (Mc 16, 16).114 Trong Kinh thánh, những kẻ “không tin” không hẳn là người vô thần, nhưng là những người tuy là có đạo nhưng thiếu tin tưởng vào Chúa, cụ thể là dân Do thái (trong Cựu ước và vào thời Đức Giêsu), và cách riêng là các 114

288

Thần Học Đức Tin

Phải chăng tất cả mọi người Do thái đều mắc tội “không tin” bởi vì họ đã không nhìn nhận Đức Giêsu là Con Thiên Chúa? Thật là khó nói, bởi vì họ quá tin vào Thiên Chúa duy nhất, cho nên họ không thể nào chấp nhận một ai ngang hàng với Thiên Chúa! Một cách tương tự như vậy, thật khó mà kết án tất cả những ai không đón nhận lời giảng của các thánh tông đồ là từ chối chân lý! Có lẽ một hình thức tội trái nghịch với đức tin dễ hiểu hơn là tội “thờ ngẫu tượng” (idolatria). Các ngôn sứ đã nhiều lần tố cáo dân Do thái về tội này. Kể cả những Kitô hữu cũng có thể rơi vào tình trạng ấy, khi mà tuy họ khai rằng mình tin vào Thiên Chúa, nhưng thực sự họ thờ lạy các thần tượng khác: Tiền Tài, Danh vọng... nghĩa là họ thần thánh hóa những gì không phải là Thiên Chúa (GLCG số 2113). B. Lạc giáo, bội giáo, ly giáo Bộ giáo luật ở điều 751 đã định nghĩa ba tội đó như sau: “Gọi là lạc giáo khi cố chấp phủ nhận, sau khi đã chịu phép Rửa tội, hay nghi ngờ một chân lý phải tin nhận theo đức tin thần linh và Công giáo; gọi là bội giáo nếu chối bỏ toàn bộ đức tin Kitô giáo; còn ly giáo là từ bỏ sự tùng phục Đức Giáo hoàng hay từ chối sự hiệp thông với các phần tử của Giáo hội đang thụ quyền Ngài.” Định nghĩa này được trích lại trong sách Giáo lý Hội thánh Công giáo số 2089. Nên biết ba tội “lạc giáo, bội giáo, ly giáo” không chỉ là tội luân lý mà còn là những tội hình sự, mang theo những tông đồ, nhiều lần bị trách là incredulus. apistia (unbelief, lack of faith, disbelief) 11 lần: Mt (1 lần) 13,58; Mk (3 lần): 6,6; 9,24; 16,14; Rm (4 lần): 3,3; 4,20; 11,20.23; 1Tm 1,13; Hr (2 lần): 3,12.19.- apistos (unfaithful, faithless, incredible) 21 lần: Mt 17,17 // Mc 9,19 // Lc 9,41; Ga 20,27 (Tôma); 1Cr 9 lần: 7,12-15; 10,27; 14,22-24; 2Cr (3 lân) 4,4;6,14; 1Tm 5,8; Tt 1,15; Kh 21,8. - oligopistos (of little faith, ít tin, 6 lần): Mt 6,30; 8,26; 14,31; 16,8; 17,27; Lc 12,28.

Những thăng trầm của đức tin

289

chế tài của giáo luật.115 Chúng ta sẽ tìm hiểu mỗi dạng thức vừa nói 1/ Lạc giáo, dịch từ haeresis (gốc Hy lạp: hairesis, có nghĩa là chọn lựa, tuyển lọc), bao hàm một yếu tố khách thể và một yếu tố chủ thể. a) Về khách thể, nó là sự chối bỏ hay nghi ngờ một tín điều; vì vậy, nếu ai chối một đạo lý chưa được tuyên bố là tín điều thì không thể bị quy là lạc giáo. b) Về phía chủ thể, thì sự chối bỏ hay nghi ngờ phải mang tính cách cố chấp (pertinax), nghĩa là có ý thức và tự do, và kéo dài bền bỉ; vì thế một ý tưởng nghi ngờ thoảng qua đầu óc chưa đủ để cấu thành lạc giáo. Ngoài ra cũng nên biết là chỉ mắc tội lạc giáo sau khi đã rửa tội. Vì thế không thể kết tội lạc giáo cho một người Hồi giáo không nhìn nhận Đức Kitô là Thiên Chúa. 2/ Bội giáo (apostasia) Bội giáo (apostasia, gốc từ tiếng Hy lạp có nghĩa từ bỏ, chống đối; vì thế cũng được dịch ra tiếng Việt là: phản giáo, bỏ đạo) thì nặng hơn lạc giáo, bởi vì không phải chỉ phủ nhận một vài chân lý, nhưng là chối bỏ toàn bộ tất cả các đạo lý Công giáo. 3/ Ly giáo (schisma) Ly giáo (schisma, gốc tiếng Hy lạp có nghĩa là chia ra, xé ra, tách rời) thì không liên can tới các chân lý đức tin cho bằng sự thông hiệp bác ái. “ly giáo là việc từ chối tuân phục và hiệp thông với đức giáo hoàng và những phần tử liên kết với ngài”.

