Data Loading...
Phần I: DẠNG ĐỀ ĐỌC HIỂU Đề 1: (2 điểm) Đọc kĩ đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu: Chỉ có điều này thì các nhà chép truyền thuyết đã quên không ghi lại: khi bay lên đỉnh núi Sóc Sơn, Ngựa sắt quay nhìn xuống xóm làng bên dưới nói với Thánh Gióng: - Ngựa sắt này xin gửi trả lại và trả gấp đôi những ngọn lửa mà bà con đã cho Ngựa sắt mang đi cùng Thánh Gióng dẹp giặc. (1) Nói xong Ngựa sắt bay một vòng rất rộng rồi phun dài những ngọn lửa thật ấm, thật đẹp, thật hồng, thật sáng, trả lại cho bà con.(2) Đúng như Ngựa sắt đã nói, đêm hôm ấy, những ngọn đèn, những bếp lửa, những bó đuốc soi cá, những đám lửa đốt nương của nhân dân bỗng sáng bừng lên gấp đôi và cứ sáng bừng lên như thế cho đến bây giờ, cho đến mãi sau này, càng ngày càng sáng…(3) (Phạm Hổ, Ngựa thần từ đâu đến? NXB Kim Đồng, Hà Nội, 2015, tr. 26 - 27) Câu 1. Lời thoại trong đoạn trích thuộc kiểu lời thoại gì? Chi tiết nào chứng tỏ điều đó? (0,5 điểm) Câu 2. Hãy cho biết ngôi kể được sử dụng trong đoạn trích. (0,5 điểm) Câu 3. Tìm từ ngữ cùng trường từ vựng với từ sáng trong câu (2). Cho biết tác dụng của nó trong câu văn này.(0,5 điểm) Câu 4. Nhân vật nào trong đoạn trích gợi em nghĩ đến một hội thi sôi động được tổ chức định kỳ đều đặn trong hàng chục năm qua ở nước ta? Đó là hội thi gì?(0,5 điểm) Bài làm: Câu 1. Lời thoại trong đoạn trích thuộc kiểu lời đối thoại. Chi tiết chứng tỏ điều này là Ngựa sắt quay nhìn xuống xóm làng bên dưới nói với Thánh Gióng. Câu 2. Ngôi kể được sử dụng trong đoạn trích là ngôi thứ ba Câu 3. Từ ngữ cùng trường từ vựng với từ sáng trong câu (2) là các từ: ấm, đẹp, hồng. Tác dụng của nó là làm nổi bật vẻ đẹp từ ngọn lửa mà ngựa sắt của Thánh Gióng phun ra. Câu 4. Nhân vật trong đoạn trích gợi nghĩ đến một hội thi sôi động được tổ chức định kỳ đều đặn trong hàng chục năm qua ở nước ta chính là nhân vật Thánh Gióng. Hội thi đó là hội khỏe phù đổng. Đề 2: (2 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu: Trăng soi khuôn mặt ngàn yêu dấu
Ngày mai hai đứa ở hai nơi Hai đầu đất nước trong giông bão Cùng chung chiến đấu hai phương trời (Chia tay trong đêm Hà Nội – Nguyễn Đình Thi)
Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính. (0,5đ) Câu 2: Cho biết thể thơ được sử dụng (0,5đ) Câu 3: Từ giông bão trong câu thơ Hai đầu đất nước trong giông bão được tác giả sử dụng bằng phép tu từ gì và nó gợi em nghĩ đến hoàn cảnh nào của đất nước lúc bấy giờ? (1,0đ). Bài làm: Câu 1: Phương thức biểu đạt chính là biểu cảm. Câu 2: Thể thơ được sử dụng là thơ bảy chữ. Câu 3: Từ giông bão trong câu thơ Hai đầu đất nước trong giông bão được tác giả sử dụng bằng phép tu từ ẩn dụ và nó gợi chúng ta nghĩ đến hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ đang có chiến tranh mà cụ thể đó là cuộc kháng chiến chống Mỹ. Đề 3: (2 điểm) Đọc kỹ đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu: Đất nước đẹp vô cùng nhưng Bác phải ra đi Cho tôi làm sóng dưới con tàu đưa tiễn Bác Khi bờ bãi dần xa làng xóm khuất Bốn phía nhìn không bóng một hàng tre (“Người đi tìm hình của nước” – Chế Lan Viên) Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính. Câu 2: Hãy cho biết thể thơ được sử dụng! Câu 3: Tìm một từ ghép cùng trường từ vựng với từ bờ bãi trong câu thơ Khi bờ bãi dần xa làng xóm khuất. Câu 4: Chỉ ra một câu thơ có cấu tạo bằng một câu ghép. Hãy cho biết hai vế câu của chúng có mối quan hệ ý nghĩa như thế nào? Bài làm: Câu 1: Phương thức biểu đạt chính là biểu cảm. Câu 2: Thể thơ được sử dụng là thơ tự do. Câu 3: Từ ghép cùng trường từ vựng với từ bờ bãi trong câu thơ Khi bờ bãi dần xa làng xóm khuất. là từ làng xóm.
Câu 4: Câu thơ có cấu tạo bằng một câu ghép là: Đất nước đẹp vô cùng nhưng Bác phải ra đi. Hai vế câu của chúng có mối quan hệ ý nghĩa tương phản. Đề 4: (2 điểm) Đọc kỹ đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu: “Rùa là một loại động vật lưỡng cư.(1) Chúng có thể lặn hàng giờ dưới nước, có thể dễ dàng kiếm ăn dướ đáy ao hồ, sông suối mà thậm chí là đáy biển.(2) Khi cần rùa có thể sống rất lâu trên cạn.(3) Chúng thường bò sâu vào đất liền để kiếm ăn, để sưởi nắng hoăc đẻ trứng trong mùa sinh sản.(4)” Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính. Câu 2: Các câu trong đoạn được liên kết với nhau bằng những phép liên kết nào? Chỉ ra những từ ngữ dùng để thực hiện các phép liên kết đó. Câu 3: Tìm chủ ngữ và vị ngữ trong câu (4). Đây là câu đơn hay câu ghép? Câu 4: Đoạn trích mang đến cho chúng ta thông tin cơ bản nào? Bài làm: Câu 1: Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích nói trên là thuyết minh. Câu 2: Các câu trong đoạn được liên kết với nhau bằng phép thế và phép lặp. Cụ thể từ rùa trong câu (1) đã được thế bằng từ chúng ở các câu (2) và (4); từ rùa trong câu (1) đã được lặp bằng từ rùa ở trong câu (3). Câu 3: Chúng / thường bò sâu vào đất liền để kiếm ăn, để sưởi nắng hoăc đẻ trứng CN VN trong mùa sinh sản. Đây là câu đơn. Câu 4: Đoạn trích mang đến cho chúng ta thông tin cơ bản về đặc tính sinh trưởng của loài rùa. Phần I: DẠNG ĐỀ NGHỊ LUẬN XÃ HỘI Đề 1: Hãy nhìn con chim đậu trên cành liễu. Cành sắp gãy rồi nhưng nó vẫn vui vẻ hót. Bởi vì nó biết rằng mình vẫn còn có đôi cánh. Hãy nêu suy nghĩ của em về vấn đề trên, Bài làm Có thể nói rằng hình ảnh về con chim nhỏ đậu trên cành liễu kia quả thực là một bức tranh cuộc sống hết sức thú vị. Là bởi vì, qua đó, bất kỳ ai trong mỗi chúng ta cũng rút ra được cho mình những bài học có ý nghĩa nhân văn vô cùng sâu sắc. Hiểu theo nghĩa đen thì cành liễu sắp gãy là một dấu hiệu chẳng lành. Nó tiềm ẩn trong đó rất nhiều những hiểm nguy. Vậy nhưng con chim thì vẫn hồn nhiên vui vẻ hót. Tức là nó vẫn bình thản để nổ lực mang cái đẹp đến với cuộc đời. Tại sao vậy? Bởi vì nó rất tự tin vào năng lực của bản thân. Cho dù cành liễu kia có gãy đi chăng nữa thì nó vẫn còn có đôi cánh để bay lên. Điều này, khi soi vào trong cuộc sống của con người thì lại đã trở thành một vấn đề tư tưởng cực kỳ sâu sắc. Không phải bao giờ trước mắt chúng ta mọi thứ cũng bằng phẳng và thuận lợi. Cuộc đời vốn dĩ rất phong phú và phức tạp. Đôi khi con người buộc phải đối mặt với những chông gai, thử thách thậm chí là những cạm bẫy. Tuy nhiên, vào những lúc như thế chúng ta hãy nhớ đến cái tâm thế rất đẹp của con chim nhỏ nói trên. Thay vì
có những phản ứng tiêu cực như buồn bã, thất vọng, bi quan, sợ hãi thì mỗi người lại càng phải cần tới sự bình tĩnh, sáng suốt, có niềm tin vào bản thân và cuộc đời. Chúng ta đều biết câu chuyện về cô bé Giôn-Xi trong truyện ngắn “Chiếc lá cuối cùng” của nhà văn Mỹ O-Hen-Ri. Một họa sĩ trẻ vừa mới ra trường. Hành trang của cô bé này chỉ mới là hai bàn tay trắng. Việc sớm phải mắc một căn bệnh hiểm nghèo đã thực sự tạo nên ở Giôn-Xi một cú sốc rất lớn. Quả thực, cành liễu trong cuộc đời của cô ta đã sắp gãy. Thế nhưng, không giống như con chim nhỏ nói trên. Giôn-Xi đã không hề vui vẻ hót. Cô đã buông xuôi tất cả trong một phản ứng tinh thần tiêu cực. Mặc dù cảnh ngộ bấy giờ của cô bé là khá đáng thương nhưng xét ở một khía cạnh nào đó thì những yếu đuối của Giôn-Xi cũng rất đáng trách. Mọi thứ với cô đâu phải đã là một dấu chấm hết. Bằng chứng là từ những tấm lòng cao thượng của chị Xiu và cụ Bơ-Men thì cuối cùng cô đã được thoát hiểm như phép màu trong một câu chuyện cổ tích. Thế thì giả sử trước đó nếu Giôn-Xi có được một sự đối diện đúng mực hơn làm gì cô đã phải gây ra nhiều hệ lụy như thế đối với những người xung quanh. Đặc biệt là cụ Bơ-Men đáng kính chắc chắn không phải trả giá thay cô bằng cả mạng sống của mình. Từ câu chuyện của Giôn-Xi đến với Nick Vujicic mọi thứ là rất khác. Điểm xuất phát của Nick bi đát hơn rất nhiều. Không có hai chân đã đành Nick còn không có luôn cả hai tay. Cành liễu trong cuộc đời con người này không phải là sắp gãy nữa mà gần như đã thực sự gãy. Bất kỳ ai, dù có lạc quan đến mấy cũng chỉ có thể hướng về anh ta một cái nhìn ái ngại. Thế nhưnng Nick Vujicic mới chính là bản sao của con chim nhỏ đậu trên cành liễu. Anh ta không chấp nhận đầu hàng số phận. Anh vẫn vui vẻ hót mà thậm chí là hót rất hay. Tiếng hót mà anh tạo ra đã khiến cho cả thế giới phải nghiêng mình ngưỡng mộ. Cuộc đời đã tàn nhẫn tước đi ở Nick rất nhiều cơ hội nhưng đến lượt mình, bằng một ý chí và nghị lực phi thường anh đã tự tạo ra những cơ hội. Chắc chắn Nick phải có một niềm tin to lớn lắm về đôi cánh của mình. Đó là một sự nhập thế tích cực giúp anh có được những nguồn năng lượng sống vượt trội so với những kẻ phàm trần. Nhưng đôi cánh để bay lên, hiểu rộng ra không bao giờ là một thứ từ trên trời rơi xuống. Nó phải là hệ quả tất yếu đến từ những nổ lực kiên trì của con người. Muốn bản thân mình có thể bay lên trước những bất trắc của cuộc đời kiểu như cành liễu sắp gãy thì trước hết chúng ta phải dựa vào chính những thứ năng lực mà mình được tích lũy sau đó mới là một trạng thái tinh thần hết sức lạc quan khi đối mặt. Niềm tin là một liều thuốc tinh thần vô cùng quan trọng trong cuộc đời. Bản thân nó mặc nhiên đã tạo ra sức mạnh. Tuy nhiên, điều này rất khác với những ảo tưởng của một ai đó đánh giá quá cao về bản thân. Sự tự mãn ngu ngốc đã khiến cuộc đời anh ta trượt dài trong những mơ mộng hão huyền, mãi mãi không bao giờ có tính khả thi. Thậm chí giống như một con thiêu thân nhắm mắt lao đầu vào hiểm họa. Người xưa nói liệu cơm gắp mắm, đo bò làm chuồng, biết người biết ta trăm trận trăm thắng cũng chính là vì lẽ đó. Đối với những người học sinh còn ngồi trên ghế nhà trường thì câu chuyện về con chim ở trên cành liễu kia lại càng rất có ý nghĩa. Từ tấm bé tới giờ chúng ta hầu như chỉ đang sống trong cánh của cha mẹ. Chúng ta chưa thực sự phải nếm trải nhiều
những tình huống tương tự như cành liễu sắp gãy. Bởi vì cành có mềm mẹ đã sẵn tay nâng. Nhưng con đường rộng dài phía trước thì không còn bằng phẳng như vậy nữa. Chúng ta ngày càng phải tự đi trên đôi chân của chính mình. Bởi thế những éo le, bất trắc, chông gai, cạm bẫy sẽ xuất hiện nhiều hơn. Thế thì ngay từ bây giờ chúng ta phải nổ lực học tập, tu dưỡng, phấn đấu và trưởng thành. Tạo được những năng lực chân chính cho bản thân bằng những nổ lực không ngừng của chân tài thực học thì một ngày mai kia mỗi bước đi của chúng ta trước cuộc đời mới có thể là chân cứng đá mềm. Đó những phần thưởng vô giá để cho đôi cánh bay lên của chúng ta ngày càng được chắp thêm rất nhiều những lông mao, lông vũ. Đề 2: Nữ văn sĩ người Mỹ Helen Keller đã tâm sự rằng: “Tôi đã khóc vì không có giày để đi cho đến lúc nhìn thấy một người không có chân để đi giày” Bài làm: Lời tâm sự nói trên của nhà văn người Mỹ Helen Keller “Tôi đã khóc vì không có giày để đi cho đến lúc nhìn thấy một người không có chân để đi giày” xứng đáng được liệt vào kho tàng những câu danh ngôn bất hủ của nhân loại. Là cũng bởi vì, qua đó, bất kỳ ai trong mỗi chúng ta cũng nghiệm được cho mình một bài học có ý nghĩa nhân văn vô cùng sâu sắc. Ở vế thứ nhất của lời tâm sự nói trên, nhà văn người Mỹ kia đã bộc bạch một cách rất thực lòng “Tôi đã khóc vì không có giày để đi”. Đó chính là một thứ cảm xúc chúng ta vẫn thường bắt gặp trong cuộc sống. Đôi khi chỉ vì bất mãn do có một thiếu thốn nào đó về mặt vật chất chưa được đáp ứng mà con người đã trở nên thất vọng. Anh ta đã có những biểu hiện đáng xấu hổ như buồn bã, bi quan, chán nản rồi khóc lóc. Thậm chí còn có thể là những phản ứng tiêu cực hơn. Nếu câu nói của Helen Keller chỉ có vậy thôi thì chắc chắn là không có gì đáng chú ý. Nó không chứa đựng trong đó bất kỳ một giá trị nhân văn nào. Tuy nhiên, sở dĩ chúng ta đánh giá lời tâm sự này của bà xứng đáng được coi là một câu danh ngôn bất hủ là nhờ cả vào vế còn lại của nó. Mọi thứ đã được nổi gió lên. Điều khiến cho nhà văn thôi không khóc nữa không phải vì cái nhu cầu của mình đã được đáp ứng. Nguyên nhân sâu xa nằm ở việc bà đã nhìn thấy một người không có chân để đi giày. Đây là một trải nghiệm quý báu mà cuộc sống đã giúp cho nhà văn có một sự thay đổi nhận thức theo hướng tích cực. Có thể, bà đã nhìn thấy xung quanh mình còn có rất nhiều những mảnh đời khổ đau bất hạnh. Những gì mà bản thân đang đối diện quả thật có gì đáng để khóc đâu. Sự không có giày để đi của mình đã thấm vào đâu so với nỗi đau không có chân để đi giày của người khác. Thế thì thay vì khóc lóc cho những đòi hỏi ích kỷ của bản thân, nhà văn đã biết mở lòng ra với thế giới xung quanh để mà lắng nghe, cảm thông và thấu hiểu từ đó biết cúi xuống với nỗi đau của những số phận bất hạnh trên cuộc đời này. Cũng có thể cái mà bà nhìn thấy là những ai đó dù không có cả chân để đi giày. Mọi thứ tưởng như đã là một dấu chấm hết nhưng anh ta vẫn không khóc. Anh ta vẫn đứng dậy trong hình ảnh của một cuộc sống đầy nghị lực với tất cả sự tươi vui, lạc quan, yêu đời. Điều này sẽ khiến cho nhà văn cảm thấy rằng những giọt nước mắt trước đó của mình vì chuyện không có giày để đi quả là rất đáng
xấu hổ. Xét ở bất cứ phương diện nào thì cái sự thay đổi nhận thức mà bà nói tới ở trên cũng rất đáng để trân trọng. Lấy tinh thần này của Helen Keller mà soi vào trong thực tiễn cuộc sống thì quả là có rất nhiều điều đáng để chúng ta suy ngẫm. Nhất là với những cô cậu học sinh còn ngồi trên ghế nhà trường. Tuổi trẻ còn rất nông nổi và bồng bột. Chúng ta vẫn thường có thói quen ích kỷ lấy mình làm trung tâm. Chỉ chú trọng tới những đòi hỏi của bản thân mà không nghĩ một cách thấu đáo tới cuộc sống xung quanh. Bắt đầu là một cái kẹp tóc, đến một đôi giày thời trang và rồi là nhiều hơn như thế nữa. Được voi lại tiếp tục đòi tiên. Chúng ta không biết dừng lại. Nếu không được đáp ứng kịp thời thì cáu bẳn, giận dỗi, khóc lóc. Vô tình đã tạo nên sự tổn thương đối với ông bà,cha mẹ. Những người mà lẽ ra chúng ta phải yêu thương, kính trọng và phải biết cách mang đến cho họ thật nhiều niềm vui. Khi cái tôi của bản thân là số một thì làm sao chúng ta có thể biết động lòng trắc ẩn trước những bất hạnh của kẻ khác. Đó thực sự là một cách nhìn rất thiển cận. Tại sao chị Xiu và cả cụ Bơ-Men nữa – những nhân vật trong truyện ngắn “Chiếc lá cuối cùng” của O-Hen-Ri, mỗi người có một cách làm khác nhau nhưng họ đều đã không bỏ rơi Giôn-Xi, cho dù họ cũng có giàu có, sung sướng gì cho cam. Đó là bởi vì họ đã hiểu rằng những khó khăn của mình cùng lắm chỉ là chuyện của một người không có giày để đi còn cô bé Giôn-Xi tội nghiệp kia mới thực sự lâm vào hoàn cảnh của một người không có chân để đi giày. Sự giúp đỡ của Xiu và cụ Bơ-Men đối với Giôn-Xi vì thế thật đáng quý biết bao. Bác Hồ vĩ đại của chúng ta, khi bị bắt giam vào các nhà tù của chế độ Tưởng Giới Thạch ở Trung Quốc. Bấy giờ Bác đã tuổi cao sức yếu. Cảnh ngộ rất đáng ái ngại. Ấy thế nhưng, dù ở đâu trong hoàn cảnh nào Người cũng luôn mở lòng ra cảm thông, chia sẻ, yêu thương cuộc sống xung quanh. Một người bạn tù thổi sáo, một người vợ đến thăm chồng là một tù nhân, cháu bé trong nhà lao Tân Dương … vv. Tất cả họ đều được nhận từ Bác một ngọn lửa tình người thật sự ấm áp. Thử hỏi nếu quá chú trọng vào việc không có giày để đi của mình làm sao Bác có thể có được những nghĩa cử cao thượng như thế? Ở một khía cạnh khác, có không ít người từng lâm vào hoàn cảnh cực kỳ bi đát. Thế nhưng họ không đầu hàng số phận. Họ vẫn hết sức lạc quan. Để rồi, bằng ý chí và nghị lực mà tạo ra không biết bao nhiêu kỳ tích. Soi vào những tấm gương như thế thì việc chỉ mới đứng trước những thử thách cỏn con kiểu như không có giày để đi mà đã có những phản ứng tinh thần tiêu cực thì thật sự là rất đáng trách. Nick Vujicic chính là một trong những tấm gương để chúng ta học tập. Anh ta đã không có chân để đi giày hiểu theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Tuy nhiên, như một câu chuyện thần thoại, Nick đã vượt qua tất cả để tạo được cho mình một cuộc sống tốt đẹp khiến cả thế giới phải ngưỡng mộ. Thử hỏi trong hoàn cảnh như thế, nếu anh ta chỉ dừng lại với than vãn khóc lóc thì phỏng có ích gì? Sống có ước mơ và hoài bão dĩ nhiên là một cuộc sống đẹp. Chúng ta cần đặt ra cho mình những mục tiêu để phấn đấu. Không chỉ là một đôi giày ưng ý mà còn là nhiều nhu cầu lớn hơn như thế nữa để ngày càng nâng cao chất lượng cuộc sống. Điều này vốn dĩ là hết sức lành mạnh. Tuy nhiên nếu con người vô tình trở thành nô lệ cho
những đòi hỏi như thế thì lại là một vấn đề vô cùng tiêu cực. Kiềm chế bớt những ích kỷ của bản thân, mở lòng ra với thế giới xung quanh, thiết nghĩ đó mới chính là một cuộc sống mà chúng ta cần hướng tới. Đề 3: Thân Nhân Trung – một sủng thần dưới thời vua Lê Thánh Tông đã cho rằng “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”. Em hãy nêu suy nghĩ của mình về vấn đề này BÀI LÀM THAM KHẢO “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” – bản thân câu nói này là một tư tưởng lớn. Từ xưa tới nay, các đấng minh quân đều coi đó là cái gốc căn bản của đạo trị nước. Đối chiếu với cuộc sống nhiều đổi thay ngày hôm nay thì câu nói này càng khiến cho chúng ta có rất nhiều suy ngẫm. Thiết nghĩ, để hiểu được ngọn ngành cái uyên bác, thâm sâu của tư tưởng này, chúng ta không thể không tìm về cội nguồn của nó. Đời vua Lê Thánh Tông – một trong những triều đại khá hưng thịnh của nền phong kiến Việt Nam, nhà vua đã sai một sủng thần có uy tín của mình là Thân Nhân Trung một việc rất hệ trọng là viết một bài văn cho thợ đá khắc vào bia cho khoa thi hội. Nội dung là phải làm toát lên được tinh thần học vấn của thời đại. Đó là khoa thi hội mở vào tháng ba âm lịch năm 1442 niên hiệu (Đại Bảo năm thứ 3) do Nguyễn Trãi, được nhà vua ủy thác làm chánh chủ khảo. Vậy là, bia tiến sĩ mà hiện nay chúng ta có nhiều dịp chiêm ngưỡng ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám đã bắt đầu có từ thủa đó. Trong bài văn của mình Thân Nhân Trung đã viết nhiều nội dung rất thông tuệ được nhà vua hết lời ngợi khen, trong đó có những dòng bất hủ đã trở thành một tư tưởng lớn mà hậu thế rất ngưỡng mộ là “Hiền tài là nguyên khí quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mẽ và thịnh vượng. Nguyên khí kém thì thế nước yếu ớt, suy bại. Vì thế các bậc thánh đế minh vương không ai là không lấy việc nuôi tài, chọn sĩ, vun bồi nguyên khí là công việc đầu tiên”. Lời nói của bậc tiền nhân trên quả là vô cùng sâu sắc. Cần phải nói thêm rằng từ xa xưa, theo các nhà thông thái thì trong khí trời có một thứ khí hết sức quan trọng, nhờ nó mà vũ trụ mới hình thành, cuộc sống mới được hiện diện trên trái đất. Họ gọi cái thứ khí linh thiêng của trời đất ấy là khí bản thiên, là nguyên khí ... Từ gốc tích này mà Thân Nhân Trung đã chuyển hóa nó vào trong một trong tư tưởng hay nhất về đạo học, về bồi dưỡng, đào tạo và sử dụng người hiền tài trong các triều đại phong kiến ở Việt Nam. Để đến hôm nay, soi bóng tiền nhân chúng ta thấy mọi thứ vẫn còn vẹn nguyên tính thời sự và ý nghĩa giáo dục cũng là cực kỳ căn bản. Xin được cắt nghĩa một chút, “Hiền tài” ở đây dĩ nhiên bao gồm cả tài lẫn đức. Đây là hai yếu tố không thể tách rời để làm nên một con người toàn diện. Chính Bác Hồ kính yêu của chúng ta cũng từng quan niệm rằng “Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó, có tài mà không có đức thì trở thành người vô dụng”. Đem lời người xưa mà soi vào tư tưởng Hồ Chí Minh lại càng thấy chí lý lắm thay! Nhưng, cũng cần hiểu cho thấu đáo cái gọi là “Hiền tài”. Trong hiền đã có tài và ngược lại. Không thể tách biệt chúng như trong quan niệm của một số người. Không thể có một cá nhân A nào đó năng lực chỉ “Thường thường bậc trung” lại
được đánh giá là tư cách đạo đức tốt. Hiền ở đây không chỉ hiền lành là đủ. Nó còn phải thể hiện trong khả năng anh chung sống với cộng đồng như thế nào. Anh có thể đem lại điều gì tốt đẹp cho cộng đồng hay không. Tương tự như vậy, cái tài của con người không chỉ thể hiện qua năng lực. Anh phải biết sử dụng cái tài của mình như thế nào cho hợp lý. Đó phải là một cái tài có tính phụng sự. Nhược bằng cái tài của anh chỉ bo bo giữ lấy mà quẩn quanh với lối sống ích kỷ thì cũng tầm thường lắm. Vậy nên đức và tài là những phẩm chất đi song song có tính phụ thuộc vào nhau. Mỗi phẩm chất như thế chỉ được khẳng định trong tính tương giao với phẩm chất còn lại. Nguyên khí là như thế, Hiền tài là như thế. Cả hai đã tạo nên một đúc kết rất tinh diệu của Thân Nhân Trung. Cái đẹp của câu danh ngôn này không phải chỉ là sự cân đối lời vàng ý ngọc mang tính hình thức mà vua tôi ngày trước trong lúc nhàn tản thường thù tạc. Đây thực sự là một quan điểm lớn của một con người có tầm nhìn xa trông rộng bởi vì nội dung tư tưởng của nó rất có tầm vóc quốc gia và kỳ diệu hơn nữa nó lại có giá trị muôn đời. Chỉ có một con người có tầm nhìn như vậy, biết trân trọng kẻ sĩ trong thiên hạ, thấy được vai trò to lớn của họ thì mới đúc kết được một cách thấm thía đến là như vậy. Còn nhớ tổng thống Mỹ - ngài Bin – Clin – Tơn trong một cuộc giao lưu với các sinh viên tại một trường đại học đại loại đã nói rằng: Các bạn chính là vầng trán của nước Mỹ. Câu nói này cũng là vô cùng hàm xúc. Nó thể hiện niềm tin của người đứng đầu một quốc gia hùng mạnh đối với tầng lớp những trí thức tài năng. Mỹ chính là một trong những quốc gia làm tốt nhất công việc phát hiện, đào tạo và trọng dụng tài năng. Không phải ngẫu nhiên mà từ 13 xứ thuộc địa của Anh ở Bắc Mỹ sau khi giành được độc lập họ đã mau chóng phát triển và mau chóng trở thành một cường quốc số một của thế giới. Những người hiền tài của bất kỳ thời đại nào cũng vô cùng quan trọng. Họ chính là căn nguyên sâu xa tạo nên sự hưng thịnh của đất nước. Muốn cho thời thế phát triển , giang sơn xã tắc vững bền có thể mở mày mở mặt cùng thiên hạ nhất thiết phải dựa vào các bậc hiền tài. Làm sao những kẻ giá áo túi cơm lại có thể cáng đáng được những chuyện lấp biển vá trời ?...Người hiền tài là người vừa có những năng lực đặc biệt vừa lại là người có nhân cách lớn lao, dám hy sinh cái lợi cỏn con của bản thân mà vun đắp cho cái lớn lao, cao cả của đất nước. Trong những lúc phong ba bão táp thì họ là kẻ đứng mũi chịu sào còn những lúc trời yên biển lặng thì họ lại là những người khai đường mở lối cho đất nước đi lên trong xu thế phát triển. Từ xưa tới nay người hiền tài trong con mắt của bàn dân thiên hạ luôn xứng đáng là những đáng chính nhân quân tử được hiện tại và tương lai kính trọng. Họ luôn có những đóng góp đặc biệt vào những công cuộc lớn lao của thời đại. Nhưng theo suy nghĩ của cá nhân tôi thì câu nói câu nói bất hủ trên của Thân Nhân Trung còn luôn đặt ra một vấn đề về bồi dưỡng và sử dụng nhân tài. Ngoài những cá nhân kiệt xuất hàng ngàn năm mới có một lần là xuất hiện như một sự kiện lạ, vượt ra ngoài mọi khuôn khổ của giáo dục thông thường còn nói chung đa phần trong đó là thành quả giáo dục của xã hội. Thời đại nào làm tốt công tác giáo dục, có những chính sách thích đáng chiêu hiền đãi sĩ thì thời đó sẽ có nhiều cơ hội nở rộ những tài năng. Nhược bằng chưa nhìn nhận đúng vai trò của tài năng, chưa có những chính sách phù
hợp để phát triển tài năng thì tất yếu sẽ làm cho tài năng bị thui chột, bị dập vùi và hệ lụy cho toàn xã hội là điều không cần bàn cãi. Câu danh ngôn bất hủ trên của Thân Nhân Trung được đặt trong bối cảnh viết bài văn bia ghi dấu cho một kỳ thi hội cho nên dù sao cái gọi là hiền tài ấy cũng phản ánh cái nhìn còn mang tính cá nhân chủ nghĩa của các thời đại phong kiến. Nghĩa là, họ đề cao những nhân vật kiệt xuất, khuyến khích những con người này lập nên những công trạng vẻ vang “Đã mang lấy tiếng trong trời đất – Phải để danh gì với núi sông” – Nguyễn Công Trứ. Dĩ nhiên, quan điểm trọng dụng tài năng như vậy là đúng đắn, thời nào cũng vẫn vận dụng. Song nếu so sánh với cái nhìn của tư tưởng Hồ Chí Minh bây giờ thì chúng ta cần nhìn nhận vấn đề một cách rộng hơn. Hai chữ hiền tài không nên bó hẹp trong phạm vi từng cá nhân xuất chúng nữa mà nó phải là trình độ dân trí, là trình độ học vấn và chuẩn mực đạo đức của toàn xã hội. Chính Người đã nói với thầy cô giáo và các em học sinh trong bức thư Người gửi nhân ngày khai trường rằng: “Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không , dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang sánh vai với các cường quốc hay không chính là nhờ ở công học tập của các cháu”. Rõ ràng, chúng ta nhận thấy trong cái nhìn mang tính chiến lược của chủ tịch Hồ Chí Minh có cái kế thừa và cũng có cái phát huy so với cái nhìn của Thân Nhân Trung. Người đã chú trọng đề cao giáo dục cộng đồng mà tương lai của đất nước đặt vào tay của lớp trẻ. Đây là nột cái nhìn vô cùng biện chứng. Mặc dù những cá nhân xuất chúng luôn có những vai trò đặc biệt nhưng cách mạng là sự nghiệp của quần chúng cho nên việc tập trung vào giáo dục để nâng cao dân trí mới là thượng sách .Đây chính là kim chỉ nam cho mọi hành động của những nhà lãnh đạo đất nước mà đặc biệt là đối với những người làm công tác quản lý giáo dục. Phát hiện và bồi dưỡng những tài năng đặc biệt là việc tối cần thiết nhưng song song với nó là phải đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục cho toàn xã hội. “Vì lợi ích mười năm phải trồng cây – vì lợi ích trăm năm phải trồng người”. Giáo dục luôn có một vai trò to trong việc lớn tạo ra sản phẩm con người cho xã hội. Trong nhiều năm qua Đảng và nhà nước ta đã có rất nhiều quan tâm cho sự nghiệp giáo dục. Có rất nhiều cuộc cách mạng mạnh tay đã được triển khai thực hiện và kết quả của nó đã được xã hội ghi nhận. Chúng ta không chỉ đào tạo nên những nhân tố hiền tài đúng với nghĩa của nó mà điều quan trọng là chất lượng sản phẩm con người nói chung của đất nước ngày càng được cải thiện. Họ đã có mặt trong tất cả mọi vị trí yêu cầu của tổ quốc để đưa đất nước ngày một đi lên. Một Việt Nam hôm nay dẫu chưa phải là một con Rồng của châu Á nhưng tiếng nói của chúng ta đã có thêm rất nhiều trọng lượng trên diễn đàn quốc tế. Đó là hệ quả tất yếu cho việc chúng ta đã làm rất tốt công tác giáo dục, đưa sản phẩm con người tiếp cận với những đòi hỏi ngày một cao của xã hội. Làm được như vậy thì việc khai thác kho báu hiền tài của đất nước mới thực sự là thượng sách. Nhận thức rõ vai trò của giáo dục đào tạo chính là một cái nhìn chiến lược. Giáo dục phải luôn luôn là ưu tiên số một, là quốc sách hàng đầu. Chỉ có ưu tiên một cách thỏa đáng cho giáo dục thì mới chính là đòn xeo thúc đẩy sự đi lên của đất nước. Đây phải là một công cuộc cần được triển khai có hệ thống từ thấp đến cao, vừa đổi mới để theo kịp những nền giáo dục tiên tiến trong khu vực cũng như trên thế giới
nhưng cũng không thể đốt cháy giai đoạn mà phải có tính tích lũy, có bước chạy đà để làm sao phù hợp với hoàn cảnh của đất nước. Bởi, bài học trên thực tế là “Dục tốc bất đạt”. Vã lại chúng ta cần nghiêm túc nhìn nhận xem mình đang ở đâu trên bản đồ giáo dục của nhân loại để từ đó có những điều chỉnh hợp lý. Có như vậy thì vai trò của giáo dục nước nhà mới được phát huy. Chất lượng dân trí ngày một nâng cao và sản phẩm con người mới có thể đáp ứng được, theo kịp được sự phát triển của xã hội nhất là sự nhảy vọt của khoa học công nghệ trên thế giới hiện nay. Cũng cần nói thêm rằng quan điểm về người hiền tài trong xã hội phong kiến có nhiều bó hẹp nhất là chỉ dành cho người đàn ông. Đó là một cái nhìn rất thiển cận. Ngày nay, dưới ánh sáng của thời đại Hồ Chí Minh thì quan điểm đã tiến bộ hơn rất nhiều. Sự nghiệp anh hùng không chỉ còn là mảnh đất dành riêng cho người đàn ông nữa. Những người phụ nữ trong cuộc sống mới bình đẳng giới đã sánh vai song song cùng với người đàn ông trên vũ đài chính trị và họ thực sự đã có những đóng góp hết sức lớn lao. Chẳng như ngày xưa, bà chúa thơ nôm Hồ Xuân Hương trong bài thơ “Đề đền Sầm Nghi Đống” đã ước vọng rằng: “Ví đây đổi phận làm trai được – Thì sự anh hùng há bấy nhiêu”. Trong cuộc sống hôm nay – những người phụ nữ hậu duệ của nữ sĩ hôm nào đâu cần phải đổi phận làm trai. Họ vẫn hiên ngang làm người phụ nữ và vẫn hiên ngang làm những anh hùng. Có lẽ, chính Hồ Xuân Hương cũng đâu nghĩ được rằng chỉ sau bà có mấy mươi năm thôi mà người phụ nữ đã có những con người thất tuyệt vời xứng đáng với tám chữ vàng mà Bác Hồ đã phong tặng: “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”. Khai thác tối đa kho báu hiền tài như thế của cả dân tộc như thế mới là phát huy hết sức mạnh tiềm tàng của con người Việt Nam. Đào tạo ra hiền tài là cả một cuộc cách mạng lâu dài nhưng sử dụng hiền tài như thế nào mới là một bài toán khó. Bạc đãi tài năng thì sẽ làm cho tài năng chán nản, bất mãn và dần dần trở nên thui chột nhưng nếu quá nuông chiều thì tài năng lại có thể trở thành những kiêu binh. Theo tôi chúng ta cũng cần nên noi theo cách của một số tiền nhân trong cách ứng xử với kẽ sĩ của mình. Trong Tam Quốc, để chiêu mộ Khổng Minh, đích thân Lưu Bị đã ba lần đến lều cỏ (Tam cố thảo lư) của con người đặc biệt này. Cảm động trước thịnh tình ấy mà Khổng Minh đã ra giúp Lưu Bị dù ông vẫn biết trong ba yếu tố Thiên thời – Địa lợi – Nhân hòa thì Lưu Bị chỉ có được yếu tố Nhân hòa và ít có hy vọng sẽ thành công trong nghiệp lớn. Cũng trong cuốn sách này thì khi Quan Vân Trường ở trong trướng của Tào Tháo vì chưa tìm thấy tin tức của hai người anh em vườn Đào kết nghĩa là Lưu Bị và Trương Phi thì Vân Trường đã có một giao ước với Tào Tháo rằng bao giờ có tin của hai người kia Vân Trường sẽ lập tức từ biệt phủ Tào. Trong quảng thời gian “Thân tại Tào doanh tâm tại Hán ấy”, để làm lung lạc Vân Trường thì Tào Tháo đã có những ân huệ rất đặc biệt với vị tướng lẫy lừng này như: Ba ngày một tiệc nhỏ, bảy ngày một tiệc lớn. Lên ngựa một nén vàng, xuống ngựa một nén bạc ... Đó là cách mà Tào Tháo đã biệt đãi một tài năng. Tuy nhiên , cuối cùng khi biết tin của anh em Lưu Bị thì Quan Vân Trường đã nhất quyết ra đi. Tào Tháo – một con người: gian hùng đời loạn, năng thần đời trị như vậy nhưng trong cách đối đãi với tài năng đã thực sự rất có tầm nhìn. Mặc dù không theo Tào Tháo nhưng sau này trong trận chiến XÍCH BÍCH khi được giao nhiệm vụ chốt giữ vị trí trọng yếu cuối cùng trên đường rút chạy của Tào Tháo
thì vì để trả ơn cho Tào Tháo mà Quan Vân Trường đã mở vòng vây cho Hắn chạy thoát. Xin kể thêm ra đây câu chuyện có liên quan đến Việt vương Câu Tiễn và Ngô vương Phù Sai. Sau khi cướp nước Việt, Ngô vương đã đem Câu Tiễn đi lưu đày. Ban đầu Câu Tiễn đã nhiều lần ngĩ đến cái chết nhưng đã được một mưu sĩ là Phạm Lãi hết lời khuyên can. Phạm Lãi đã thức dậy trong ông vua của mình ý thức ôm hận phục thù với hy vọng một ngày không xa giành lại giang sơn xã tắc. Hằng đêm Câu Tiễn nằm trên một tấm thảm gai bằng lưng trần và ông nhấp từng tý mật lợn thông qua một sợi dây treo quả mật xuống từ trên trần nhà. Lưng trần đau vì gai nhọn, miệng lại đắng vì mật lợn ... điều này luôn nhắc nhà vua tức chí bấm chí nuôi hận phục thù (Tích: nếm mật nằm gai cũng là có từ thủa đó). Về phía mình Phạm Lãi đã dám hy sinh người yêu là Tây Thi (Một trong những đại mỹ nhân trong mọi thời đại của Trung Quốc) để sang thực hiện mỹ nhân kế với vua Ngô. Khi Tây Thi xuất hiện thì lập tức Ngô vương Phù Sai đã bị mê hoặc. Tây Thi (theo kế của Phạm Lãi) đã yêu cầu vua Ngô thực hiện một điều ước rất quái đản là thích nghe tiếng trông trận. Vua Ngô vì say đắm mỹ nhân nên đã đáp ứng. (Nên nhớ đó là tiếng trống mà vua Ngô thường tập hợp quân sĩ khi đất nước lâm nguy). Một vài lần khi nghe tiếng trống quân sĩ đã tập hợp nhưng lâu dần họ biết đó chỉ là trò đùa của ái phi Tây Thi cho nên không còn ai chú ý nữa. Tử Tư – một mưu sĩ của Ngô vương, biết chắc đó chỉ là kế mỹ nhân của Phạm Lãi nên đã ra sức can gián nhà vua. Nhưng vì lú lẫn, Ngô vương đã không nghe lời của vị trung thần, đã chém đầu Tử Tư bêu ở cửa thành. Đó cũng là lúc quân của Việt vương Câu Tiễn kéo đến san bằng đại bản doanh của Ngô vương, giết chết Phù Sai ... Chiến thắng ấy của Việt vương Câu Tiễn cũng như thất bại ấy của Ngô vương Phù Sai là một bài học sâu sắc cho việc sử dụng nhân tài. Khi Câu Tiễn phát huy được năng lực siêu phàm của Phạm Lãi thì đã thành công còn Phù Sai vì không nhìn nhận thấu đáo vai trò của Tử Tư thì đã thất bại. Chuyện xưa ngẫm lại, chiếu vào cái ý tưởng dụng hiền mới lại càng thấy thấm thía biết bao. Kẻ hiền tài đức cao vọng trọng, hành xử trong xã tắc, phục vụ đắc lực cho nghiệp lớn của đất nước. Hậu thế mãi mãi ghi nhớ công lao của họ và coi họ như những tấm gương soi sáng muôn đời. Dụng hiền phải là một hàm xúc đến từ hai phía. Với nhà nước thì dụng công trong việc phát hiện, vun đắp, bồi dưỡng nên tài năng và sau đó là sử dụng hiền tài đúng với mảnh đất sở trường của họ. Còn đối với bản thân người hiền tài phải coi đó là một ân huệ mà tổ quốc đã dành riêng cho mình. Anh ta phải có nghĩa vụ đáp lại cái công ơn đó bằng cách tận tâm đưa tài đức của mình ra phụng sự cho đất nước , đưa lại nhiều lợi ích cho nhân dan, cho cuộc đời, cho đại cuộc. Dụng hiền như thế mới gọi là đắc dụng. Ngày trước, tại sao mà những vị anh hùng như Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi hay Quang Trung có thể làm nên nghiệp lớn. Có nhiều lý do nhưng một trong những điều quan trọng là dưới trướng của họ luôn có những nhân tài. Họ đã xác định được một điều rất quan trọng là: Thần thiêng cốt ở bộ hạ. Trần Quốc Tuấn đã có trong tay mình những nhân tài kiệt xuất như Yết Kiêu, Dã Tượng, Phạm Ngũ Lão vv; Lê lợi lại có sự phò tá của Nguyễn Trãi, Lê Sát, Nguyễn Xí, Lê lai vv còn vua Quang Trung lại có được những nhân vật lẫy lừng như Bùi Thị Xuân, La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp vv.