Chiếu theo điều 1364, ai mắc các tội vừa kể thì sẽ đương nhiên bị tuyệt thông. Bộ giáo luật còn dự liệu những chế tài khác nữa ở các đ. 194 §1,2; 694 §1,2; 1041,2; 1044 §1,2; 1184 §1,1. 115

290

Thần Học Đức Tin

Nên biết là từ sau công đồng Vaticanô II, các tín hữu của Giáo hội Chính thống và Tin lành không bị coi là ly giáo hay lạc giáo nữa (Sắc lệnh Unitatis redintegratio số 3, được sách Giáo lý Hội thánh Công giáo trích dẫn ở số 818). Có thể là những người khởi xướng các phong trào đã rơi vào tội ấy, nhưng không thể cáo buộc tội này cho những người sinh ra và được giáo dục trong các cộng đoàn ấy. C. Mê tín và cuồng tín Những tội vừa kể trên đây tương phản với đức tin, hoặc không chấp nhận đức tin, hay là chối bỏ đức tin. Bây giờ chúng ta ta bước sang những dạng thức lệch lạc của đức tin, đó là mê tín (superstitio) và cuồng tín (fanatismus). Họ nghĩ rằng mình có đức tin, nhưng trên thực tế họ đã bóp méo đức tin. 1/ Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo viết về mê tín như sau: “Mê tín là sự lệch lạc trong cảm thức tôn giáo và trong cách thể hiện cảm thức này. Mê tín cũng có thể xảy ra ngay trong việc thờ phượng Thiên Chúa chân thật, chẳng hạn như gán một ý nghĩa ma thuật cho một số thực hành vốn chính đáng hay cần thiết. Nếu cho rằng chỉ cần đọc các lời kinh hay làm các dấu chỉ bí tích là có hiệu quả, bất chấp những tâm tình phải có bên trong, là người ta rơi vào mê tín” (số 2111). Sự mê tín cũng dễ dẫn đến bói toán ma thuật (số 2115-2117). 2/ Sự cuồng tín có thể hiểu về thái độ của người thực hành đạo theo những cảm xúc bồng bột, thay vì được hướng dẫn bởi đạo lý. Thời nay, từ “cuồng tín” thường được hiểu về những người thiếu bao dung đối với những người khác niềm tin với mình, hoặc tệ hơn nữa, sử dụng bạo lực để áp đặt niềm tin. Họ muốn chiếm hữu chân lý thay vì để cho chân lý chiếm hữu. Một nguy cơ của “mê tín” và “cuồng tín” là lợi dụng tôn giáo vào những mục tiêu thương mại hoặc chính trị.

Những thăng trầm của đức tin

291

III. Não trạng văn hóa thời đại Dựa theo các sách thần học luân lý, chúng ta đã điểm qua những tội trái nghịch với việc thực hành đức tin. Ngày nay, dưới phương diện mục vụ, thiết tưởng cũng nên lưu ý đến môi trường bất lợi cho việc thực hành đức tin vào thời nay, tựa như: thái độ lãnh đạm tôn giáo, não trạng duy lý hay duy vật, chủ thuyết hoài nghi (không chấp nhận có chân lý tuyệt đối), môi trường thế tục hóa... Ở đây, chúng tôi muốn dừng lại ở hiện tượng vô thần. Công đồng Vaticanô II, trong hiến chế Vui mừng và Hy vọng (Gaudium et spes) số 7, đã nhìn nhận rằng ngày nay hiện tượng vô thần đã lan tràn vào nhiều lãnh vực: văn hóa (văn chương, nghệ thuật, khoa học nhân văn, lịch sử), xã hội (pháp luật); đặc biệt là nó chống lại Thiên Chúa nhân danh sự tiến bộ khoa học và sự thăng tiến con người. Tuy nhiên, nên lưu ý về từ ngữ. Trong tiếng Việt “vô thần” có nghĩa là phủ nhận các thần linh, dịch bởi từ athée (tiếng Pháp). Tuy nhiên, trong văn hóa Âu châu hiện đại, từ atheismus không phải là chối bỏ sự hiện hữu của các thần linh,116 nhưng là chối bỏ sự hiện hữu của Thiên Chúa theo quan niệm của Kitô giáo. Hiểu như vậy, người “vô thần” tuy chống Thiên Chúa, nhưng vẫn tin tưởng vào các thần linh khác, có khi do chính họ đã bày ra, quen gọi là các “thần tượng”, chẳng hạn như một lãnh tụ, một ngôi sao điện ảnh, một cầu thủ đá banh, hoặc là một khẩu hiệu “Tự do”, “Tiến bộ”, “Quyền lực”, ... Ở đây, chúng chỉ nói đến “vô thần” theo nghĩa thần học, nghĩa là “phủ nhận Thiên