Sinh thời Bác Hồ kính yêu của chúng ta cũng là một đầu mối quan trọng để thu hút được nhiều nhân tài như Trần Đại Nghĩa, Tôn Thất Tùng, Lương Đình Của vv ... Sự lôi kéo, thu hút và trọng dụng được tài năng như thế là bài học cho muôn đời. Đó là cây chìa khóa của thành công. Như vậy, đặt câu danh ngôn nổi tiếng của Thân Nhân Trung “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” vào trong cái nhìn mới của thời đại – cái nhìn của tư tưởng Hồ Chí Minh chúng ta đã nghiệm ra được rất nhiều điều lý thú. Câu nói của người xưa thật sâu xa, khúc chiết. Đó thực sự là một tư tưởng vô cùng tiến bộ của thời phong kiến. Lý thuyết là vậy nhưng làm sao biến cái tư tưởng ấy trở thành hiện thực mới là chuyện khó .Lịch sử còn ghi lại rằng: Cũng kỳ thi hội năm đó (1442) – kỳ thi mà bài văn bia bất hủ của Thân Nhân Trung ra đời thì Nguyễn Trãi đã được đích thân nhà vua tín nhiệm ủy thác làm chánh chủ khảo. Trong khoa thi này đề ra của Nguyễn Trãi là “Vi trị tất đắc nhân vi bản”. Nghĩa là làm chính trị thì phải lấy việc được người giỏi làm gốc. Các sĩ tử đã từ cái đề bài này mà làm ra những bài văn cực kỳ thống thiết có nội dung tương tự như đào tào, sử dụng hiền tài. Vậy nhưng mà, chỉ một thời gian ngắn sau đó (Tháng 8 – 1442) chính Nguyễn Trãi – một con người cương trực, một tấm gương sáng có công khai quốc đã lâm vào huyết án Lệ Chi Viên để rồi bị tru di tam tộc. Đây là một thảm kịch lớn nhất trong hàng ngũ những danh nhân lớn của Việt Nam. Nguyễn Trãi là một vì sao sáng rực rỡ trên bầu trời phương nam nhưng cũng ánh hùng tinh đó đã lịm tắt giữa một bầu trời đầy mây mù oan khuất. Thế mới biết, từ lý thuyết đến thực tiễn mới khó lắm thay. Dụng hiền sao cho êm chèo mát mái vẫn là một vấn đề mà những người làm công tác lãnh đạo đất nước phải thường xuyên suy ngẫm. Chính họ mới là người có thể đưa ra những đối sách có quan hệ trực tiếp đến vận mệnh của những tài năng. Giáo dục đào tạo nên hiền tài và thi cử để khẳng định hiền tài – Đó vẫn là con đường chủ yếu trong hàng thế kỷ qua ở Việt Nam. Nền giáo dục của chúng ta bây giờ quả là đã vô cùng ưu việt so với giáo dục thời phong kiến nhưng chưa thể nói là ưu việt đối với các nền giáo dục tiến bộ của khu vực chứ đừng nói gì đến các nền giáo dục hàng đầu của thế giới. Phải nhìn nhận đúng sự thật này mới dũng cảm đưa nền giáo dục của chúng ta đi lên. Trong một thế giới mở như hiện nay việc giao lưu học hỏi không phải là quá khó nữa. Trách nhiệm đặt ra cho những người làm công tác có tính chiến lược của giáo dục nước nhà là đầy thử thách nhưng cũng đầy cơ hội. Lẽ dĩ nhiên đó không thể là câu chuyện chỉ một sáng một chiều. Chúng ta có thể tin vào con đường mà chúng ta đang đi hôm nay. Nền giáo dục đang ngày càng khẳng định mình sẽ làm tròn nhiệm vụ đào tạo ra những hiền tài đích thực cho đất nước. Đề 4: Suy nghĩ của em về câu tục ngữ “Thất bại là mẹ của thành công”. Bài làm Trong kho tàng tục ngữ dân gian, cha ông ta đã từng đúc kết: “Thất bại là mẹ của thành công”. Từ tinh thần của cái kinh nghiệm quý báu như thế, bất kỳ ai trong mỗi chúng ta cũng đều rút ra được cho mình một bài học có ý nghĩa nhân văn vô cùng sâu sắc. Sự thật thì chẳng ai là không muốn hướng tới những thành công. Tuy nhiên, trong một số thời điểm khác nhau, vì những lý do khác nhau mà chúng ta buộc phải
đối mặt với những điều không như mong muốn. Trong những hoàn cảnh như thế thì quan điểm trong câu tục ngữ nói trên của người xưa là một liều thuốc tinh thần rất có giá trị. Tâm lý nói chung của con người là mỗi khi đứng trước những thất bại ít nhiều đều có những tác động tiêu cực. Tuy nhiên, nếu cứ nghiêm trọng hóa vấn đề thì mọi thứ lại càng trở nên hết sức tồi tệ. Thậm chí, không biết chừng, nó sẽ dẫn tới những ngõ cụt, bế tắc, không lối thoát. Tại sao cha ông ta lại nói “Thất bại là mẹ của thành công”? Đây không bao giờ là một quan hệ nhân quả mà hiển nhiên nó đã là như thế. Từ thất bại có đến được với thành công hay không hoàn toàn phụ thuộc vào cách con người đối diện với nó. Nếu cứ buồn bã, bi quan, chán nản rồi dẫn đến buông xuôi, bỏ cuộc thì cái thất bại trút xuống đầu ta kia chính là một thứ thất bại kép. Ai nên khôn mà chẳng dại một đôi lần. Nhưng vấn đề là từ một lần ngã anh ta có thể có được ba lần bớt dại hay không? Càng đứng trước thất bại con người càng cần phải bình tĩnh, sáng suốt và trung thực xác định một cách chính xác nguyên nhân để từ đó rút ra được cho mình những bài học thực tế mang tính trải nghiệm quý báu. Nếu là do thiếu may mắn chúng ta chỉ còn biết cách chờ đợi cơ hội khác mà thôi nhưng nếu do bản thân còn thiếu sót, chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc thì cần phải nghiêm khắc với chính mình trong những nổ lực thay đổi. Còn nếu như do kẻ gian hãm hại thì chúng ta phải dũng cảm đấu tranh để đòi lại công bằng vv… Tìm đến ngọn nguồn của nguyên nhân như thế chính là con đường đi thông minh nhất để từ sau thất bại chúng ta mới có thể đứng dậy một cách mạnh mẽ hơn, quyết tâm hơn. Thành công sẽ đến cũng là vì lẽ đó. Nick vujicic hiện nay là một diễn giả nổi tiếng trên toàn thế giới. Anh ta có một cuộc sống khiến rất nhiều người phải ngưỡng mộ. Tuy nhiên, từ một con người mất cả hai tay và hai chân như anh ta thì con đường đi đến thành công hẳn là phải chông gai hơn rất nhiều so với người khác. Chắc chắn Nick đã từng trải qua rất nhiều thất bại. Có điều anh đã không gục ngã trước những thất bại như thế. Bằng ý chí và nghị lực hơn người anh đã luôn đứng dậy một cách hết sức kiên cường. Bàn về vấn đề này, chính là Nick đã có một quan điểm xứng đáng được coi là khẩu hiệu hành động của tuổi trẻ: “Nếu tôi thất bại tôi sẽ thử làm lại, làm lại và làm lại nữa. Nếu bạn thất bại bạn cũng sẽ thử làm lại chứ?”. Ở một phương diện nào đó, thất bại cũng có những ý nghĩa tích cực. Nó giúp chúng ta biết được năng lực thực tế của bản thân. Để rồi từ đó cần phải biết cân nhắc chính xác khi đo bò làm chuồng và liệu cơm gắp mắm chứ không nên đuổi theo những ảo tưởng hảo huyền. Một anh chàng nào đó rất khỏe mạnh. Anh ta thường phớt lờ những lời khuyên về việc bảo vệ sức khỏe. Một ngày kia anh đã lăn đùng ra ốm, thậm chí là một trận ốm rất nặng. Đến lúc ấy anh ta sẽ ngộ ra rằng, con người ta dù mạnh mẽ đến đâu, nếu không cẩn thần rồi cũng sẽ bị gục ngã. Là những người học sinh còn ngồi trên ghế nhà trường thì tinh thần nhân văn trong câu tục ngữ nói trên của cha ông ta lại càng đặc biệt quan trọng. Tuổi trẻ bồng bột, nông nổi, hiếu thắng càng rất dễ mắc sai lầm. Bởi vậy, trong những lúc như thế
chúng ta cần biết vịn tay vào câu tục ngữ này để có được một sự nâng đỡ. Ngay cả các bậc vĩ nhân cũng còn mắc sai lầm thì việc chúng ta chưa có được những điều như mong muốn âu cũng là một chuyện rất dễ hiểu. Dám nhìn thẳng vào thất bại để ngẩng cao đầu đi về phía trược mới chính là cách hành xử của một con người có học. Đề 5: Người ăn xin “Một người ăn xin đã già. Đôi mắt ông đỏ hoe, nước mắt ông giàn giụa, đôi môi tái nhợt, áo quần tả tơi. Ông chìa tay xin tôi. Tôi lục hết túi nọ đến túi kia, không có lấy một xu, không có cả khăn tay, chẳng có gì hết. Ông vẫn đợi tôi. Tôi chẳng biết làm thế nào. Bàn tay tôi run run nắm chặt lấy bàn tay run rẩy của ông: - Xin ông đừng giận cháu! Cháu không có gì cho ông cả. Ông nhìn tôi chăm chăm, đôi môi nở nụ cười: - Cháu ơi, cảm ơn cháu! Như vậy là cháu đã cho lão rồi. Khi ấy tôi chợt hiểu ra: cả tôi nữa, tôi cũng vừa nhận được một cái già đó của ông.” (Theo Tuốc – ghê – nhép – Ngữ Văn 9 – Tập I – Trang 22) Từ mẩu chuyện trên hãy nêu suy nghĩ của mình về vấn đề tôn trọng mọi người! Bài làm: Có thể nói rằng hình ảnh nhân vật cậu bé cùng với ông lão ăn mày nói trên là một mẩu chuyện hết sức thú vị. Là bởi vì, qua đó bất kỳ ai trong mỗi chúng ta cũng đều đúc kết được cho mình một bài học có ý nghĩa nhân văn vô cùng sâu sắc về sự tôn trọng mọi người. Câu chuyện đặt ra một tình huống mà chúng ta vẫn thường bắt gặp: một ông lão hành khất khốn khổ đang chìa tay cầu xin mọi người bố thí. Trong những trường hợp tương tự như thế thì hình ảnh quen thuộc nhất mà chúng ta vẫn thường được chứng kiến là ông lão sẽ được người ta ban phát cho một cái gì đó có thể là vài đồng tiền lẻ, nắm gạo hay một ổ bánh mì… nhưng gần như cùng với đó là những cái nhìn ghẻ lạnh, khinh bỉ mà thậm chí là xua đuổi. Còn nhân vật xưng tôi trong câu chuyện thì sao? Cậu bé đã ý thức rất rõ cái bộ dạng đáng thương của con người tội nghiệp đang đứng trước mặt mình. Đôi mắt ông đỏ hoe, nước mắt ông giàn giụa, đôi môi tái nhợt, áo quần tả tơi. Cậu rất muốn mình cũng sẽ làm như mọi người, tức là giúp đỡ cho ông lão ăn mày một chút ít gì đó về vật chất. Nhưng dù có lục hết túi nọ đến túi kia thì cũng không có lấy một xu, không có cả khăn tay, chẳng có gì hết. Trong khi đó thì ông lão ăn mày cứ vẫn chờ đợi. Điều này đã khiến cho cậu ta cảm thấy rất áy náy. Mọi thứ tưởng như vì thế mà sẽ đi vào ngõ cụt thì câu chuyện lại được đột ngột mở ra một hướng rẽ hết sức cảm động. Nhà văn đã để cho nhân vật của mình có một cách hành xử hết sức bất ngờ. Cậu bé đã run run nắm chặt lấy bàn tay run rẩy của ông lão và nói như một lời tạ tội: - Xin ông đừng giận cháu! Cháu không có gì cho ông cả.
Chính cái thái độ rất trân trọng và lễ phép như thế đã lập tức tạo ra một phản ứng gần như chưa từng xảy ra trong cuộc đời lang thang hành khất kiếm sống của ông lão ăn mày tội nghiệp. Trên khuôn mặt bi thương khắc khổ của ông bổng nở một nụ cười. Ông đã đáp lễ cậu bé bằng một sự biết ơn rất mực chân thành: - Cháu ơi, cảm ơn cháu! Như vậy là cháu đã cho lão rồi. Điều gì đã khiến cho ông lão cảm kích đến là như vậy? Đó là bởi vì ông ông rất hạnh phúc vì cảm thấy rằng mình đang được tôn trọng. Từ lâu, với con người này nó là một cái gì đó vô cùng xa xỉ. Đừng nghĩ rằng ông lão chỉ là một kẻ thấp hèn, hạ đẳng. Ông lão trước hết là một con người. Ông rất muốn mình được người ta đối xử đúng với nghĩa của một con người. Từ sự nhạy cảm tột cùng của một kẻ thường xuyên bị ruồng bỏ như thế, ông lão mới nhanh chóng nhận ra cái giá trị tình người mênh mông mà một đứa trẻ rất hồn nhiên đang mang lại. Với ông, chỉ ngần ấy cũng đã là rất nhiều. Câu chuyện giúp chúng ta ngộ ra một vấn đề rất giản dị trong cuộc sống đó là sự tôn trọng mọi người. Trong bóng đêm hàng ngàn năm của các triều đại phong kiến, những người dân lao động thấp cổ bé họng chỉ là phận con sâu cái kiến luôn bị đè đầu cưỡi cổ. Họ không hề có được cái quyền bình đẳng để mà mưu cầu hạnh phúc. Đó là cái hệ quả trớ trêu của việc họ không hề được tôn trọng. Dưới con mắt của bọn thực dân Pháp thì những người dân thuộc địa chỉ là “An nam mít bẩn thỉu” hay là “Da đen bẩn thỉu” mà thôi. Thử hỏi, với cái vị thế như vậy họ lấy cơ sở nào để mà hướng tới những điều tốt đẹp? Cuộc sống ngày hôm nay của chúng ta đã tiến bộ hơn rất nhiều. Sự tôn trọng trong một trật tự xã hội tự do, công bằng, bình đẳng, bác ái đã luôn được đề cao. Đây chính là một vấn đề mang tính rường cột của văn hóa ứng xử. Tại sao kết thúc bài “Chiếu dời đô” nổi tiếng của mình, nhà vua Lý Công Uẩn không hạ một lời phán quyết mang tính mệnh lệnh buộc tất cả phải phục tùng? Đó là bởi vì ông muốn tranh thủ sự ủng hộ tuyệt đối của các vị đại thần khi tạo cho họ cái cảm giác được nhà vua tôn trọng. Chẳng phải đó là một cách ứng xử hết sức khôn ngoan hay sao? Còn nhớ ngày 2/9/1945, khi đọc bản tuyên ngôn độc lập đến giữa chừng, Bác đã dừng lại hỏi mọi người: “Tôi nói đồng bào nghe có rõ không?”. Cả triệu người đã cùng đồng thanh đáp “Có ạ!”. Tiếng nghe vang như sấm dậy. Lúc đó Bác cùng với cả biển người đã hòa làm một. Tại sao vậy? Bởi vì Bác của chúng ta đã đáp ứng được cái nguyện vọng tha thiết của cả dân tộc suốt mấy nghìn năm. Lần đầu tiên trong lịch sử những người bình dân mới cảm nhận được cái cảm giác mình vừa được một vị nguyên thủ quốc gia coi trọng. Các từ ngữ xưng hô tôi và đồng bào của Bác là hết sức chuẩn mực. Khoảnh khắc lịch sử ấy đã mở ra một bước ngoặt về một thời đại dân chủ. Tôn trọng mọi người cốt nhất ở sự chân thành. Cần phải biết cảm thông, chia sẻ, lắng nghe và thấu hiểu.Từ việc xưng hô trong giao tiếp đến cách mà chúng ta ứng xử với người khác. Hãy biết nâng niu, trân trọng những ưu điểm, những thành tích của họ để khích lệ, cỗ vũ. Đừng bao giờ có thái độ bới lông tìm vết, chú trọng vào
những lỗi lầm, khiếm khuyết của người khác để dè bỉu, đàm tiếu. Sự được tôn trọng sẽ giúp cho mọi người có thêm những động lực. Họ sẽ phấn chấn hơn, có nhiều năng lượng để làm ra những điều tốt đẹp trước hết là cho chính họ và sau nữa là cho cả cuộc đời này. Trái với sự tôn trọng chân thành đó là thói xun xoe, nịnh bợ hay là xảo trá, lường gạt. Tất cả chỉ vì những mục đích vụ lợi thấp hèn. Đó là một cách hành xử mang tính ngụy trang, lòe bịp cần phải lên án. Là những người học sinh còn ngồi trên ghế nhà trường. “Tiên học lễ, hậu học văn”. Điều này càng là một vấn đề mà chúng ta phải không ngừng tích lũy, rèn luyện và tu dưỡng. Tôn trọng người khác với thái độ chân thành là một nhẽ nhưng phải làm sao để họ tôn trọng mình cũng là một vấn đề rất đáng quan tâm. Chúng ta phải nổ lực để có được những thành tích ấn tượng, tạo được chổ đứng của mình trong sự tín nhiệm của cộng đồng thì mọi sự tôn trọng của người khác mới là điều mình xứng đáng có được. Đề 6: Có một mẩu chuyện đại loại được kể như sau:
Đôi tai của tâm hồn Có một cô bé rất yêu ca hát nhưng đã bị thầy giáo dạy nhạc loại ra khỏi dàn đồng ca. Cô bé rất buồn tủi và một mình tìm đến với công viên để ngồi khóc. Cứ như thế cô đã khóc rất nhiều nhưng rồi cô cũng bắt đầu khe khẻ hát. Mặc dù tiếng hát của cô vẫn hòa lẫn với nước mắt nhưng cô cũng đã hát từ bài nọ sang bài kia cho đến lúc mệt lử thì thôi. Bóng chiều buông xuống trên công viên. Cô bé đứng dậy để chuẩn bị trở về nhà thì bất ngờ có một giọng nói vang lên: - Cháu hát hay lắm! Cảm ơn cháu vì đã cho ta một buổi chiều vui vẻ! Ngước về phía có giọng nói, cô bé nhận ra đó là một cụ già râu tóc bạc phơ. Cụ nhìn cô với một cái nhìn rất hiền hậu. Ngày hôm sau và nhều ngày hôm sau nữa, cô bé vẫn một mình ra công viên vào mỗi buổi chiều để say sưa tập hát. Cụ già ở cái ghế đá bên cạnh vẫn ngồi chăm chú lắng nghe. Sau mỗi lần chia tay cụ không bao giờ quên dành cho cô bé những lời động viên khích lệ. Nhiều năm trôi qua cô bé đã trở thành một ca sĩ nổi tiếng. Cô đã dành được nhiều giải thưởng âm nhạc danh giá trong và ngoài nước, tên tuổi cô ngày càng nổi như cồn trên khắp các mặt báo. Một buổi chiều cô trở lại với công viên ngày xưa nhưng ở cái ghế đá bên cạnh chổ cô ngồi không còn hình ảnh cụ già nữa. Người ta cho cô biết đó là một cụ già bị điếc và cụ đã qua đời cách đó không lâu. Cô bé sững người và òa khóc. Bấy giờ cô mới nhận ra được một điều thật cao cả: thì ra bao nhiêu năm qua cô luôn được cụ già ấy lắng nghe và cổ vũ bằng một đôi tai thật đặc biệt: đôi tai của tâm hồn. Suy nghĩ của em về những bài học cuộc sống đến từ mẩu chuyện nói trên! Bài làm: Có thể nói rằng nhân vật cô bé với cụ già trong công viên kia quả thực là một mẩu chuyện hết sức thú vị. Là bởi vì, qua đó bất kỳ ai trong mỗi chúng ta cũng đều đúc kết được cho mình những bài học cuộc sống có ý nghĩa nhân văn vô cùng sâu sắc.
Trước hết chúng ta hãy cùng tìm hiểu những diễn biến xúc động của câu chuyện này. Nhân vật cô bé ở đây đã có một điểm xuất phát không hề suôn sẻ. Cô đã bị thầy giáo dạy nhạc loại ra khỏi dàn đồng ca. Với một tâm hồn còn đầy non nớt như thế thì đó quả thực là một sự đả kích không dễ vượt qua. Nhiều người rơi vào hoàn cảnh tương tự đã hết sức bi quan, chán nản thậm chí là trượt dốc không phanh. Và nhân vật cô bé trong câu chuyện cũng đã ít nhiều có những biểu hiện như thế. Cô đã một mình tìm đến với công viên và ngồi khóc. Tuy nhiên sau đó cô đã bắt đầu khe khẻ hát. Mặc dù tiếng hát của cô vẫn hòa lẫn với nước mắt nhưng cô cũng đã hát từ bài nọ sang bài kia cho đến lúc mệt lử thì thôi. Nếu câu chuyện chỉ dừng lại ở đây thì vẫn chưa có gì đặc biệt. Nhưng mọi thứ đã trở nên xúc động hơn rất nhiều khi có thêm một nhân vật nữa xuất hiện: nhân vật cụ già trong công viên. Cụ đã mang đến cho cô bé một sự khích lệ vô cùng quý báu. Bởi vì những lời động viên chân thành ấy của cụ già đã khiến cô bé phấn chấn trở lại. Cô có thêm niềm tin vào bản thân để hướng về phía trước. Ngày hôm sau và nhều ngày hôm sau nữa, cô bé vẫn một mình ra công viên vào mỗi buổi chiều để say sưa tập hát. Cụ già ở cái ghế đá bên cạnh vẫn ngồi chăm chú lắng nghe. Sau mỗi lần chia tay cụ không bao giờ quên dành cho cô bé những lời động viên khích lệ. Sự gắn bó kỳ lạ giữa hai con người này đã tạo ra một phép màu trong cuộc sống. Từ một kẻ bị bỏ rơi sau nhiều năm cô bé đã trở thành một ca sĩ nổi tiếng. Cô đã dành được nhiều giải thưởng âm nhạc danh giá trong và ngoài nước, tên tuổi cô ngày càng nổi như cồn trên khắp các mặt báo. Diễn biến của câu chuyện đến đây đã là hết sức tuyệt vời nhưng sẽ còn là tuyệt vời hơn rất nhiều khi chúng ta biết được cái kết đầy xúc động của nó. Một buổi chiều khi cô bé trở lại với công viên ngày xưa nhưng ở cái ghế đá bên cạnh chổ cô ngồi không còn hình ảnh cụ già nữa. Người ta cho cô biết đó là một cụ già bị điếc và cụ đã qua đời cách đó không lâu. Cô bé sững người và òa khóc. Tại sao vậy? Đó là bởi vì Bấy giờ cô mới nhận ra được một điều thật cao cả: thì ra bao nhiêu năm qua cô luôn được cụ già ấy lắng nghe và cổ vũ bằng một đôi tai thật đặc biệt: đôi tai của tâm hồn. Từ mẩu chuyện trên soi chiếu vào cuộc đời chúng ta sẽ có rất nhiều thấm thía. Trước hết hãy bắt đầu bằng hình ảnh nhân vật cụ già bị điếc. Mặc dù bản thân cụ cũng phải đối diện với một khiếm khuyết đầy đau khổ. Nhưng khi nhìn thấy cô bé tội nghiệp đi vào trong công viên thì sự từng trải đã khiến cho lòng trắc ẩn của cụ trổi dậy. Cụ hiểu rằng cô bé đang là một tâm hồn đầy tổn thương và đang rất cần tới những sự giúp đỡ. Cách hành xử cao thượng của nhân vật cụ già bổng gợi chúng ta nghĩ đến lời tâm sự của nữ văn sĩ người Mỹ Helen Keller rằng: “Tôi đã khóc vì không có giày để đi cho đến lúc nhìn thấy một người không có chân để đi giày”. Phải chăng chính cụ già này ngay lúc ấy đã cho rằng cảnh ngộ bản thân bị khiếm thính của mình cùng lắm chỉ là nỗi đau của kẻ không có giày để đi còn cô gái bé bỏng kia mới thực sự là người lâm vào tình thế không có chân để đi giày. Việc cụ già đã lặng lẽ đóng kịch trong suốt một thời gian dài ở bên cô bé không hề mang tính gian dối mà thực sự đó là một câu chuyện về tình người hết sức đẹp đẽ. Cụ muốn động viên khích lệ cho con người này có đủ dũng khí và nghị lực để vươn lên. Bởi vậy khi nói về thành công sau
này của nhân vật cô bé chúng ta không thể không ghi nhận những sự đóng góp rất đáng kính của nhân vật cụ già. Đây là một bài học rất lớn về tình yêu thương giữa con người với con người. Chúng ta hãy gạt bỏ bớt cái tôi ích kỷ của bản thân để mở lòng ra với thế giới xung quanh. Bởi vì trên cuộc đời này còn có biết bao nhiêu cảnh ngộ éo le. Họ đang cần lắm những tấm lòng nhân ái. Tình yêu thương chân thành với tất cả sự lắng nghe và thấu hiểu của mọi người sẽ giúp cho những số phận tối tăm có cơ hội được tìm ra ánh sáng. Ngược lại những sự vô cảm lạnh lùng tàn nhẫn xuất hiện đâu đó chính là nguyên nhân đã giết chết đi biết bao niềm hy vọng. Về phía nhân vật cô bé thì cái cách mà cô đã dũng cảm đứng dậy sau thất bại đầu tiên của cuộc đời cũng rất đáng để chúng ta phải học tập. Đánh giá về sự thành công sau này của cô thì như đã nói chúng ta phải rất đặc biệt coi trọng những đóng góp thấm lặng của hình ảnh cụ già nhưng công bằng mà nói phép màu ấy của cuộc sống trước hết là đã được tạo ra bằng ý chí, nghị lực phi thường của chính nhân vật này. Hãy giống như cô bé! Càng đứng trước những khó khăn chúng ta càng không được buông bỏ. Chẳng phải cha ông ta đã từng khuyên con cháu là chớ thấy sóng cả mà ngả tay chèo đó hay sao? Thất bại là điều chẳng hay ho gì nhưng nó vẫn là những sự thực mà chúng ta buộc phải đối diện. Nó rất cần ở mỗi người cái bản lĩnh lửa thử vàng gian nan thử sức. Chỉ có sự bình tĩnh, sáng suốt mạnh mẽ và tự tin thì chính từ trong thất bại chúng ta mới có thể đúc kết được kinh nghiệm để hướng tới thành công. Nick vujicic hiện nay là một diễn giả nổi tiếng trên toàn thế giới. Anh ta có một cuộc sống khiến rất nhiều người phải ngưỡng mộ. Tuy nhiên, từ một con người mất cả hai tay và hai chân như anh ta thì con đường đi đến thành công hẳn là phải chông gai hơn rất nhiều so với người khác. Chắc chắn Nick đã từng trải qua rất nhiều thất bại. Có điều anh đã không gục ngã trước những thất bại như thế. Bằng ý chí và nghị lực hơn người anh đã luôn đứng dậy một cách hết sức kiên cường. Nick là một tấm gương tuyệt đẹp của một con người tàn mà không phế. Một điều cuối cùng chúng ta cần bàn tới đối với mẫu chuyện nói trên đó chính là sự biết ơn. Bởi vì nhân vật cô bé sau khi có được những thành công đã tìm trở lại với công viên ngày xưa chắc chắn cốt là để báo tin cho cụ già và cũng để nói với cụ một lời cảm ơn thật sâu sắc. Đó là một thái độ hành xử đúng với tinh thần của đạo lý truyền thông uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây. Thành công nào thì trước hết cũng đến từ nổ lực của mỗi người nhưng chúng ta không bao giờ có quyền phủ nhận những sự giúp đỡ của mọi người xung quanh. Hãy giống như nhân vật trữ tình người cháu trong bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt! Cho dù có đi xa khắp góc biển chân trời thì anh ta vẫn luôn dành một chổ đứng rất thiêng liêng trong lòng mình cho hình ảnh người bà kính yêu cũng như cái bếp lửa đơn sơ nhưng kỳ diệu của bà. Với những người học sinh còn ngồi trên ghế nhà trường thì những bài học cuộc sống đến từ mẩu chuyện nói trên lại càng cần phải rất thấm thía. Mọi thứ ngày hôm nay của chúng ta chỉ là mới bắt đầu. Tương lai đang rất rộng và rất dài ở phía trước. Cuộc đời sẽ đưa chúng ta đến với những chân trời mới. Hấp dẫn nhiều hơn nhưng khó khăn và thử thách cũng sẽ nhiều hơn. Bài học về tình yêu thương giữa con người với con người, cách mà chúng ta đứng trước thất bại cũng như lòng biết ơn trước cuộc đời sẽ là những hành trang vô cùng quý giá mà chúng ta cần phải coi trọng.
Phần II: DẠNG ĐỀ NGHỊ LUẬN VĂN HỌC A: PHẦN NGHỊ LUẬN VỀ TÁC PHẨM TRUYỆN, ĐOẠN TRÍCH. Đề 1: Suy nghĩ của em về hình ảnh người lính trong đoạn trích truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Bài làm: Có thể nói rằng vẻ đẹp cuộc sống chiến đấu của anh bộ đội cụ Hồ trong khói lửa của hai cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại vừa qua luôn là một nguồn cảm hứng đầy hấp dẫn cho nền văn học của dân tộc đã, đang và sẽ khai thác. Có rất nhiều những cây bút tên tuổi của dòng văn học cách mạng đã khẳng định được thành công của mình về mảng đề tài này. Tuy nhiên, nổi bật trong đó, hình ảnh người lính trong đoạn trích truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng vẫn thực sự đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc hơn cả. Vẫn với cái đề tài người lính như đã nói ở trên nhưng nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã không hề đi trên lối mòn quen thuộc. Ông không chủ trương nói nhiều về vẻ đẹp quả cảm rất đáng ngưỡng mộ của người lính ở ngoài chiến trường. Ở đây, trong câu chuyện này, nhà văn chỉ tập trung khai thác những biểu hiện rất riêng tư trong đời sống tâm hồn của họ. Cụ thể là một câu chuyện hết sức xúc động về tình cảm cha con vô cùng thiêng liêng, sâu nặng. Tuy nhiên, cũng chính bởi sự khám phá mới mẻ này mà mỗi trang viết của ông đã tạo nên sự cuốn hút mạnh mẽ đối với mọi thế hệ bạn đọc… Xoay xung quanh cuộc gặp gỡ bất ngờ cảm động của hai nhân vật ông Sáu và bé Thu tác giả đã tạo nên được cái cớ của câu chuyện. Điều này không chỉ bộc lộ tài năng mà còn cho thấy sự thấu hiểu, cảm thông và chia sẻ của ông đối với những hy sinh mất mát trong cuộc sống đầy gian khổ của những người lính. Ông Sáu - nhân vật chính của câu chuyện này, là một người như vậy. Vì nhiệm vụ của người lính mà ông phải xa nhà biền biệt tới 7,8 năm trời. Ngặt một nỗi, kể từ đó hai cha con họ chưa hề được gặp mặt nhau. Khỏi phải nói cái tấm lòng người cha trong ông đã hướng về con bé bằng một tình cảm mãnh liệt đến cỡ nào. Ông đã trong chờ tứng giây, từng phút cho tới lúc được gặp mặt con. Giả sử, câu chuyện kể về việc ông Sáu ghé thăm nhà, hai cha con họ được quây quần bên nhau rồi bịn rịn chia tay thì chắc không có gì đáng nói. Bởi, ở đó sẽ không có những gay cấn, những thúc bách hay những tột cùng đau đớn cũng như những tột cùng hạnh phúc ... Tuy nhiên, tác giả của câu chuyện này không làm như vậy. Ông đã tinh tế khai thác những nỗi éo le, trắc trở mà cuộc sống thời chiến tranh mang lại để đặt hai cha con ông Sáu vào trong một cảnh ngộ gặp nhau vô cùng xúc động. Chỉ một suýt thôi, tất cả niềm khao khát từ cả hai phía ông Sáu và bé Thu sẽ bị đổ vở. Nhà văn đã men theo tình tiết rất nhạy cảm ấy để dẫn dắt nhân vật, khiến cho độc giả phải lo lắng, hồi hộp đến mức nghẹt thở. Trong phần đầu đoạn trích, tác giả của câu chuyện này đã để cho nhân vật của mình được ghé về phép thăm nhà trong khoảng ba ngày ngắn ngủi trước khi ông cùng với đồng đội sẽ bước vào một giai đoạn làm nhiệm vụ còn cam go và ác liệt hơn rất nhiều. Đây thực sự là một cơ hội quý hơn vàng đối với những người lính trận như ông