Nên biết rằng trong bản Hy lạp Tân ước, từ atheos chỉ xuất hiện một lần (Ep 2,12), và mang ý nghĩa khác với thời nay (dân ngoại không có Thiên Chúa: no God, without God). 116

292

Thần Học Đức Tin

Chúa”. A. Các hình thức vô thần Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo đã dành các số 2123-2125 để bàn về “vô thần”. Thực ra đây là một hiện tượng phức tạp của thời đại chúng ta. Trong hiến chế Vui mừng và Hy vọng (số 19 và 20), công đồng Vaticanô II đã phân tích nhiều dạng thức vô thần dựa theo các động lực của nó (chủ trương vô thần phát xuất từ đâu?). Ta có thể xếp vào bốn nhóm: vô tri; nhân bản; chiến đấu; dửng dưng. 1/ Vô tri (agnosticisme). Con người không thể nói gì về Thiên Chúa hết. Trong nhóm này, chúng ta có thể phân biệt nhiều khuynh hướng: a) Đứng đầu là thái độ của các “tôn giáo vô tri”, mà điển hình là Phật giáo nguyên thủy. Đây là thái độ kính cẩn trước Thực tại siêu việt, chấp nhận giới hạn của ngôn ngữ loài người. Chúng ta cũng có thể nhận thấy khuynh hướng tương tự nơi các nhà thần bí Kitô giáo theo chủ trương “thần học phủ định” (théologie négative, apophatique). b) Kế đến, chúng ta có thể kể đến những khuynh hướng triết học chủ trương rằng lý trí con người không thể khẳng định về những thực tại siêu nghiệm. Khuynh hướng này bắt nguồn từ triết gia Immanuel Kant, khi ông chủ trương rằng Thiên Chúa không thuộc về lý trí thuần túy, nhưng thuộc về lý trí thực tiễn. Sự phân biệt này đưa đến chủ trương agnosticisme.117 c) Thuyết vô tri mang một hình dạng mới nơi triết học phân Hình như từ agnosticisme mới được sáng chế do Thomas Henry Huxley năm 1869. Agnostic đối lại với gnostic. 117

Những thăng trầm của đức tin

293

tích (analytical philosophy): ngôn ngữ về tôn giáo vượt trên khả năng kiểm chứng, vì thế không thể kết luận rằng nó đúng hoặc sai. Tác giả tiêu biểu: Ludwig Wittgenstein. d) Chúng ta cũng có thể kể thêm thái độ duy nghiệm của các nhà khoa học. Do phương pháp làm việc, khoa học thực nghiệm không đả động đến những thực thể siêu khả giác. 2/ Vô thần nhân bản (athéisme humaniste), hay nhân bản vô thần (humanisme athée). Có thể nói được rằng hầu hết các thuyết vô thần hiện đại khởi đi từ một tiền đề nhân văn: sự chối bỏ Thiên Chúa là điều kiện cho sự thăng tiến con người; lý do là vì Thiên Chúa làm cản trở sự tự trị của con người. Có ý kiến cho rằng chủ trương vô thần hiện đại bắt đầu từ những phạm trù của ông Kant, khi ông phân biệt giữa lý trí thuần túy và lý trí thực tiễn. Thiên Chúa thuộc về lý trí thực tiễn chứ không thuộc về lý trí thuần túy; điều này mở đường cho thuyết vô tri (mặc dù có lẽ Kant, đồ đệ trung thành với Lutêrô, chỉ muốn giải thoát đức tin khỏi những phạm trù của thần học). Hơn thế nữa, khi bàn về hệ thống luân lý, ông đưa ra sự phân biệt giữa “tự trị” (autonomous) và “ngoại trị” (heteronomous): con người phải đi theo quyết định của lương tâm mình, chứ không đi theo một quy tắc áp đặt từ bên ngoài. Trong bối cảnh này, xem ra Thiên Chúa là một yếu tố ngoại trị, cản trở sự tự do của con người. Có điều là sau khi đã lật đổ Thiên Chúa, con người đã dành địa vị độc tôn cho lý trí, thiên nhiên, vật chất, nhà nước. Chắc hẳn một tác phẩm gây tác dụng mạnh mẽ đối với chủ trương nhân bản vô thần là cuốn “Bản chất đạo Kitô” (Das Wesen des Christentum, 1941) của Ludwig Feuerbach, khi ông lật ngược lại thuật ngữ Kinh thánh: không phải con người là hình ảnh Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa là hình ảnh của con người.