Sáu. Chúng ta có thể cảm nhận được con người này đã mang theo những tâm trạng hạnh phúc đến cỡ nào trên từng mỗi bước chân trở về nhà. Viễn cảnh được gặp con, được ôm nó vào lòng, được nghe nó nũng nịu gọi hai tiếng ba ơi đã gần như choán hết mọi tâm trí của ông. Khi thuyền còn chưa tới bến nhưng nhìn thấy một đứa bé đang chơi giữa sân nhà, chắc mẫm đó là con bé Thu – đứa con gái của mình nên ông Sáu đã đu mình nhảy lên làm cho mọi người trên thuyền chòng chành sắp ngả. Đằng sau cái hành động ấy là cả một tấm lòng làm cha thật mãnh liệt. Ông muốn đốt cháy nốt những chút thời gian ngắn ngủi cuối cùng còn lại để mau chóng được gặp con. Đây chỉ là một phần chuyện nhỏ nhưng nó cho thấy nhà văn đã thấu hiểu nhân vật của mình đến tận chân tơ kẽ tóc. Nhưng, thật trớ trêu. Khi cái đích của viễn cảnh hạnh phúc mà ông Sáu vô cùng khao khát kia chỉ còn cách trong gang tấc thì con bé Thu bổng có một hành động vô cùng kỳ quặc. Nó đã quay đầu, mặt tái mét, hốt hoảng và vùng bỏ chạy. Bởi vì mọi chuyện diễn ra quá bất ngờ, ông Sáu không hề chuẩn bị tinh thần để đối diện cho nên nhất thời ông đã bị sốc. Bộ dạng của ông lúc ấy trông thật tội nghiệp. Ông gần như chết điếng giữa sân nhà mình. Hai tay ông buông thõng về phía trước như bị gãy. Đây thực sự là một phần chuyện đã tạo nên niềm thương cảm sâu sắc đối với độc giả. Ông Sáu là một người lính đã có quá nhiều những hy sinh mất mát ở ngoài chiến trường. Ông không đáng bị đối xử như vậy. Lẽ ra đây phải là lúc mà ông cần được đền đáp, được bù đắp, được xoa dịu, được sống trọn vẹn trong niềm hạnh phúc của tình cảm cha con. Cứ tưởng những diễn biến bất thường kia chỉ là một phản ứng nhất thời bồng bột mang tính trẻ con của con bé Thu mà thôi. Nào ngờ nó lại đã trở thành một vấn đề hết sức nghiêm trọng. Bất chấp việc ông Sáu và tất cả mọi người đã tìm đủ mọi cách khuyên can, dỗ dành con bé nhưng đáp lại nó vẫn càng trở nên rất ương ngạnh, bướng bỉnh và cố chấp. Đỉnh điểm của mâu thuẩn là trong bữa cơm chiều cuối cùng mà ông Sáu được ăn với vợ con, khi ông nhón tay gắp một miếng trứng cá to vàng cho con bé thì nó đã phản ứng rất quyết liệt. Nó hất cả bát cơm là cơm bắn tung tóe cả mâm. Điều này giống như hình ảnh của một giọt nước tràn ly. Ông Sáu không thể kìm nén được sự tức giận. Ông đã vung tay đánh con. Nó không khóc nhưng đã lặng lẽ ra bơi xuống sang nhà bà ngoại. Điều này khiến cho bất kỳ ai dù có lạc quan đến mấy cũng đều phải ngao ngán nghĩ rằng câu chuyện tình cảm cha con giữa ông Sáu và bé Thu đã thực sự là một dấu chấm hết Sáng hôm sau, ông Sáu đã phải chuẩn bị lên đường. Một cuộc chia tay sinh tử không hẹn ngày gặp lại. Thế mà lòng ông lại đang nặng trĩu nỗi thất vọng vì cách đối xử kỳ quặc của đứa con gái thân yêu. Một tiếng gọi ba bình dị đối với mọi người mà với ông lại vẫn xa vời. Trong cuộc chia tay ấy không còn ai muốn nhắc tới bé Thu nữa vì ai cũng cho rằng nó là đứa trẻ cứng đầu, cứng cổ. Nhắc tới nó chỉ tổ làm cho ông Sáu thêm phần đau khổ mà thôi. Sự suy luận ấy đã khiến ông Sáu cũng như mọi người mặc nhiên coi bé Thu là kẻ đứng ngoài cuộc. Nhưng khi mà nỗi thất vọng kia đã không thể diễn tả hết bằng lời, khi mà không ai còn một mảy may hy vọng gì nữa, sự kiên nhẫn của người đọc đã chạm đến
tận đáy thì bất ngờ lại xảy ra. Con bé Thu bổng cất lên tiếng gọi ba vô cùng xúc động. Một tiếng gọi được miêu tả là nghe như tiếng xé, xé cả không gian của cuộc tiễn đưa, xé cả lòng người…Nhất thời, chẳng ai hiểu chuyện gì đang xảy ra nhưng mọi người đều cảm nhận được đó là một tiếng gọi rất chân thành. Một tiếng gọi tha thiết cất lên trong sâu thẳm trái tim thơ ngây của con bé. Chi tiết rất bất ngờ như thế dường như đã khiến ông Sáu thực sự được hồi sinh. Ông thậm chí không dám tin rằng đó là sự thực. Tạo cho nhân vật có được một hoàn cảnh như vậy tác giả đã làm cho hạnh phúc của cha con họ bổng trở nên thật lớn lao. Nó thiêng liêng sâu nặng hơn bất cứ một thứ tình cảm nào trên đời. Sẽ không quá khi nói rằng đây là một phần chuyện rất có hậu. Bởi, sau những biến cố đã qua ông Sáu đâu dám tin rằng mình lại còn có thể một hạnh phúc tròn đầy, viên mãn như vậy. Sau này, phải qua lời kể của bà ngoại con bé đối với bác Ba, người đọc mới hiểu ra tất cả. Mọi uẩn khúc của câu chuyện đều bắt nguồn từ cái vết thẹo trớ trêu trên khuôn mặt của ông Sáu. Khai thác diễn biến câu chuyện theo hướng này, không những nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã phát huy được sở trường của mình về những yếu tố truyện bất ngờ mà ông còn gợi nên ở người đọc niềm cảm thông sâu sắc vì những hy sinh, mất mát lớn lao của người lính. Ông Sáu đã lên đường với niềm hạnh phúc khôn tả vì cuối cùng đứa con gái thân yêu đã gọi ông là ba. Một tiếng gọi rất đỗi đơn sơ, bình dị mà ông từng khát khao chờ đợi trong suốt bao năm trời. Đã thế, nó lại suýt tan thành mây khói khi cuộc gặp gỡ của cha con ông bị phủ bóng đen bởi một sự hiểu lầm đáng tiếc. Từ những dẫn dắt tài tình như vậy, tác giả của câu chuyện đã khiến cho việc làm chiếc lược của nhân vật ông Sáu trở nên rất đáng chú ý. Đó là một phần chuyện kết lắng tất cả tình yêu thương con vô hạn của con người này. Chúng ta hãy hình dung tới cảnh khi tình cờ nhặt được khúc ngà voi trong rừng, ông Sáu đã "hớn hở như một đứa trẻ được quà”. Là bởi, khúc ngà voi đã vô tình khiến ông nảy sinh ý định làm chiếc lược tặng con. Điều này cho thấy tình yêu thương con luôn thường trực trong lòng của ông. Hơn thế nữa, xây dựng việc ông Sáu tự tay làm chiếc lược tặng con chắc chắn sẽ ý nghĩa hơn nhiều so với việc ông mua cho nó một chiếc lược như lời ông đã hứa trước khi lên đường. Trong phần chuyện này, phát huy tối đa vai trò của người kể chuyện nhà văn đã làm cho người đọc hết sức cảm động. Đó là một thứ cảm xúc được tái hiện bằng chính tâm trạng của một người trực tiếp chứng kiến toàn bộ quá trình ông Sáu làm chiếc lược. Theo như bác Ba - người kể chuyện, thì ông Sáu đã làm cây lược ngà tặng con "thận trọng, tỉ mỉ và cố công như một người thợ bạc”. Dường như ông đã gửi gắm vào trong từng chiếc răng lược tất cả tình yêu thương con tha thiết của mình. Phải tâm huyết lắm, kiên nhẫn lắm thì trong một điều kiện chiến trường khắc nghiệt như vậy ông Sáu mới có thể hoàn thành được ý nguyện làm chiếc lược tặng con. Ông đã vượt qua tất cả mọi khó khăn bằng một động lực tình cảm hết sức lớn lao. Nhưng, chiến tranh là vậy. Nó luôn có những quy luật rất tàn nhẫn. Khi chiếc lược đã hoàn thành thì ông Sáu lại không bao giờ có cơ hội nhìn thấy đứa con gái thân yêu của mình dùng nó để chải lên mái tóc dày được nữa. Ông đã lặng lẽ hy sinh vì bom đạn của giặc Mỹ. Đó là một phần chuyện hết sức cảm động. Nhất là chi tiết ánh
mắt của ông Sáu trước phút lâm chung. Ông dù không còn đủ sức để nói nhưng bởi tình cha con trong ông là một thứ không thể chết nên còn chút hơi tàn cuối cùng trong cuộc đời ông đã dồn vào ánh mắt khẩn cầu tha thiết muốn nhờ người bạn thân của mình - tức là bác Ba - người kể chuyện trao tận tay chiếc lược ngà cho bé Thu. Một chi tiết có sức ám ảnh rất lớn. Xây dựng việc ông Sáu hy sinh thực ra cũng là dụng ý của tác giả. Thứ nhất, nó khiến câu chuyện rất có ý nghĩa tố cáo chiến tranh và thứ hai nó còn nói lên rằng: bởi ông Sáu đã hy sinh nên chiếc lược ngà ông làm tặng con trở thành một kỷ vật vô cùng thiêng liêng, sâu nặng. Đó là kỷ vật duy nhất mà ông có thể làm được cho đứa con gái thân yêu của mình. Chúng ta là thế hệ của những người sinh ra và lớn lên sau tiếng súng cho nên được đọc những trang sách như truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng lại càng rất có ý nghĩa. Bởi như vậy mỗi người đọc sẽ thấm thía hơn những hy sinh mất mát của bao lớp cha anh để rồi từ đó biết trân trọng hơn những gì đang có của cuộc sống hôm nay. Qua nhân vật ông Sáu, tác giả của câu chuyện đã cho chúng ta có một cái nhìn đầy đủ hơn về cuộc sống gian khổ nhưng vô cùng anh dũng của người lính. Vẻ đẹp bình thường nhưng vĩ đại của họ mãi mãi là niềm tự hào cho mọi thế hệ người dân Việt Nam. Đề 2: Nhân vật anh thanh niên trong truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của nhà văn Nguyễn Thành Long khi tâm sự với ông họa sĩ đã cho rằng: “Khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được” Em hãy nêu suy nghĩ của mình về vấn đề trên Bài làm: Có thể nói rằng với truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” nổi tiếng của mình, nhà văn Nguyễn Thành Long đã mang đến cho người đọc một bức tranh cuộc sống cống hiến tuyệt đẹp của những con người lao động thầm lặng. Đặc biệt, nổi bật trong đó câu nói của nhân vật anh thanh niên khi tâm sự với ông họa sĩ rằng: “Khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được” vẫn khơi dậy trong tất cả chúng ta những suy nghĩ sâu sắc hơn cả. Con người chàng trai trẻ tuổi này trong câu chuyện của Nguyễn Thành Long đã không hề nói suông. Anh ta cũng không thuyết giáo một cách sách vở. Câu nói ấy là một bộc bạch chân thành từ chính những trải nghiệm trong cuộc sống đầy dũng cảm của anh trên đỉnh Yên Sơn. Ngay từ ban đầu anh đã xác định rằng làm cái nghề khí tượng của mình phải ở cái độ cao như thế mới gọi là “lý tưởng”. Điều đó đã giúp anh được chuẩn bị rất tốt về mặt tinh thần. Mỗi ngày phải báo “ốp” về trung tâm ba, bốn lần. Gian khổ nhất là vào lúc một giờ sáng. Khi mà khí hậu của Sa Pa là khắc nghiệt một cách điển hình. Bóng tối và giá lạnh như ào ào xô tới, cuốn phăng đi tất cả. Ngọn đèn bão vặn to đến cỡ nào cũng không đủ sáng. Xong việc vào là không tài nào ngủ lại được nữa. Ấy thế nhưng, thật kỳ lạ, suốt cả mấy năm trời chàng trai này chưa một lần lỗi hẹn. Đó là một ý thức công việc khiến chúng ta hết sức ngưỡng mộ. Chính anh ta khi tâm sự với ông họa sĩ cũng lại đã cho rằng công việc gian khổ là thế nhưng nếu vắng nó một ngày anh sẽ buồn mà chết mất. Nếu không có một tình yêu, một sự gắn bó với nghề nghiệp đến mức đam mê thử hỏi làm sao anh có thể vận hành các khối máy khổng lồ nặng
hàng tấn một cách thành thạo đến vậy? Thử hỏi làm sao anh có thể chỉ nhìn mây, gió, trăng, sao hay lá cây là có thể đoán biết được thời tiết của ngày mai? Với anh sự lao động miệt mài là một người bạn thân thiết. Tinh thần sáng tạo không ngừng luôn giúp anh có được những niềm vui đầy ý nghĩa. Nhất là khi anh biết rằng nhờ mình phát hiện ra một đám mây khô mà không quân ta đã bắn rơi máy bay Mỹ ở cầu Hàm Rồng thì nó lại càng làm cho anh được cổ vũ, được khích lệ. Anh hiểu rằng thứ công việc mà minh đang theo đuổi đã mang lại rất nhiều sự đóng góp cho cuộc đời chung. Con người ấy tuyệt vời là thế nhưng luôn cho rằng sự gian khổ hay cống hiến của mình chưa thấm là bao so với nhiều người khác. Nó luôn thôi thúc anh phải cố gắng phấn đấu nhiều hơn. Không chỉ trong lao động nghề nghiệp mà ở cả các lĩnh vực khác, tinh thần thái độ lao động đúng mực cũng đã luôn khiến anh làm nên những giá trị đầy ấn tượng. Niềm đam mê đọc sách, báo, tài liệu không chỉ giúp anh mở mang thêm sự hiểu biết mà còn giúp anh rất nhiều trong việc chiến thắng sự cô đơn. Anh còn trồng hoa và nuôi gà để vừa làm đẹp và vừa có được thêm sự cải thiện. Sống một mình trên núi cao nhưng “ông chủ của đỉnh Yên Sơn” này vẫn tạo nên một cuộc sống đầy niềm vui. Anh chính là tấm gương vẫy gọi cô kỹ sư an tâm hơn khi bước trên con đường tuổi trẻ cống hiến và cũng là nguồn cảm hứng để ông họa sĩ có thể vẽ nên một bức tranh tâm huyết… Từ những trang sách của Nguyễn Thành Long đến với cuộc đời. Câu nói của chàng trai kia đã giúp chúng ta ngộ ra nhiều điều về cái chặng hành trình đầy gian khổ nhưng cũng đầy vinh quang của sự lao động. Đây là căn nguyên cơ bản giúp con người thoát li khỏi thế giới động vật, trở thành ông chủ của muôn loài và ngày càng sống một cách văn minh hơn, tiện nghi hơn, đầy đủ hơn. Nếu ngẫm xa một chút về những thủa hồng hoang của lịch sử, khi tổ tiên ta còn đang ăn lông ở lổ, đang sống bầy đàn thì lúc đó cũng có khác là bao so với động vật. Tuy nhiên, từ khi chính những người nguyên thủy như thế biết chế tạo ra những dụng cụ bằng đá, biết dùng lửa để sưởi ấm và nấu chín thức ăn … thì đó cũng là lúc mà vị thế của loài người đã được hình thành. Trải qua hàng nghìn triệu năm nữa của lịch sử tiến hóa thì mới có được cuộc sống như chúng ta ngày hôm nay. Tất cả là nhờ vào sự lao động sáng tạo. Có lao động là có tất cả. Đại thi hào Vôn – te (Pháp) từng nói: “Lao động giải quyết ba mối họa: buồn nản, hư tật và cùng túng”. Thì quả là đúng như vậy! Chính niềm vui sáng tạo trong lao động đã mang lại cho con người những niềm vui lương thiện, giúp chúng ta chiến thắng những trạng thái tinh thần buồn bã, sầu não, khắc chế được những thói hư tật xấu và tạo ra của cải vật chất làm giàu đẹp cho cuộc đời. Con người có thể lặn sâu xuống tận đáy đại dương hay chinh phục cả mặt trăng, sao hỏa; có thể chế tạo nên cái kim bé tý và cũng có thể làm ra được những con tàu khổng lồ. Tiện nghi đã ngày càng được trang bị đến tận phòng ngủ của chúng ta. Là một người học sinh còn ngồi trên ghế nhà trường chúng ta càng cần phải ý thức sâu sắc hơn vấn đề này. Không có sự lao động sang trọng cũng chẳng có sự lao động thấp hèn. Tất cả sự lao động chính đáng đều hướng tới việc mang lại sự tốt đẹp cho cuộc sống loài người. Chúng ta cần những nhà khoa học trong các hoạt động nghiên cứu để làm ra những phát minh nhưng cũng cần người nông dân một sương
hai nắng làm nên hạt gạo, cần các kỹ sư, bác sĩ trong các công trường xưởng máy nhưng cũng cần những chị lao công đêm đêm quét rác để làm sạch đẹp phố phường. Không chỉ phải biết tích cực hăng say trong sự lao động hàng ngày mà chúng ta còn phải biết quý trọng thành quả lao động, phải biết cổ vũ, khích lệ mọi người hăng hái hơn trong công việc, trong nghề nghiệp của mình. Tương lai của chúng ta đang ở phía trước. Mọi sự phát triển đều gắn liền với tinh thần, thái độ lao động. Giới trẻ trong cuộc sống ngày hôm nay bên cạnh vai trò tiên phong, xung kích cũng không thiếu những con sâu làm rầu nồi canh, chỉ biết ăn chơi hưởng lạc mà không hề chịu học tập, lao động và cống hiến. Họ đã làm nên những vết đen đáng xấu hổ trong bức tranh cuộc sống của tuổi trẻ mà chúng ta cần phải cực lực lên án. Muốn mai này trở thành một công dân hữu ích, đóng góp nhiều hơn cho xã hội thì ngay ngày hôm nay phải nổ lực học tập, rèn luyện, tu dưỡng và tích lũy. Tại sao lũ bướm hào nhoáng không hề làm ra được giọt mật nào dù chúng mỗi ngày chúng cũng đều bay đến bên hoa? Đó là bởi chúng quá nhởn nhơ, hời hợt. Thế tại sao bầy ong bé nhỏ lại có thể làm ra những giọt mật ngọt cho đời? Đó lại là bởi vì chúng rất cần cù, chăm chỉ. Một đời ong thợ là một tấm gương lao động đầy ý thức. Cứ nhìn vào những hình ảnh như thế chúng ta hoàn toàn có thể hiểu tại sao người ta lại nói rằng trên con đường đi đến thành công không hề có dấu chân của những con người lười biếng. Hãy cứ đi ắt sẽ có đường. Con đường của tuổi trẻ là một con đường nhiệt huyết sục sôi. Tương lai đang chờ đợi chúng ta làm nên một cái gì đó thực sự có ý nghĩa cho đời. Đề 3: Phân tích nhân vật Phương Định trong truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” của nhà văn Lê Minh Khuê. Bài làm : Hòa mình trong cuộc sống của một nữ thanh niên xung phong trên con đường Trường Sơn ác liệt những năm tháng kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nhà văn trẻ Lê Minh Khuê đã cho ra mắt một tác phẩm truyện ngắn đầu tay “Những ngôi sao xa xôi” được rất nhiều người biết đến. Tuy nhiên, nổi bật trong số đó thì cô gái Phương Định – nhân vật xưng “tôi” – nhân vật chính của câu chuyện đã để lại cho người đọc nhiều ấn tượng hơn cả. Chúng ta có thể nhận thấy rất rõ, điểm nhìn trần thuật của câu chuyện được thể hiện qua lăng kính của chính người trong cuộc. Phương Định vừa là nhân vật chính vừa cũng là người kể chuyện. Điều này là cơ sở thuận lợi để giúp tác giả bộc lộ một cách sinh động thế giới nội tâm phong phú, tươi trẻ của những cô gái Trường Sơn dù đối mặt với đầy hiểm nguy của bom đạn rình rập nhưng không bao giờ vì thế mà mất đi sự hồn nhiên của mình. Sở trường truyện ngắn với ngòi bút miêu tả tâm lý tinh tế, nhạy cảm, đặc biệt là tâm lý người phụ nữ chính là những thế mạnh làm cho Lê Minh Khuê rất thành công trong việc xây dựng nhân vật Phương Định. Đây cũng chính là nguyên nhân tạo nên sức hấp dẫn cho những trang viết sinh động của truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi”. Mặc dù nhìn chung đây là câu chuyện viết về đề tài chiến tranh, tác giả không thể không đi sâu vào những chi tiết về bom đạn, chiến đấu, hy sinh, mất mát nhưng đất sống thực sự cho những trang viết của Lê Minh Khuê vẫn là
cái cách mà nhà văn khai thác thế giới nội tâm của nhân vật, đặc biệt là nhân vật xưng tôi – cô gái Phương Định. Đây là một nhân vật điển hình cho cái đẹp của những cô gái Trường Sơn của một thời mưa bom bão đạn. Cô và đồng đội của mình ở cùng trong một “Tiểu đội trinh sát mặt đường” – “Cái tên gợi khát khao lập nên những sự tích anh hùng”. Họ ở trên một cao điểm bắn phá ác liệt để làm một thứ công việc đủ để cho ai vừa mới nghe qua cũng đã sởn cả da gà: Xác định số bom Mỹ ném xuống, ước lượng chính xác khối lượng đất cần lấp cho những hố bom để báo về đơn vị. Đối với những quả bom chưa nổ thì họ phải kích hoạt cho nó nổ. Những cô gái này phải thường xuyên chạy băng băng trên cao điểm khi mà dưới mặt đất đang luôn rung chuyển và nóng hầm hập vì những quả bom đã nổ còn trên bầu trời thì máy bay của Mỹ vẫn điên cuồng gầm rú và có thể trút bom bất cứ lúc nào. Công việc luôn đặt họ cận kề với cái chết. Nhưng cũng chính từ trong những thử thách nghiệt ngã đó cái đẹp của nhân vật lại càng trở nên nổi bật. Cũng như hai đồng đội của mình, Phương Định đã cùng với họ vun đắp cho mối tình đồng đội trên cao điểm trở nên rất đẹp đẽ. Từ lâu họ đã coi nhau như người ruột thịt. Tình huống mà Nho bị thương trong một lần phá bom đã thể hiện rất cảm động mối thâm tình thắm thiết đó. Trong cuộc sống hàng ngày mặc dù luôn đối mặt với bom đạn nhưng cả ba cô gái trẻ này vẫn hồn nhiên đùa nghịch. thậm chí khi bị bom vùi lấp, cười chỉ thấy hai hàm răng trắng xóa trên khuôn mặt nhem nhuốc, họ đã gọi nhau là “Những con quỷ mắt đen”. Cách nói nghịch ngợm này chẳng khác gì cái tiếng cười “Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” trong thơ Phạm Tiến Duật. Đi sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật chính Phương Định, tác giả của câu chuyện đã mang đến cho người đọc những trang viết rất thú vị. Đây là một cô gái sinh ra và lớn lên tại thủ đô Hà Nội phồn hoa. Những kỷ niệm của cô về gia đình, về những con đường hoa sữa của thủ đô yêu dấu luôn thao thức trong lòng. Nó vừa là nỗi nhớ niềm thương vừa làm dịu mát tâm hồn cô trong hoàn cảnh khốc liệt của cuộc sống chiến trường . Phương Định là một cô gái trẻ sống nhạy cảm, rất có tâm hồn, hay mộng mơ và thích hát. Cứ thuộc một điệu nhạc nào là cô cứ hồn nhiên bịa ra lời mà hát. Có nhiều lúc “Lời tôi bịa lộn xộn và ngớ ngẩn đến tôi cũng ngạc nhiên, đôi khi bò ra mà cười một mình”. Tuy nhiên, ngay trong sở thích này của cô chúng ta cũng thấy rõ một nét trong sáng của tâm hồn. Cô thích những bài hát có chất liệu dân ca, những hành khúc bộ đội hay hát trên những ngã đường mặt trận. Đó là những bài hát trong sáng hòa được mình vào với cuộc đại trường chinh kỳ diệu của cả dân tộc lúc bấy giờ. Phương Định dù có một chút kiêu kỳ đáng yêu của một cô gái Hà thành, cô chưa trả lời thư ai bao giờ ( Đó là thư của những anh lính mỗi ngày vẫn giáp mặt cô mà cứ như thể là ở xa nhau hàng trăm cây số ) nhưng cô vẫn thích đọc thư của họ. Cái chàng trai đẹp nhất trong tâm hồn thiếu nữ của cô vẫn là những chàng trai khoác trên mình màu xanh áo lính. Đó là một nét nữ tính rất duyên dáng của nhân vật này. Tác giả của câu chuyện - nhà văn Lê Minh Khuê đã tỏ ra có những am hiểu rất tinh tế đối với những biểu hiện tâm lý nhạy cảm của nhân vật, nhất là với nhân vật chính Phương Định. Trong cái nghiệt ngã của đời sống chiến tranh đang mỗi ngày trút
xuống cao điểm của cô và đồng đội những tàn phá vô cùng khốc liệt thì những nét đẹp tâm hồn đầy nữ tính của họ đã làm cho mọi thứ được trở nên lắng dịu. Phương Định là một cô gái mới lớn, cô rất nhạy cảm và chăm chú quan tâm đến hình thức bên ngoài của mình. Và khi cô tự đánh giá mình “là một cô gái khá” có “một cái cổ cao, kiêu hãnh như đài hoa loa kèn” còn đôi mắt của cô thì cánh lái xe kháo nhau là “cô có cái nhìn sao mà xa xăm” thì cô rất vui vẻ và tự hào. Đó là một niềm vui rất đời thường và cũng rất trong sáng của nhan vật. Tâm lý của Phương Định được thể hiện sinh động nhất là trong một lần phá bom. Cái tính chất căng thẳng đến lạnh toát sống lưng của thứ công việc này thì chẳng nói nữa làm gì. Nhưng cái cảm giác của nhân vật khi nghĩ rằng “Các anh cao xạ”có cái ống nhòm thu được cả thế giới vào trong tầm mắt ở trên kia đang nhìn mình thì rõ ràng là đã được nhà văn miêu tả vô cùng đặc sắc. Cô quyết không để cho họ biết mình đang run, đang sợ, đang hồi hộp, lo lắng. Lòng dũng cảm ở cô được kích thích bởi sự tự trọng. Và khi “Các anh ấy không thích cái kiểu đi khom” thì cô đã “đàng hoàng mà bước tới”. Đó quả là những dòng miêu tả tâm lý nhân vật xuất sắc của tác giả Lê Minh Khuê. “Những ngôi sao xa xôi” chỉ là một tác phẩm đầu tay nhưng với những trải nghiệm quý báu của mình ở thực tế đời sống chiến trường tác giả của nó vẫn biết cách đem lại cho người đọc những trang viết vô cùng hấp dẫn. Trong xu thế thiên về chủ nghĩa anh hùng ca, thiên về cái tốt đẹp, cái trong sáng, cao thượng của con người lúc bấy giờ của Văn học nước nhà thì những thể hiện chân thực, giản dị như đã nói của truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” cũng là rất đáng để chúng ta trân trọng. ĐỀ 4: Nêu suy nghĩ của em về hình ảnh nhân vật anh thanh niên trong truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của nhà văn Nguyễn Thành Long. BÀI LÀM Có thể khẳng định rằng thành công nghệ thuật đáng chú ý nhất trong truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” nổi tiếng của nhà văn Nguyễn Thành Long là hình tượng nhân vật anh thanh niên. Đây chính là biểu tượng điển hình cho vẻ đẹp của con người mới XHCN khiến mọi thế hệ độc giả đều khâm phục, ngưỡng mộ. Trong chuyến thực tế dài ngày của mình lên các tỉnh biên giới phía Bắc của tổ quốc nhà văn Nguyễn Thành Long đã mang đến cho chúng ta trên những trang sách độc đáo của ông những khám phá hết sức ấn tượng. Rằng Sa Pa không chỉ là một danh thắng của vùng địa hình núi cao quanh năm mây mù giá lạnh mà mới chỉ nghe tên thôi nhiều người đã nghĩ tới chuyện nghĩ ngơi, thư giãn mà đằng sau những dinh thự cũ kĩ thấp thoáng trong những cánh rừng bạt ngàn ở đây còn có những con người tuyệt vời ngày đêm biết lo nghĩ cho đất nước. Họ là những con ong mật cần cù, chăm chỉ, khiêm nhường, bình dị bằng cần lao, tích cóp mà đã lặng lẽ làm nên những giọt mật ngọt dâng đời. Nhân vật anh thanh niên chính là một điển hình trong số đó. Anh ta đã mang đến cho chúng ta những suy nghiệm mới về cái đẹp “Lặng lẽ” của danh thắng Sa Pa.
Con người ấy sở dĩ có một cái đẹp như vậy là bởi anh đã gạt bỏ ra ngoài suy nghĩ của mình những toan tính ích kỷ, chật hẹp. Anh đã hướng tới lối sống cống hiến đầy lý tưởng của tuổi trẻ bằng những hành động và việc làm cụ thể, thiết thực chứ không phải là những bài thi lý thuyết trên những trang giấy trắng. Anh xác định rằng nghề khí tượng của mình là một cái nghề đặc thù. Tính chất công việc buộc người ta phải bám trụ trên những điểm cao như đỉnh Yên Sơn của anh ta chẳng hạn. Chính vì đã chuẩn bị trước về tinh thần như thế cho nên chàng trai trẻ này đã làm “người cô độc nhất trên thế gian” một cách hết sức chủ động. Gắn bó với đỉnh Yên Sơn anh thanh niên đã đặt mình đối diện với rất nhiều thử thách. Nếu đem chia nhỏ những khó khăn trong đời sống hàng ngày của con người này ra nhiều phần thì có lẽ chỉ mỗi phần trong đó cũng đã khiến cho nhiều người ái ngại. Sống một mình trên núi cao gần như biệt lập với cuộc sống năng động bên ngoài. Cái sự cô đơn đối với một chàng trai trẻ suy cho cùng thật là khủng khiếp. Công việc của anh ta là đo nắng, đo gió, đo mưa, đo chấn động của vỏ quả đất để dự vào việc báo thời tiết hằng ngày cùng với những khối máy câm lặng nặng hàng chục tấn. Gian khổ nhất là việc hàng ngày anh phải báo số liệu về cho trung tâm vào lúc 1h sáng. Bóng đêm hun hút của núi rừng Sa Pa như muốn nhấn chìm tất cả. Ngọn đèn bão theo anh là vặn đến cở nào cũng không đủ sáng. Đó là chưa kể tới cái lạnh cắt da cắt thịt của khí hậu nơi đây. Khí lạnh và bóng tối là những kẻ thù thường trực vây bủa lên mọi lần báo “ốp” của anh. Vậy đâu là động lực để cho nhân vật này vượt qua tất cả? Trước hết anh hiểu rằng công việc mà anh đang gánh vác có một ý nghĩa vô cùng quan trọng cho đất nước. Nhất là khi anh biết rằng nhờ mình phát hiện ra một đám mây khô mà không quân ta đã bắn rơi máy bay Mỹ ở cầu Hàm Rồng thì anh lại càng tỏ ra yêu mến và tự hào đối với công việc của mình hơn. Chính vì coi trọng công việc mà anh đã đối diện với nó bằng tất cả tinh thần trách nhiệm. Việc tuân thủ kỷ luật giờ giấc một cách nghiêm ngặt từ lâu đã trở thành một tác phong làm việc rất đẹp của con người này. Cái lệ báo ốp vào lúc 1h sáng như đã nói ở trên là hết sức khắc nghiệt nhưng chưa bao giờ vì thế mà anh sai hẹn. Sống cùng công việc anh đã dành cho nó một tình yêu, một sự đam mê đầy nhiệt huyết. Chính anh đã tâm sự cùng ông họa sĩ rằng “Công việc là thế nhưng nếu vắng nó một ngày cháu sẽ buồn mà chết mất”. Chỉ có những người thực sự coi trọng lao động khoa học như anh mới có thể có được những sự cẩn trọng, tỷ mỉ và vì thế mới có thể tìm được niềm vui đích thực trong công việc thầm lặng ấy. Anh ta đã có một quan điểm đối với công việc xứng đáng là quan điểm mang tính cẩm nang, gối đầu giường cho tuổi trẻ rằng “Cháu với công việc là đôi, sao gọi là một mình được”. Cũng nhờ lối suy nghĩ trong sáng như vậy mới là động lực tình thần giúp anh chiến thắng sự cô đơn. Con người anh ta chưa bao giờ tự nhận mình là một nhân vật nổi tiếng. Anh sống giản dị và khiêm nhường. Tự cho rằng mọi cống hiến của mình chưa thấm vào đâu so với những người khác. Khi ông họa sĩ có ý định phác họa anh thì anh đã vội vàng từ chối. Anh muốn giới thiệu cho họa sĩ những người mà theo anh là xứng đáng hơn như ông kỹ sư vườn rau hay cán bộ khoa học làm bản đồ sét. Anh luôn coi họ là tấm gương của lao động, của khoa học, của cống hiến để mình học tập, rèn luyện, phấn đấu và trưởng thành.
Nhân vật chàng trai trẻ này hội tụ nhiều vẻ đẹp như vậy nhưng dưới ngòi bút của Nguyễn Thành Long anh không phải là một cỗ máy. Con người anh ta bên cạnh nét đẹp về công việc còn có nhiều biểu hiện khác trong nhiều phương diện của cuộc sống khiến chúng ta mến phục. Cái biểu hiện “thèm người” của anh ta là rất nhân bản và làm cho chúng ta xúc động. Sống một mình trên núi cao đó là vì yêu cầu của công việc nhưng con người chàng trai này lại nhạy cảm, dễ gần và đáng mến. Cái sự quan tâm của anh đối với bác lái xe thông qua món quà gói củ Tam Thất rất mộc mạc, chân thành và ấm áp tình người. Việc anh ta vồn vã đón ông họa sĩ và cô kỷ sư lên đại bản doanh của mình trên đỉnh Yên Sơn là một thái độ hiếu khách mà không phải ai cũng có. Tất cả những biểu hiện dù giản dị ấy của anh cũng đủ cho thấy ở anh có một tấm lòng nhân hậu, một tâm hồn trong sáng. Theo bước chân của ông họa sĩ và cô kỹ sư cùng phám phá thế giới một mình tuyệt đẹp của chàng trai trên đỉnh núi chúng ta còn ngỡ ngàng trước bao nhiêu cái đẹp khác. Cái vườn hoa rực rỡ của anh vẫn hồn nhiên khoe sắc ngay khi dưới kia đang là mùa hè nóng nực là bằng chứng cho một tâm hồn nhạy cảm tha thiết với tình yêu cuộc đời. Cả hai vị khách đều nhận thấy cái thế giới một mình của ông chủ Yên Sơn vẫn được bố trí một cách ngăn nắp, gọn gàng, sạch sẽ. Điều này không hề mang tính đối phó mà đó là hệ quả của một lối sống đẹp đã trở thành tác phong. Con người anh ta còn có một thói quen rất đẹp nữa đó là thói quen đọc sách. Chính việc say mê tìm tòi sách báo tài liệu cũng là một động lực tinh thần giúp anh tạo nên một chiếc cầu nối giữa mình với thế giới bên ngoài. Cuộc gặp gỡ bất ngờ thú vị được xây dựng giữa ba nhân vật trong câu chuyện đã trở thành lời giải cho mọi cái đẹp mà nhà văn muốn tập trung khắc họa. Anh thanh niên chính là tấm gương sáng vẫy gọi, thôi thúc, cổ vũ cô kỹ sư có thêm niềm tin để bước vào bầu trời rộng. Anh cũng chính là nguồn cảm hứng cho bức tranh tâm huyết mà ông họa sĩ già đang khát khao tìm kiếm. Đối diện với cuộc sống hôm nay, bên cạnh những tấm gương tuổi trẻ tài cao đang ngày càng khẳng định vị thế xung kích của mình trên mọi lĩnh vực của đời sống cách mạng thì vẫn còn đây đó không ít những hình ảnh lệch chuẩn. Một số bộ phận những con người tuổi trẻ đã xa rời lối sống cống hiến. Họ mặc sức đuổi theo những ăn chơi, hưởng thụ tầm thường và thậm chí là ngày càng trác táng. Cái lối sống buông thả với rất nhiều tệ nạn ấy đã làm bôi nhọ thanh danh của hình ảnh tuổi trẻ Việt Nam. Không biết những con người ấy có bao giờ đọc “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long để mà có một phút giây nào đó học tập nhân vật anh thanh niên của câu chuyện để nhìn lại mình? Văn học không chỉ trỏ cho ta con đường đi mà nói như nhà văn Nguyễn Đình Thi là nó đốt lửa bên trong chúng ta khiến chúng ta được sống một cách đẹp hơn. Nhân vật anh thanh niên trong truyện ngắn nói trên của nhà văn Nguyễn Thành Long xứng đáng là một điển hình văn học đủ sức mang đến những tác động hết sức tích cực “Thay đổi hẳn mắt ta nhìn, óc ta nghĩ” để chúng ta ngày một hoàn thiện mình hơn.
Đề 5: Phân tích những biểu hiện tâm trạng của nhân vật bé Thu (Nhân vật trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng – Ngữ văn 9 – Tâp I) trong phần truyện sau khi bị ba đánh, nó đã vùng vằng bỏ sang nhà bà ngoại, trong đêm ở với bà, nghe bà kể nhiều chuyện về ba của nó rằng “ba nó đi đánh Tây bị Tây bắn bị thương – bà nhắc lại tội ác của mấy thằng Tây ở đồn đầu vàm cho nó nhớ” thì con bé đã hiểu ra tất cả và “Nghe bà kể nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn Bài làm Có thể nói rằng nếu bắt buộc phải kể tên những cây bút truyện ngắn hàng đầu của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại thì nhất thiết chúng ta không có quyền được bỏ sót nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Ông là người rất có biệt tài xây dựng những tình huống truyện bất ngờ để từ đó làm nên những trang viết vô cùng cảm động. Truyện ngắn “Chiêc lược ngà” chính là một thành công tiêu biểu để khẳng định điều này. Tuy nhiên, nổi bật trong đó, diễn biến tâm trạng của nhân vật con bé Thu được thể hiện một cách tập trung trong phần chuyện độc đáo nói trên thực sự vẫn để lại cho độc giả những ấn tượng vô cùng sâu sắc. Trước đó, tác giả câu chuyện đã triệt để khai thác hoàn cảnh trái ngang của chiến tranh mang lại để đặt cha con ông Sáu vào trong một cảnh ngộ gặp nhau hết sức éo le. Chỉ vì cái vết thẹo trớ trêu trên khuôn mặt ông Sáu làm cho ông hoàn toàn biến dạng so với bức hình của ông chụp chung với má con bé Thu mà nó đã nghĩ rằng đó không phải là ba của nó. Chính vì những suy nghĩ hết sức ngây thơ đó mà bé Thu đã kiên quyết cự tuyệt người cha tội nghiệp của mình. Dường như, người đọc có lẽ đã vì quá chú ý tới cảm xúc đau đớn, thất vọng của nhân vật ông Sáu mà không mấy để ý tới tâm trạng của bé Thu. Thực ra, nó cũng khao khát gặp ba hơn bất kỳ một nỗi khao khát nào trên đời. Nhưng vì, trong nhận thức ngây thơ của con bé, ba nó phải là người giống hệt với bức hình chụp chung với má. Và, đây chính là căn nguyên của mọi sự hiểu lầm đáng tiếc. Trong khi cội rễ vấn đề này trong nhận thức của con bé chưa được tháo gỡ thì mọi nổ lực của ông Sáu cũng như mọi người chỉ tổ làm cho nó khó chịu hơn mà thôi. Nó không chạy xô vào vòng tay của ông Sáu trong giây phút đầu tiên ông và nó gặp nhau đã đành, con bé còn một mực cự tuyệt mọi nổ lực thể hiện tình cảm của ông Sáu sau đó. Đỉnh điểm của mâu thuẩn là khi, trong bữa cơm chiều cuối cùng ông Sáu được ăn với vợ con trước lúc lên đường, ông nhón tay gắp một miếng trứng cá to vàng cho nó thì con bé đã hất tung cả chén cơm, làm cơm bắn tung tóe cả mâm. Hành động của nó chính là một giọt nước tràn li. Ông Sáu vì không thể kiềm chế được mà đã vung tay đánh mạnh vào mông của nó. Tuy nhiên, như chúng ta đã biết, con bé đầy cá tính này đã không khóc. Nó đã vùng vằng cởi dây lòi tói, bơi xuồng chạy sang nhà bà ngoại. Trước khi đi nó còn cố khua sợi giây lòi tói thật rổn rảng để chọc tức. Đó là lúc chúng ta có thể nghĩ rằng, câu chuyện về tình cảm cha con của ông Sáu và bé Thu đã vô phương cứu chữa. Tất cả đã là một dấu chấm hết thực sự quá đỗi phủ phàng.