294

Thần Học Đức Tin

Con người mới thật là Thiên Chúa của chính mình. Con người đã gán cho Thiên Chúa bản tính tuyệt đối của mình. Đã đến lúc con người phải lấy lại cái gì là của mình. Sau khi Feuerbach đã loại trừ Thiên Chúa rồi, đến lượt Karl Marx sẽ giải quyết những vấn đề tồn đọng của loài người, đứng đầu là cảnh lầm than của quần chúng. Trên nguyên tắc, lẽ ra chỉ cần giải quyết cảnh lầm than nghèo đói thì tất nhiên tôn giáo sẽ tan biến. Tuy nhiên, những người áp dụng thuyết Marx (tựa như Lenin) thì chủ trương rằng cần phải diệt tôn giáo thì mới có thể giải quyết được cảnh lầm than. Dù sao, một điều không thể chối là thế giới mà Marx muốn xây dựng là thế giới vật chất chứ không phải là thế giới tâm linh theo quan điểm Kitô giáo, bị đồng hóa với giai cấp tư sản bóc lột. Theo các nhà phê bình, Marx không quan tâm lắm đến vấn đề Thiên Chúa vì cho rằng Feuerbach đã nói đủ rồi. Marx để thời giờ lo chuyện xã hội hơn là chuyện thần học. Đường hướng thần học được tiếp tục nơi Friedrich Nietzsche, khi ông tuyên bố “Thiên Chúa đã chết rồi”. Câu nói này có thể được giải thích theo nghĩa thần học, như là phá đổ những hình thức trình bày méo mó về Thiên Chúa. Thế nhưng trên thực tế, sau khi loại bỏ Thiên Chúa, chỉ còn lại con người, và con người trở thành bá chủ của con người dưới nhãn hiệu là Siêu nhân. Cuối cùng, siêu nhân là đảng, là nhà nước, như lịch sử thế kỷ XX của châu Âu đã cho thấy. 3/ Vô thần chiến đấu (athéisme militant): chống lại các tôn giáo, bị ghép tội truyền bá mê tín, phản khoa học, có hại cho xã hội. Điển hình là các chủ nghĩa cộng sản bắt đầu từ cuộc cách mạng bên Nga. 4/ Dửng dưng (indifférentisme). Không cần đặt vấn đề làm gì cho thêm bận tâm: dù có hay không có Thiên Chúa, cuộc đời

Những thăng trầm của đức tin

295

cũng chẳng thay đổi! Thái độ này đôi khi cũng được đặt tên là “vô thần thực hành” (athéisme pratique): sống dường như không có Thiên Chúa.118 Trên thực tế, nguồn gốc của thái độ này khá phức tạp: có thể đó là con người duy vật không bận tâm đến các thực thể tâm linh; nhưng cũng có thể đó là con người thất vọng do những gương mù của các tôn giáo (các cuộc chiến tranh tôn giáo) hay của các tín đồ, cách riêng của cấp lãnh đạo tôn giáo. Một điều đáng lo ngại là “Văn hóa vô thần” được truyền bá dưới nhiều hình thức khác: qua những trào lưu hiện sinh vô thần (như là Sartre, Camus), qua những chương trình giáo dục dựa trên lý trí thuần túy thực nghiệm. Đặc biệt, các đức giáo hoàng Gioan Phaolô II và Bênêđictô XVI cho thấy văn hóa hậu hiện đại gây ra một tâm thức trái ngược với tôn giáo, khi đề cao tính chủ quan (không chấp nhận chân lý khách thể), hoặc tính hoài nghi trước mọi chân lý (thuyết tương đối). B. Giáo hội đối với hiện tượng vô thần Qua hiến chế Vui mừng và Hy vọng, ta thấy cách tiếp cận của Giáo hội Công giáo đối với hiện tượng vô thần khá tế nhị. 1/ Dĩ nhiên, tất cả các chủ thuyết vô thần đều trái ngược với niềm tin căn bản của Kitô giáo, bởi vì họ không nhìn nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa là Đấng Tạo dựng vũ trụ và con người, cũng như Đấng đã ấn định trật tự cho vạn vật. 2/ Tuy nhiên, tiếp theo đức thánh cha Gioan XXIII, công đồng Vaticanô II phân biệt “sự sai lầm” và “người sai lầm”. Giáo hội phi bác sự sai lầm nhưng yêu thương người sai lầm; do đó cần

Etsi deus non daretur. Công thức này của triết-gia Hòa-lan Hugo Grotius (1583-1645) có hai nghĩa: a) về mặt thực-hành: “như thể là không có Thiên Chúa”; b) về mặt lý-thuyết: “cho dù không có Thiên Chúa đi nữa”. 118

296

Thần Học Đức Tin

tiến lại gần để tìm hiểu họ. - Khi biết rằng một nguyên nhân của chủ trương vô thần hiện đại là lòng khao khát tự do, phẩm giá, công đồng trình bày rằng việc nhìn nhận Thiên Chúa nâng cao phẩm giá con người, chứ không hạ giá con người. Đặc biệt, nhờ mầu nhiệm Nhập thể của Đức Kitô, Thiên Chúa đã chia sẻ nếp sống của con người để nâng cao giá trị của phẩm giá, lao động, tình liên đới. - Khi biết rằng nhiều người không khước từ chính Thiên Chúa nhưng chỉ chối bỏ những hình ảnh méo mó của Thiên Chúa xuyên qua lối sống của các tín đồ, công đồng kêu gọi các mà các tín đồ đã hoán cải cuộc đời ngõ hầu chân lý được rạng ngời hơn. 3/ Mặt khác, công đồng cũng nhận biết rằng không dễ gì duy trì được sự quân bình về thái độ sống đức tin giữa đời. - Cần phải nhìn nhận một sự “tự trị của các thực tại trần thế” (GS số 36 và 59), nghĩa là giá trị nội tại của các thực thể trần thế, mà ta có thể khám phá và điều khiển qua những khoa học tự nhiên. Nói khác đi, không nên “thần thánh hóa” các hiện tượng thiên nhiên, kinh tế, chính trị. - Mặt khác, việc nhìn nhận sự tự trị của các thực thể kinh tế, chính trị không có nghĩa là không cần đếm xỉa đến trật tự luân lý do chính Đấng Tạo hóa đã ấn định. Đây là sự căng thẳng giữa “thế tục hóa” (saecularisatio) và “duy thế tục” (saecularismus) đã được nhiều vị giáo hoàng nói đến. 4/ Trên lý thuyết, người ta dễ phân chia hai hạng người “hữu thần” và “vô thần”. Trên thực tế, biên cương không rạch ròi như vậy. Cha Karl Rahner nói rằng có nhiều người ngoại đạo nhưng kỳ thực họ là những “Kitô hữu ẩn danh” (anonymous Christians). Chúng ta cũng có thể nói ngược lại: có những người

Những thăng trầm của đức tin

297

mang tên là Kitô hữu nhưng kỳ thực là những người “vô thần ẩn danh” (anonymous unbelievers),119 khi mà họ chỉ giới hạn sinh hoạt tôn giáo vào đôi ba kinh kệ, còn trong cuộc sống hằng ngày thì họ sống “dường như không có Thiên Chúa”. 5/ Chúng ta hãy tiến thêm một bước nữa. “Vô thần” và “hữu thần” không phải là hai hạng người đối chọi nhau, nhưng nằm ở ngay trong chính con tim của chúng ta. Nhiều người tín hữu cũng trải qua những cảm nghiệm về sự vắng lặng của Thiên Chúa, như chúng tôi đã nhắc đến trong chương trước. Khi đọc thánh vịnh, chúng ta thấy câu hỏi: “Thiên Chúa ở đâu?”, không phải chỉ là lời thách thức trêu chọc từ phía dân ngoại, mà thậm chí của chính người tín hữu nữa: “Châu lệ là cơm bánh đêm ngày, khi thiên hạ thường ngày cứ hỏi: Này Thiên Chúa ngươi đâu?” (Tv 42,4.11). “Lạy Chúa, xin tỉnh giấc. Ngài cứ ngủ được sao? Xin chỗi dậy đi nào, đừng đuổi xua mãi mãi! Sao Ngài còn ẩn mặt, quên rằng chúng con bị khổ cực đọa đày” (Tv 44,24-25). Biết như vậy, chúng ta sẽ thông cảm hơn đối với những người vô thần, vô tín ngưỡng, đồng thời chúng ta cũng cố gắng thanh lọc liên lỉ những hình ảnh lệch lạc về Thiên Chúa trong tư tưởng hoặc thái độ của chúng ta: những hình ảnh đó cũng là ngẫu tượng.