Có thể nói, con bé khi bơi xuồng sang nhà bà ngoại của nó đã mang trong mình một nỗi tức giận tràn trề. Nó tức giận vì mình bị đánh có lẽ chỉ là chuyện nhỏ nhưng điều khiến nó không thể chịu đựng được là cái ông mặt sẹo kia cứ thản nhiên thực hiện những hành động cử chỉ mà theo nó chỉ duy nhất một người trên đời được phép làm như vậy đó chính là ba của nó. Khi sự hiểu lầm trong nó chưa được tháo gỡ thì mọi nổ lực của ông Sáu cũng như những người khác chỉ là công Dã Tràng xe cát mà thôi… Tuy nhiên, nếu câu chuyện chỉ dừng lại ở đây thì quá bi kịch, quá tàn nhẫn đối với ông Sáu và cũng là quá tàn nhẫn đối với ngay cả con bé Thu. Cái tài của nhà văn là sau khi đã tạo đủ sức nén cho tình huống truyện thì ông đã hướng nó tới một lối giải quyết thấm đẫm tính nhân văn. Trong đêm ở nhà bà ngoại, nghe bà nó giảng giải, nó đã hiểu ra mọi chuyện. Đó là lúc mà nó thương ba và giận mình đến thắt nghẹn cõi lòng. Việc nó “Nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng thở dài như người lớn” đã cho thấy con bé cũng vô cùng sâu sắc. Không biết, quả thực nó chính là con người như thế hay vì ngòi bút đầy tài năng của nhà văn đã làm cho nhân vật này bổng trở nên sâu sắc đến là như vậy? Nó thương ba hơn lúc nào hết đó là một lẽ đương nhiên. Bởi vì, giờ đây nó đã hiểu ra rằng cái ông mặt sẹo kia đích thực là người ba ruột thịt của mình. Ba đã thiệt thòi, mất mát rất nhiều ngoài chiến trường. Nó không bù đắp cho ba đã đành lại còn làm cho ba đau đớn, thất vọng vô cùng. Giờ thì nó không hề giận ba vì ba đã đánh nó nữa. Cái đánh đó khiến nó đau có thấm vào đâu so với nỗi dày vò, buồn tủi mà nó đã khiến cho ông Sáu phải chịu đựng. Kiểm điểm lại từng hành động cử chỉ mà nó đã đối xử ngang ngạnh đối với ba của nó trong mấy ngày qua, nó cảm thấy hổ thẹn, hối hận và day dứt biết bao. Nếu có một điều ước chắc chắn nó sẽ ước được quay ngược thời gian mà xóa hết mọi ký ức đau buồn, thất vọng mà nó đã gây phiền lụy, sầu não cho người ba tội nghiệp của mình. Nó sẽ đáp lại tình cảm của ba bằng tất cả những khao khát, đợi chờ trong suốt nhiều năm qua của nó và cũng là để bù đắp, xoa dịu cho ba. Nhưng cái phép màu nhiệm ấy là không thể xảy ra. Cái đã đi qua là không thể nào thay đổi. Con bé vì thế thấy mình khổ tâm hết sức. Nó chắc cũng đã nghĩ tới phương án bảo bà nó đưa nó về ngay trong đêm để được sà vào lòng ba, nói cùng ba lời xin lỗi, được cùng ba chia sẽ những thời khắc hạnh phúc của tình cảm cha con nhưng rồi nó lại không dám. Con bé cứ thao thức, trằn trọc một cách vô cùng tội nghiệp… Khi sự hiểu lầm đã được gở bỏ thì mọi thứ lại được nhà văn trả nó về đúng qũy đạo của nó. Vết thẹo trớ trêu trên khuôn mặt ông Sáu – bằng chứng của tội ác chiến tranh suýt nữa đã làm cho câu chuyện về tình cảm cha con của ông Sáu tan như bong bóng xà phòng. Tuy nhiên, cũng chính nhờ biệt tài của nhà văn mà cuối cùng hai cha con họ lại nhận ra nhau trong một khoảng khắc vô cùng cảm động. Những trang viết ấy của nhà văn vì thế luôn tạo được những dư vang mãi mãi trong lòng người đọc. Đề 6: Phân tích hình ảnh nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân ở phần chuyện trong phòng thông tin tuyên truyền của huyện bước ra để lý giải vì sao “Ruột gan ông lão như múa cả lên, vui quá”
Bài làm: Nếu buộc phải kể tên những cây bút truyện ngắn hàng đầu của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại chúng ta nhất thiết không có quyền được bỏ sót nhà văn Kim Lân. Ông là một người có rất nhiều những sự am hiểu về cuộc sống nông thôn và người nông dân. Tất cả những năng lực sở trường như thế đã được thể hiện một cách tập trung trong truyện ngắn “Làng”. Đặc biệt, chỉ cần tìm hiểu hình ảnh nhân vật ông Hai ở phần chuyện trong phòng thông tin tuyên truyền của huyện bước ra với “Ruột gan ông lão như múa cả lên, vui quá” chúng ta cũng sẽ phần nào thấy rõ về vấn đề này. Trước hết cần phải Ông Hai là một người nông dân làng Chợ Dầu. Ông có một tình yêu làng sâu nặng như máu thịt. Vì chiến tranh giặc giã ông lão phải bất đắc dĩ rời làng đi tản cư. Từ ngày xa làng, tất cả tình cảm của người nông dân chất phác này đều hướng trọn về làng Chợ Dầu thân yêu. Bên cạnh bản tính hay khoe, con người Ông Hai còn một thói quen rất thú vị nữa đó là thường xuyến ghé qua phòng thông tin tuyên truyền của huyện để nghe ngóng, thu thập thông tin. Ông muốn biết trước hết là những thông tin về cái làng Chợ Dầu của mình và sau đó là những thông tin chiến sự đang diễn ra khắp mọi miền đất nước. Việc ông chỉ biết trọ trẹ vài con chữ ở lớp bình dân học vụ mà mỗi ngày phải đến đây để tìm hiểu những thông tin trên mặt báo khiến ông nhiều phen khổ tâm hết sức. Tuy vậy, như một niềm đam mê, ông lão chưa bao giờ bỏ cuộc. Điều đó càng cho chúng ta thấy cái tấm lòng chân chất rất đáng trân trọng của ông. Trong tình huống cụ thể của câu chuyện, Kim Lân đã để cho nhân vật của mình có được một bữa tiệc thông tin thật sự no nê. Ông Hai đã tình cờ vớ được một anh thanh niên cơ chừng cũng chỉ vừa học chữ. Dịch được chữ nào anh ta đọc to lên chữ ấy vì thế ông đã bám theo để nghe không sót một từ nào. Điều quan trọng là qua đó ông lão liền lúc đã biết được rất nhiều tin hay khiến ông hả lòng hả dạ. Đó đều là những thông tin về chiến công dồn dập của quân dân cả nước. Ông Hai hồi hộp theo dõi với một niềm sung sướng và khâm phục không lời nào tả xiết. Nhà văn đã rất tài tình trong việc liệt kê những thông tin này. Đó là những thông tin chiến công rất phong phú được xảy ra ở khắp mọi nơi và đủ tầng lớp nhân dân tham gia. Xen giữa ở những lần tiếp nhận ấy ông đã để cho nhân vật của mình có những lời bình phẩm rất Ông Hai. Đánh giá về việc những em nhỏ trong ban tuyên truyền đã dũng cảm bơi ra giữa hồ Hoàn Kiếm cắm quốc kỳ lên Tháp Rùa thì ông lão đã không ngần ngại cho rằng “Còn bảo chúng nó trẻ con nữa hay không? Liệu đã bằng chúng nó chưa”; hay khi đánh giá về việc những nữ dân quân trong đội nữ du
kích Trưng Trắc đã đóng giả làm người đi mua hàng để bắt sống tên quan Hai bốt Thao ngay giữa chợ và việc một anh trung đội trượng nọ sau khi giết bảy tên giặc đã tự sát bằng quả lựu đạn cuối cùng thì ông lão lại thốt lên một cách đầy thán phục “Khiếp thật, tinh những người tài giỏi cả!”… Những biểu hiện tâm lý ấy cho thấy ông lão đã vui, đã hưởng ứng những chiến công đó một cách nhiệt thành như thế nào rồi. Cứ theo ông thì ngày chiến thắng của cách mạng đã đến rất gần. Xây dựng những nét điển hình của nhân vật ông Hai trong một tình huống truyện thú vị như thế, bên cạnh việc khắc họa tính cách nhân vật, nhà văn Kim Lân còn tạo nên một sự chuẩn bị đầy thông minh cho phần chuyện tiếp theo. Khi ông Hai đang căng đầy nhiệt huyết trong một trạng thái thăng hoa thì cái thông tin sét đánh làng Chợ Dầu theo giặc mà ông sắp sửa phải đối diện càng có tính bùng nổ. Đó chính là lý do vì sao mà những trang viết của tác giả câu chuyện về người nông dân luôn luôn là những trang viết rất đáng đọc. Đề 7: Phân tích cách xây dựng nhân vật Thúy Kiều trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” để thấy được tài năng cũng như tấm lòng của đại thi hào Nguyễn Du. Bài làm Một trong những điểm sáng làm nên sức hấp dẫn trong kiệt tác “Truyện Kiều” chính là nghệ thuật xây dựng nhân vật đã đạt đến trình độ bậc thầy của đại thi hào Nguyễn Du. Cả một thế giới nhân vật đa dạng , phong phú với đủ hạng người nhưng vẫn luôn được nhà thơ thể hiện hết sức sinh động. Tuy nhiên, nổi bật trong số đó nhân vật Thúy Kiều luôn là một điểm nhấn đặc biệt đáng chú ý. Chỉ cần tìm hiểu cách mà nhà thơ miêu tả hình ảnh của nhân vật này trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” chúng ta cũng sẽ phần nào thấy được điều đó. Vẫn với cách làm truyền thống khi xây dựng nhân vật của thơ ca trung đại đó là dựa trên bút pháp ước lệ cổ điển. Một cách làm bình cũ rượu mới đã từng tồn tại trong chính bản thân của nó không ít những hạn chế. Tuy nhiên, với tài năng xuất chúng của mình tác giả của “Truyện Kiều” đã vượt qua được những rào cản ấy để buộc các hình ảnh ước lệ vốn công thức, sáo mòn, khô cứng phải cất lên những tiếng nói phục vụ cho dụng ý nghệ thuật của mình. Tìm hiểu hình ảnh Thúy Kiều trong toàn bộ tác phẩm “Truyện Kiều” nói chung và trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” nói riêng sẽ không có ai phàn nàn về bất kỳ một tỳ vết nào trong cách xây dựng nhân vật độc đáo của nhà thơ. Cũng vẫn chỉ là những hình ảnh ước lệ quen thuộc như đã từng miêu tả Thúy Vân trước đó. Với những làn thu thủy, nét xuân sơn, hoa, liễu … nhưng bức chân dung của Thúy Kiều lại mang đến cho người đọc những ấn tượng rất khác biệt. Không phải là cái đẹp dịu dàng, thùy mị, đoan trang khiến cho mây thua, tuyết nhường như Thúy Vân mà cái đẹp của Kiều lại là sắc sảo mặn mà khiến cho hoa phải ghen vì kém sắc, liễu phải hờn vì thua duyên. Đằng sau hai chữ ghen hờn ấy dường như đã báo trước cho Thúy Kiều biết bao nhiêu mầm mống của bão giông, sóng gió. Tự thân cái đẹp của nàng đã ngầm chứa những sự xung khắc với những cái đẹp khác.
Đó gần như là cái định mệnh, kiếp số mà người con gái tài sắc này phải đa mang, phải vận vào cuộc đời mình. Trong cách sử dụng các hình ảnh ước lệ, chúng ta có thấy rằng đại thi hào Nguyễn Du đã tinh tế như thế nào khi dùng hình ảnh làn thu thủy để nói về cái đẹp trong đôi mắt của Thúy Kiều. Đó là một đôi mắt sáng trong như mặt nước hồ thu. Nó không chỉ là cái đẹp làm ngơ ngẩn lòng người mà còn cho thấy nàng Kiều thực sự là một người thông minh sắc sảo. Cái nét tinh anh thiên bẩm ấy đã hiện rõ trên đôi mắt đặc biệt mẫn tuệ của nàng. Đây là điều mà cô em gái của nàng là Thúy Vân đã không có được hoặc ít ra cũng không hề được nhà thơ đề cập tới. Ngoài ra để tô đậm thêm vẻ đẹp nhan sắc có một không hai của nhân vật Thúy Kiều, bên cạnh những hình ảnh ước lệ đã được sử dụng rất tài tình nói trên tác giả của đoạn trích này còn viện dẫn thêm điển tích “nghiêng nước nghiêng thành”. Nhà thơ muốn đặt nhân vật của mình ngang hàng với những tuyệt thế mỹ nhân đã từng có những cái đẹp đầy ma lực có khả năng làm đảo quốc khuynh thành như Đát Kỷ, Tây Thi, Điêu Thuyền, Hê Len vv. Rõ ràng, nhà thơ đã dùng hết tất cả vốn liếng ngôn ngữ của mình để hết lời tôn vinh vẻ đẹp tột đỉnh nhân gian của nàng Kiều. Ông đã chủ ý dùng trợ từ càng trong cách nói của câu thơ Kiều càng sắc sảo mặn mà để làm nổi bật vẻ đẹp của Thúy Kiều lên trên vẻ đẹp của Thúy Vân cũng là một lẽ thường tình. Chẳng mấy ai còn băn khoăn khi tại sao trước đó trong lời giới thiệu khái quát về vẻ đẹp của hai chị em Thúy Kiều chính nhà thơ đã từng nói họ đã đạt đến đỉnh điểm đẹp mười phân vẹn mười. Tuy nhiên, nếu so sánh một cách toàn diện thì sự vượt trội của Thúy Kiều so với Thúy Vân là một điều hết sức thuyết phục. Bên cạnh cái đẹp khiến hoa nhường nguyệt thẹn như Thúy Vân thì nàng Kiều còn một phẩm chất nổi bật khác để thay đổi tương quan đó chính là chữ tài. Vốn dĩ là một người con gái có trí thông minh thiên bẩm nàng Kiều đã trở nên vô cùng xuất sắc. Dưới ngòi bút đầy trân trọng của đại thi hào Nguyễn Du thì cái tài nào của nàng cũng hoàn hảo, thuần thục, đạt đến trình độ kỷ xảo, điêu luyện. Những cái tài hiếm có trên đời của các chuẩn mực cầm kỳ thi họa đều hội tụ một cách đầy đủ ở trên con người Thúy Kiều. Tài nào của nàng cũng có thể gọi là nghề riêng, rất làu thành thục, nhuần nhuyễn, mọi thứ đều đủ mùi, toàn diện và có thể vượt lên trên tất cả, ăn đứt thiên hạ. Nhưng có lẽ, khi ông trời hào phóng ban tặng cho nàng Kiều quá nhiều tài sắc thì lại để cho người con gái này phải đối với rất lắm sự ganh ghét và đố kỵ. Nếu vẻ đẹp tuyệt thế của nàng khiến cho hoa phải ghen, liễu phải hờn ngầm chứa bao nhiêu trắc trở như đã phân tích trước đó thì đến lượt cái tài của mình nàng Kiều cũng không thể nào tránh khỏi nghiệp chướng. Dù là trong buổi xuân sắc còn hết sức phẳng lặng, bình an của cô gái sống trong cảnh êm đềm trướng rũ màn che nhưng với bản đàn định mệnh của mình nàng Kiều đã lại đa mang hai chữ có tựa đề bạc mệnh. Nàng dường như đã dự cảm tới những mối bất an đang chực chờ mình phía trước. Tài sắc tột đỉnh nhân gian như vậy nhưng hóa ra với Kiều không hề là một lợi thế để cho nàng có được một cuộc đời hạnh phúc. Ngược lại đó lại chính là những mầm mống trớ trêu của tai họa. Chỉ là một đoạn trích ngắn so với toàn bộ kiệt tác “Truyện Kiều” nhưng qua nhân vật Thúy Kiều chúng ta cũng đã thấy rất rõ tài năng cũng như tấm lòng của đại thi hào Nguyễn Du. Vừa ca ngợi vẻ đẹp tài sắc tột đỉnh nhan gian của Thúy Kiều
bằng tất cả sự ngưỡng mộ, trân trọng tác giả lại vừa dự báo một số phận đầy sóng gió cho nhân vật. Đây cũng là một sự dọn đường hoàn hảo của nhà thơ đối với những phần chuyện tiếp theo. Đề 8: Phân tích tài năng và tấm lòng của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu trong việc xây dựng nhân vật Lục Vân Tiên trong đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” - Trích “Truyện Lục Vân Tiên” - Ngữ Văn 9 - Tập I Bài làm Chàng trai trẻ Lục Vân Tiên là nhân vật lý tưởng trong truyện thơ: “Truyện Lục Vân Tiên” nổi tiếng của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Thì không có gì ngạc nhiên khi xây dựng nhân vật này tác giả của câu chuyện đã dành tất cả tài năng và tâm huyết của mình. Chỉ cần tìm hiểu vẻ đẹp của con người anh ta trong đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” chúng ta sẽ phần nào thấy được điều đó. Có thể, đây đó trong toàn bộ tác phẩm nói chung và đoạn trích này nói riêng, nếu bàn về nghệ thuật làm thơ xét đến khía cạnh chi tiết thì quả là cách viết của Nguyễn Đình Chiểu có nhiều chổ chưa thật nhuần nhuyễn. Ông đã mắc những lỗi cơ bản về dùng từ, đặt câu, gieo vần vv... Đó cũng là điều dễ thông cảm vì hoàn cảnh mù lòa, tật nguyền của nhà thơ đã không cho phép ông chỉnh sửa một cách kỹ lưỡng những trang viết của mình. Đặc biệt là với một tác phẩm dài như “Truyện Lục Vân Tiên”. Tuy nhiên, bù lại, trong đoạn trích này chúng ta lại thấy một khả năng dựng chuyện tuyệt vời của nhà thơ. Ông đã mang đến cho đoạn trích một chất liệu tự sự ngồn ngộn và từ đó làm nổi bật tính cách điển hình của nhân vật Lục Vân Tiên trong một hoàn cảnh cũng rất điển hình. Quan điểm chung của văn học trung đại khi xây dựng kiểu nhân vật anh hùng là để cho nhân vật trải qua nhiều hoạn nạn và đồng thời lập được nhiều chiến công hiển hách. Thì đây, trong đoạn trích này tác giả Nguyễn Đình Chiểu đã để cho nhân vật của mình đối diện với một hoàn cảnh như thế. Một hoàn cảnh đủ khả năng kiểm chứng và trả lời câu hỏi Lục Vân Tiên là con người như thế nào. Tình cờ, trên đường lên kinh đô dự thi, chàng trai trẻ này bất ngờ bắt gặp cảnh lũ cướp đường hung hãn dở thói hãm hại người ngay ngay giữa ban ngày. Đó thực sự là một hoàn cảnh mà tác giả của câu chuyện đã tạo dựng nên để thử thách bản lĩnh của một bậc anh hùng. Để rồi, không một phút so đo, tính toán, Lục Vân Tiên đã quyết định ra tay đánh cướp cứu nạn. “Tôi xin ra sức anh hào - Cứu người cho khỏi lao đao buổi này” Một quyết định rất nhanh, rất dứt khoát cho thấy sự dũng cảm và một vẻ đẹp nghĩa hiệp luôn thường trực trong con người này . Bằng tất cả sức tưởng tượng của mình tác giả của đoạn trích đã làm cho nhân vật Lục Vân Tiên trở nên đẹp nhất trong khả năng có thể. Trước hết là hành động sẵn sàng đánh cướp cứu nạn rất dũng cảm, rất bất ngờ. Sau đó là hình ảnh bẻ cây bên đường làm vũ khí mang đầy dáng dấp của huyền thoại - một hình ảnh khiến nhiều người liên tưởng tới sự kiện người anh hùng Thánh Gióng nhổ những gốc tre ven đường làm vũ khí để đánh đuổi giặc Ân trong truyền thuyết. Cuộc chiến giữa Lục Vân Tiên và bọn cướp được tác giả xây dựng trong một mối tương quan lực lượng rất chênh lệch. Trong khi chàng thư sinh họ Lục một thân một mình và tay không tấc sắt thì lũ cướp đường Phong Lai lại đông đúc và đằng