Michael Paul Gallagher, “Nuevos horizontes ante el desafio de la increencia”, Razón y Fe 232 (1995) 279-293. 119

Kết luận

Khi đọc lại lịch sử thần học, chúng ta nhận thấy rằng TIN là một thực thể khá phức tạp. Các tác giả đã tìm cách phân tích ra nhiều khía cạnh khác nhau để nghiên cứu: khía cạnh “khách thể” (đạo lý đức tin: fides quae creditur), khía cạnh “chủ thể” (niềm tin: qua creditur). Tập sách này đào sâu khía cạnh chủ thể hơn là khía cạnh khách thể. Tuy nhiên, sau khi phân tích rồi, cần phải tổng hợp lại: Tin là gắn bó với Chúa, và muốn gắn bó với Chúa thì cần biết Chúa là ai, Chúa muốn gì, Chúa đã làm gì. Nói khác đi, Tin Chúa cũng là tin vào Chúa và tin vào những điều Chúa dạy. Khi đi vào bản chất của đức tin, chúng ta gặp thấy những thuật ngữ: “ánh sáng đức tin” (lumen fidei) “cặp mắt đức tin” (oculus fidei), “cảm thức đức tin” (sensus fidei). Những thuật ngữ này muốn nêu bật vai trò của đức tin đối với cuộc sống: nhờ đức tin, chúng ta có một cái nhìn mới về Thiên Chúa, một phán đoán mới về lịch sử, một sự nhạy bén mới đối với những thực tại thần linh.

300

Thần Học Đức Tin

Đức thánh cha Bênêđictô XVI đã mở đầu văn kiện tuyên bố Năm Đức tin với thuật ngữ “Cánh cửa đức tin” (porta fidei), trích từ Sách Công vụ Tông đồ 14,27. Thuật ngữ này có thể hiểu theo hai nghĩa: một đàng đức tin là cánh cửa đưa chúng ta vào những thực tại thần linh; đàng khác, chúng ta cần phải tìm những cánh cửa dẫn đến đức tin. Như đã nói trong nhập đề, chúng tôi không chủ ý viết sách này để giới thiệu đức tin Kitô giáo cho những người ngoại đạo, nhưng chỉ muốn cùng nhau suy nghĩ với những người đã có đức tin về những giáo huấn của Kinh thánh và Giáo hội về đức tin. Chúng ta cám ơn Chúa vì hồng ân đức tin đã lãnh nhận. Tuy nhiên, chúng ta cũng thường nghe nói đến trường hợp của những người đã “mất đức tin”. Thiết tưởng nói như vậy không được chính xác cho lắm. Chúng ta đừng nên quan niệm đức tin như một viên ngọc bỏ trong túi, và chẳng may nó rớt mất! Không phải thế, đức tin không phải là một thực thể cứng nhắc, bất động. Đức tin hòa quyện với đời sống của chúng ta, phần nào cũng như sức khỏe. Chúng ta có thể “mất sức khỏe” theo nghĩa là sức khỏe đã giảm sút, chứ không phải hoàn toàn biến mất (bao lâu ta còn thoi thóp thở được). Chúng ta đã phân biệt “đức tin” với “lòng tin, niềm tin, tín ngưỡng” nhằm nêu bật rằng “đức tin” là một ơn siêu nhiên do Chúa ban, khác với những tâm tình trong cuộc sống hằng ngày (tin tưởng, tín thác). Tuy nhiên, trên thực tế, tất cả những thực tại ấy đều ảnh hưởng lẫn nhau. Tâm lý học cho biết rằng em bé dễ đón nhận đức tin vào Thiên Chúa trong một bầu khí mà bé được hưởng sự chăm sóc trìu mến của cha mẹ: sự tín thác vào cha mẹ mở ra đến sự tín thác vào Cha trên trời. Đối lại, không thiếu những trường hợp những người lìa bỏ Giáo hội khi họ mất tin tưởng vào những người lãnh đạo cộng đoàn: họ gắn liền đức tin vào Thiên Chúa với niềm tin vào con người. Dù sao chúng ta cũng có thể nói ngược lại: nhờ tin vào Thiên Chúa mà chúng ta tin vào con người hơn. Các ngôn sứ không ngần ngại so sánh sự

Kết luận

301

chung thủy vợ chồng với sự chung thủy với giao ước: cả hai có liên hệ với nhau. Mặt khác, khi đọc lại những trang Kinh thánh Cựu ước và Tân ước, khi đọc lại những bài tự thuật của nhà thần bí, chúng ta nhận thấy rằng kể cả những ngôn sứ và những bậc thánh cũng trải qua những giây phút thử thách đức tin. Họ cảm thấy sự vắng lặng của Thiên Chúa. Đức tin không còn là “ánh sáng” nhưng trở thành “đêm tối”. Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo không ngại sử dụng thuật ngữ “cuộc chiến đấu của việc cầu nguyện” (số 2725) để nhắc nhở rằng sự cầu nguyện cũng như đức tin là một cuộc chiến đấu. Chúng ta phải chiến đấu chống lại những cám dỗ bên ngoài, chống lại tính lười biếng của chúng ta đã đành, những cũng có thể nói rằng chiến đấu chống lại Thiên Chúa, giống như ông Giacob đã vật lộn suốt đêm với một nhân vật huyền bí (số 2573). Cảm nghiệm về sự vắng lặng của Thiên Chúa có thể giống như cảm nghiệm của một người “mất đức tin”. Nhưng kết quả của cuộc thanh luyện thì ngược lại: nhà thần bí nhận được một ánh sáng mới, để nhìn thấy Thiên Chúa trong mọi vật. Đó là lý tưởng mà đức thánh Gioan Phaolô II đã trưng bày cho toàn thể Dân Thiên Chúa trong tông thư Novo millennio ineunte vào đầu thiên nhiên kỷ thứ ba: chiêm ngưỡng dung nhan của Đức Kitô (từ số 16 đến số 28), qua việc cầu nguyện, lắng nghe Lời Chúa, cử hành phụng vụ, cũng như trên khuôn mặt của những người nghèo. Thiết tưởng vị trí quan trọng của đức tin là ở chỗ đó: nó là cánh cửa đưa chúng ta vào huyền nhiệm của Thiên Chúa, hé mở cho chúng ta sự chiêm ngưỡng Thiên Chúa, hạnh phúc của các phúc nhân trên trời (xc. GLCG số 163).

302

Thần Học Đức Tin

Để kết thúc, chúng tôi xin dịch lời cầu nguyện xin ơn đức tin mà đức thánh cha Phaolô VI đã đọc ở buổi tiếp kiến chung ngày 30/10/1968, (như vang âm của Năm Đức tin kỷ niệm 1900 năm cuộc tử đạo của hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô, 29/6/1967 – 29/6/1968): Lạy Chúa, con tin: con muốn tin vào Chúa. Lạy Chúa, xin cho đức tin của con được trọn vẹn, không dè giữ; xin cho đức tin thấm nhập vào tư tưởng của con, nhận định của con về những công việc của Chúa và của loài người. Lạy Chúa, xin cho đức tin của con được tự do: nghĩa là với sự tham gia gắn bó, chấp nhận những sự khước từ và những nghĩa vụ mà đức tin đòi hỏi, và biểu lộ quyết định cao vời nhất của bản thân qua câu nói: “Lạy Chúa, con tin vào Chúa”. Lạy Chúa, xin cho đức tin của con được chắc chắn; chắc chắn nhờ những bằng chứng thích hợp và nhờ chứng tá nội tâm của Thánh Linh, chắc chắn nhờ ánh sáng trấn an của nó, nhờ kết luận an hòa của nó, nhờ sự hấp thụ yên hàn của nó. Lạy Chúa, xin cho đức tin của con được vững mạnh; không sợ hãi những vấn đề trái nghịch, và mang thêm kinh nghiệm cho cuộc sống khao khát ánh sáng; không sợ hãi những chống đối của kẻ tranh biện, chống đối, khước từ, phủ nhận nó; nhưng được kiên cường trong bằng chứng của chân lý của Chúa, đương đầu với sự chỉ trích, được củng cố trong sự khẳng định liên tục vượt lên những khó khăn của sự biện bác nằm trong cuộc sống trên đời này.

Kết luận

303

Lạy Chúa, xin cho đức tin của con được vui tươi và mang lại an bình và hoan hỉ cho tinh thần, khiến nó có khả năng cầu nguyện với Thiên Chúa và giao tiếp với loài người, ngõ hầu chiếu toả hạnh phúc nội tâm nơi cuộc đàm đạo thiên linh hay trần tục. Lạy Chúa, xin cho đức tin của con được năng động, và mang lại cho đức ái những lý do chiếu toả đạo đức, nhờ thế nó trở thành tình bạn chân thật với Chúa, và trở nên chứng tá liên tục cho Chúa trong các việc làm, trong những đau khổ, và nuôi dưỡng hy vọng đang khi chờ đợi sự mạc khải cuối cùng. Lạy Chúa, xin cho đức tin của con được khiêm tốn, không tự hào vì được lập trên kinh nghiệm của tư tưởng hay cảm tình của con, nhưng biết nương tựa vào chứng tá của Thánh Linh, và không có bảo đảm nào tốt hơn là ngoan ngoãn với Truyền thống và với uy tín của huấn quyền Hội thánh. Amen. Kỷ niệm 25 năm tuyên phong hiển thánh cho 117 vị chứng nhân đức tin tại Việt Nam 19 tháng 6 năm 2013

Thư tịch 1. Từ điển J. Alfaro, “Fede”, in: Sacramentum Mundi III, Brescia, Queriniana, 1974, 729-750. O. Becker - O. Michel, “Fede” in: C. Coenen (cura), Dizionario dei concetti biblici del Nuovo Testamento, EDB Bologna, p. 619-637. G. Bof, “Fede” in: G. Barbaglio - S. Dianich (cura), Nuovo Dizionario di Teologia, Paoline Roma 1979, p.508-531. A. De Sutter - M. Caprioli, “Fede” in: E. Ancilli (cura), Dizionario enciclopedico di spiritualità, Citta Nuova Roma 1990, 990-998. J. Duplacy, “Fede” in: Xavier Leon Dufour (dir.), Dizionario di Teologia Biblica, Marietti Torino 1971, col.380-385. G. Langevin, “Fe” in: R.Latourelle - R. Fisichella (dir.), Diccionario de Teologia Fundamental, Paulinas Madrid 1992, p.472-479. B. Marconcini, “Fede” in: P. Rossano (cura), Nuovo Dizionario di Teologia Biblica, Paoline Cinisello Balsamo 1988, p.536-552.

306

Thần Học Đức Tin

M. Seckler, “Fe”, in H. Fries (dir), Conceptos Fundamentales de la Teología, Cristiandad, Madrid, 1967, tomo II, p.128152. M. Seckler - C. Berchtold, “Fede” in: P. Eicher (cura), Enciclopedia Teologica, Queriniana, Brescia, 1989, p.355-368. 2. Sách A.M. Besnard, Vie et combats de la foi, Cerf Paris 1972. H. Fries, Teologia fondamentale, Queriniana Brescia 1987. J. Ratzinger, Introduzione al cristianesimo, Queriniana Brescia 1969. S. Sabugal, Credo. La fe de la Iglesia, Ed. Monte Casino, Zamora 1986. F. Sebastian Aguilar, Antropologia y teologia de la fe cristiana, Sigueme Salamanca 1973. J. Truetsch - J. Pfammatter, “La fe”, in Mysterium salutis. Manual de Teologia como Historia de la salvacion, Volumen I, Tomo II, Cristiandad Madrid 1969, p.877-993. H. Waldenfels, Teologia fondamentale, Paoline Cinisello Balsamo 1988.

ĐỜI SỐNG TÂM LINH Tập I DẪN NHẬP VÀO CÁC KHOA HỌC TÔN GIÁO Tập II NHỮNG ĐƯỜNG HƯỚNG LINH ĐẠO NỔI BẬT TRONG LỊCH SỬ KITÔ GIÁO Tập III THẦN HỌC VỀ ĐỜI SỐNG TÂM LINH KITÔ GIÁO Tập IV CHIỀU KÍCH HUYỀN BÍ TRONG CÁC TÔN GIÁO Tập V TRUYỀN THỐNG TÂM LINH TRONG CÁC GIÁO HỘI ĐÔNG PHƯƠNG Tập VI NHỮNG HÌNH THỨC TU TRÌ KITÔ GIÁO Tập VII CẦU NGUYỆN KITÔ GIÁO: LỊCH SỬ VÀ THẦN HỌC Tập VIII NHÂN SINH QUAN KITÔ GIÁO Tập IX BÍ TÍCH TÌNH YÊU Tập X CỬ HÀNH BÍ TÍCH TÌNH YÊU Tập XI THẦN HỌC ĐỨC TIN