đằng sát khí. Nhưng chính điều này lại càng làm nổi bật chiến thắng của Lục Vân Tiên sau đó. Hình ảnh chàng “tả đột hữu xông” với đầy sức mạnh của tinh thần thượng võ đã khiến cho người đọc cảm thấy rất hứng thú. Vẻ đẹp ấy của nhân vật còn được tác giả của đoạn trích tô đậm trong hình ảnh so sánh với Triệu Tử Long - một người anh hùng nổi tiếng trong “Tam Quốc”. Cuối cùng thì Lục Vân Tiên đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh của mình. Chàng đã đánh tan lũ cướp, giải cứu cho nạn nhân. Đó là một chiến thắng làm nức lòng người - một chiến thắng vừa tôn vinh vẻ đẹp oai hùng của nhân vật vừa có sức cỗ vũ cho tinh thần nghĩa hiệp. Với Nguyễn Đình Chiểu thì việc xây dựng một Lục Vân Tiên rực rỡ với vẻ đẹp anh hùng cứu khốn, phò nguy như vậy vẫn là chưa đủ. Ông còn muốn cho nhân vật của mình có được cái đẹp toàn diện nhất, hoàn hảo nhất. Chính vì lẽ đó ông còn miêu tả chi tiết những cách ứng xử rất cao thượng của nhân vật sau khi đánh cướp cứu nạn. Trước đó, khi cần chứng minh sức mạnh của tinh thần thượng võ cho nhân vật, tác giả đã để cho Lục Vân Tiên đối diện với lũ cướp đường hung hãn trong một tư thế vô cùng dũng mảnh. Nhưng khi mọi thứ đã an bài thì ông lại để cho nhân vật được thể hiện tất cả những vẻ đẹp thư sinh, nhân hậu và lịch thiệp. Cách ứng xử của họ Lục vừa đường hoàng, vừa cao thượng nhưng cũng lại vừa rất chân chất, rất bình dị. Biết rằng nạn nhân vừa mới trải qua một cú sốc lớn về mặt tinh thần nên chàng đã ân cần hỏi han. Chính thái độ ấy khiến họ cảm thấy nhanh chóng được trấn an, xoa dịu. Khi biết họ là những cô gái trẻ thì Lục Vân Tiên đã chủ động giữ một khoảng cách an toàn theo đúng tinh thần lễ giáo “Nam nữ thụ thụ bất thân” “Khoan khoan ngồi đó chớ ra -Nàng là phận gái ta là phận trai”. Có người cho rằng như vậy là hơi thái quá nhưng cần phải hiểu đây là nhân vật được tạo ra bằng sản phẩm tinh thần của cụ Đồ Chiểu. Đáng chú ý nhất là thái độ của Lục Vân Tiên trước ý nguyện muốn trả ơn của Kiều Nguyệt Nga. Mặc dù nàng đã rất thành tâm vì với nàng đó là một cái ơn trọng “Lâm nguy chẳng gặp giải nguy - Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi”. Nhưng chàng trai trẻ ấy đã khẳng khái từ chối “Làm ơn há dễ mong người trả ơn”. Với chàng, hành hiệp trượng nghĩa là bổn phận của một bậc anh hùng. “Nhớ câu kiến ngãi bất vi - Làm người thế ấy cũng phi anh hùng” Những cách ứng xử như vậy càng làm cho nhân vật này trở nên hết sức đẹp đẽ. Không chỉ xây dựng nhân vật Lục Vân Tiên bằng tất cả tài năng mà qua đoạn trích chúng ta còn thất rất rõ tấm lòng của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Ông tỏ rõ sự cảm mến, trân trọng ngưỡng mộ của mình đối với vẻ đẹp toàn diện của nhân vật. Thông qua phần chuyện anh hùng cứu nạn nhà thơ đã để cho nhân vật của mình tạo nên được ấn tượng đẹp đẽ trong cuộc gặp gỡ với Kiều Nguyệt Nga. Đó là cuộc gặp gỡ giữa trai anh hùng và gái thuyền quyên. Một cuộc gặp gỡ để từ đó tạo cơ sở cho nhà thơ xây dựng nên một cặp đôi lý tưởng xuyên suốt trong toàn tác phẩm. Ngoài ra, khi tạo nên hình tượng này, tác giả của câu chuyện còn muốn thể hiện niềm mơ ước chính đáng của người dân lương thiện. Họ muốn có những kiểu anh hùng tài ba thao lược và có nhân cách vẹn toàn như Lục Vân Tiên để thế thiên hành đạo, cứu khốn phò nguy. Đó là mẫu anh hùng có thể giúp đời trừ gian diệt ác. Như vậy, tấm lòng của tác giả Nguyễn Đình Chiểu thông qua nhân vật Lục Vân Tiên là tấm lòng hướng về phía
nhân dân. Người ta nói Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ mù nhưng có trái tim rất sáng là vì lẽ đó. Đề : Trình bày ngắn gọn suy nghĩ của em về cách nói của tác giả Lỗ Tấn khi kết thúc truyện ngắn “Cố Hương” “Kỳ thực trên mặt đất vốn làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi”. Bài làm : Cách nói này của Lỗ Tấn dĩ nhiên đặt trong hoàn cảnh nào thì cũng có thể coi là một danh ngôn khiến người ta phải suy ngẫm rất nhiều về cái sự tìm tòi lẽ sống cho cuộc đời này. Tuy nhiên, trong vị trí kết thúc truyện ngắn “Cố Hương” thì nó lại càng có một ấn tượng hết sức sâu sắc. Dù vậy, để cảm nhận được một cách thấm thía sự đúc kết này của nhà văn Lỗ Tấn thì chúng ta hãy phải sống trong bầu tâm trạng của nhân vật xưng “tôi”. Sau hàng chục năm trường xa cách, được trở về thăm lại cố hương, thăm lại mảnh đất hương hỏa tổ tiên, cắt rốn chôn rau của mình hỏi có ai mà không xúc động. Nhưng sở dĩ trái tim của người con ân nghĩa, thủy chung ấy phải se thắt lại là bởi vì quê mẹ của anh ta đã trở nên tiêu điều, xơ xác, quạnh hiu. Khác xa với hình ảnh của một làng quê trù phú, xinh đẹp ngày nào mà thi thoảng vẫn sáng lên trong miền ký ức tuổi thơ của anh. Nơi đó có những bãi dưa hấu sầm uất xanh rờn bên bờ biển, có người bạn Nhuận Thổ đẹp như một tiểu anh hùng ... Là một người con có tấm lòng sâu nặng với quê hương, nhân vật xưng “tôi” rõ ràng đã không cho phép mình dững dưng trước bức tranh đáng buồn của hiện thực mà anh ta đang đối diện. Cái đã xảy ra của quê hương là hết sức tồi tệ nhưng không thể nào thay đổi. Những chờ đợi, hy vọng giờ chỉ còn có thể gửi gắm ở tương lai. Bởi thế, mặc dù con đường phía trước là đầy chông gai thử thách thì cũng không thể để cho mọi thứ được buông xuôi. Bao nhiêu tình cảm có được với quê hương như thế là bấy nhiêu trăn trở dằn vặt mà anh đã thể hiện trong dòng suy nghĩ này. Dẫu vẫn biết rằng thay đổi một số phận đã khó mà thay đổi cả một xã hội, một thời đại lại còn khó gấp trăm vạn lần nhưng đó cũng không phải là điều không thể. Nhà văn Lỗ Tấn với sự trải nghiệm quý báu của mình mà đã mượn lời nhân vật tạo nên một bức thông điệp trong cách nói này cho tác phẩm. Muốn quê hương đất nước thực sự được đổi đời, muốn những số phận như Nhuận Thổ, Thím Hai Dương, Hoàng và Thủy Sinh ... rũ bỏ đói nghèo lạc hậu ngẩng cao đầu đến với cuộc đời mới thì không có cách nào khác phải hướng tới con đường đấu tranh giải phóng. Không thể có một thành quả tốt đẹp bổng dưng từ trên trời rơi xuống. Cũng như “Kỳ thực trên mặt đất vốn làm gì có đường”. Con người ta phải đi rất nhiều lần lên đó mới tạo ra con đường chung cho cộng đồng. Trên cơ sở của chân lý hiển nhiên như thế, tác giả câu chuyện đã đề cập tới con đường đấu tranh cách mạng. Đó là sự thức tỉnh những con người thấp cổ bé họng sống trong u mê tăm tối phải có niềm tin, phải có hy vọng về một cuộc cách mạng đổi đời. Dù phải đổ rất nhiều mồ hôi, nước mắt và máu trên con đường đấu tranh gian khổ có thể của không chỉ một thế hệ mà phải là nhiều thế hệ. Nhưng thắng lợi sau cùng là điều tất yếu. Ước mơ tốt đẹp về một bức tranh tương lai tươi sáng cho cố hương của nhân vật cũng chính là khát vọng cách
mạng sục sôi, đầy nhiệt huyết của truyện ngắn “Cố hương” nói riêng cũng như trong rất nhiều tác phẩm khác nói chung của nhà văn Lỗ Tấn. Đề 10: Trình bày suy nghĩ của em về cuộc gặp gỡ bất ngờ nhưng đầy ấn tượng của ba nhân vật anh thanh niên, cô kỹ sư và ông họa sĩ trên đỉnh Yên Sơn trong truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long.
Bài làm : Nếu như đến với vùng đất mỏ Quảng Ninh, cuộc sống mới và con người mới nơi đây đã giúp nhà thơ Huy Cận làm nên một “Đoàn thuyền đánh cá” hết sức vui tươi và hào sảng thì khi đến với các tỉnh biên giới phía Bắc của tổ quốc nhà văn Nguyễn Thành Long cũng đã kịp thời làm nên một “Lặng lẽ Sa Pa” được nhiều người biết đến. Tuy nhiên, trên những trang văn đậm chất thơ này của ông thì phần chuyện kể về cuộc gặp gỡ bất ngờ nhưng rất thú vị của ba nhân vật anh thanh niên, cô kỹ sư và ông họa sĩ trên đỉnh Yên Sơn là đã để lại nhiều ấn tượng hơn cả trong lòng độc giả. Có thể nhận thấy sự xâm nhập thực tế đời sống cách mạng của đất nước đã có một ý nghĩa lớn đến như thế nào trong hành trình sáng tạo của các nhà văn, nhà thơ. Ví như trong truyện ngắn này của Nguyễn Thành Long, hiện thực tươi rói của cuộc sống đã giúp ông có được những khám phá hết sức thú vị về cái đẹp của con người và cuộc sống Sa Pa. Và sẽ không quá khi nói rằng tất cả những điều đó đã được nhà văn thể hiện rất sinh động trong cuộc gặp gỡ của ba nhân vật trên đỉnh Yên Sơn. Trước hết tác giả câu chuyện đã tạo cho các nhân vật của mình một tâm thế rất tuyệt vời để bước vào cuộc gặp gỡ đó. Cả hai nhân vật ông họa sĩ và cô kỹ sư đang mang trong mình những câu hỏi lớn mà câu trả lời của nó sẽ là mục đích cho chặng đường phía trước của họ. Với ông họa sĩ thì đó là một cuộc hành trình khám phá cái đẹp. Ông đang hy vọng vào chuyến đi xa này sẽ tìm được nguồn cảm hứng cho một bức tranh tâm huyết. Còn với cô kỹ sư thì đang có rất nhiều băn khoăn, lo lắng đè nặng lên suy nghĩ của cô. Liệu ty nông nghiệp Lai Châu - nơi cô đang chuẩn bị đến nhận công việc phía trước - có thực sự là một "bầu trời rộng” để thế hệ những người trẻ tuổi như cô theo đuổi một cuộc sống cống hiến đầy ý nghĩa? Nó có thực sự xứng đáng cho quyết định vào đời rất dũng cảm của cô - một quyết định đi theo tiếng vẫy gọi của lý tưởng: "Đâu cần thanh niên có - Đâu khó có thanh niên”. Trong khi đó, với anh thanh niên, điều kiện làm việc rất đặc biệt của ngành khí tượng đã buộc anh phải đối diện với cuộc sống một mình trên núi cao. Sự xuất hiện bất ngờ của hai vị khách lạ bổng trở thành một sự tô điểm hiếm có cho cái đỉnh Yên Sơn cao 2600 m heo hút của anh. Để rồi, những tâm trạng cảm xúc ấy của các nhân vật khi bổ sung cho nhau đã mở ra một hoàn cảnh gặp nhau thật đặc biệt của họ. Đó là chưa kể tới lời giới thiệu đầy ấn tượng của bác lái xe. Rằng anh ta - ông chủ đáng mến của đỉnh Yên Sơn ấy - là “người cô độc nhất thế gian”. Về mặt hình thức, có vẻ như mọi thứ diễn ra đều rất tình cờ nhưng thực tế là một sự sắp xếp hết sức thông minh của tác giả. Ông chủ trương để cho tất cả cái đẹp của thiên truyện được thể hiện tập trung trong cuộc gặp gỡ này. Từ ông họa sĩ cho đến
cô kỹ sư và tất nhiên là cả chúng ta nữa đều đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác khi khám phá cái thế giới một mình tuyệt đẹp của chàng trai. Dù đã có một bề dày cuộc đời lịch lãm và từng trải nhưng ban đầu chính ông họa sĩ cũng đã nhầm. Thấy chàng trai chạy vội về đại bản doanh của anh ta thì ông cho rằng cu cậu muốn nhanh chân về trước để thu dọn cái thế giới một mình rất dễ bừa bộn trên đỉnh núi. Nhưng, thực ra là chàng trai chạy vội về trước là để hái hoa tặng cho cô gái trẻ. Một sự nhiệt thành mộc mạc và thật đáng yêu. Tuy nhiên, cũng phải cần tới ánh mắt tinh đời của một nghệ sĩ lão thành trong ông họa sĩ thì tác giả mới có thể đem đến cho độc giả một khoảnh khắc không thể nào quên. Đó là khi mà cô kỹ sư đứng lặng giữa các luống Dơn, không cần hái hoa nữa, ôm nguyên bó hoa trong tay, lắng tai nghe ... Ông họa sĩ biết rằng cô gái trẻ đang đối diện với một niềm xúc động lớn. Ông đã nhìn thấy cái đẹp của chàng trai hiện lên trong ánh mắt mở to, đầy sự thán phục chân thành của cô kỹ sư. Và với ông, đó đích thực là một khoảnh khắc đặc biệt làm nên giá trị của cả một chuyến đi dài. Cái đẹp không hề tô điểm của chàng trai đã giúp ông tìm được niềm cảm hứng dồi dào cho cái bức tranh tâm huyết mà ông đang ấp ủ. Câu hỏi lớn về mục đích của một chuyến di đầy gian khó mà ông họa sĩ muốn kiếm tìm nguồn cảm hứng để vẽ cho bức tranh tâm huyết đã có lời giải đáp. Điều đáng nói là cái đẹp ấy nó đến một cách rất tự nhiên nhưng không thề thiếu chất trữ tình và lãng mạn. Còn với cô kỹ sư, thì những gì mà cô đang chứng kiến về chàng trai đã thực sự khiến cô ngưỡng mộ. Đó cũng là những cái đẹp tự nhiên, đầy sức thuyết phục của hiện thực cuộc sống chứ không hề mang tính giáo điều, sách vở. Bắt đầu là cái vườn hoa rực rỡ của chàng trai và cùng với đó là sự hồn nhiên chân thành của anh. Cái con người tuyệt vời ấy đã thầm lặng sống, thầm lặng cống hiến một cách say mê tất cả tâm huyết của mình cho đất nước. Anh chính là tấm gương sáng vẫy gọi cô đến với bầu trời rộng. Cô kỹ sư vì thế như được tiếp thêm sức mạnh để an tâm hơn với thử thách phía trước của mình. Cùng với ông họa sĩ và cô kỹ sư, người đọc còn được khám phá biết bao cái đẹp khác trong cuộc gặp gỡ rất đặc biệt này. Tại sao mà một chàng trai hai mươi bảy tuổi lại có thể bám trụ với cái xứ sở khỉ ho cò gáy này để làm tốt nhiệm vụ của mình trong ngần ấy năm trời. Tại sao anh ta có thể bộc bạch được rằng công việc là thế nhưng nếu vắng nó một ngày anh ta sẽ buồn và chết mất và tại sao anh ta ta có thể quan niệm đẹp đến như vậy khi cho rằng “Cháu với công việc là đôi, sao gọi là một mình được” ... Tất cả chỉ có thể lý giải chàng trai tuyệt vời này là tấm gương sáng của con người lao động mới XHCN. Thế giới một mình tuyệt đẹp của anh có đủ sức chinh phục cho bất kỳ ai. Sống trong một hoàn cảnh khắc nghiệt nhưng chàng trai luôn lạc quan, yêu đời. Anh ta có một niềm đam mê đọc sách báo tài liệu rất đáng trân trọng. Chính niềm đam mê đó đã tạo nên sợi dây liên lạc giữa anh với cuộc sống xung quanh. Con người ấy đã có một tinh thần kỷ luật đầy tính tự giác. Việc báo “ốp” dù vào lúc 1 giờ sáng trong cái lạnh kinh khủng của khí hậu Sa Pa nhưng chưa bao giờ vì thế mà anh sai hẹn dù chỉ một phút đồng hồ. Con người ấy còn có một lối sống rất giản dị và ngăn nắp. Anh ta còn có thể trồng hoa và nuôi gà. Giỏ trứng gà mà anh dùng để biếu ông họa sĩ và cô kỹ sư trong phút chia tay trở nên rất mộc mạc và ấm áp
tình người. Không những thế chàng trai trẻ này còn hết sức khiêm tốn. Anh luôn cho rằng bản thân mình chưa có những đóng góp gì lớn cho công cuộc chung. Khi ông họa sĩ có ý định đưa anh vào trong bức ký họa của mình thì anh đã vội từ chối và giới thiệu cho ông họa sĩ những người mà theo anh là xứng đáng hơn như ông kỹ sư vườn rau hay anh cán bộ khoa học làm bản đồ sét cùng cơ quan ... Tất cả những biểu hiện ấy của anh thanh niên là rất chân thực. Cái đẹp của anh trong cuộc gặp gỡ bất ngờ thú vị này rõ ràng là xứng đáng làm nguồn cảm hứng để vẽ cho ông họa sĩ và làm tấm gương sáng để vẫy gọi đến với bầu trời rộng cho cô kỹ sư. Chỉ vẻn vẹn ba mươi phút cho một cuộc gặp gỡ là rất ngắn ngủi nhưng ngần ấy cũng đã đủ để tạo nên những ấn tượng tuyệt vời. Những trang viết thú vị của Nguyễn Thành Long khiến chúng ta cũng cảm thấy mến yêu hơn đối với cuộc sống này. Đề 11: Nhân vật bé Thu trong truyện ngắn của “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng hẳn đã để lại cho người đọc rất nhiều niềm xúc động. Em hãy thể hiện vấn đề này!
Bài làm : Đọc truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng, nhiều người đã đổ dồn mọi sự chú ý đối với nhân vật ông Sáu. Hẳn nhiên là vậy, vì đây là nhân vật trung tâm của câu chuyện. Nhưng, trên những trang viết hết sức cảm động ấy thì nhân vật Bé Thu vẫn để lại cho người đọc những ấn tượng sâu sắc. Đặt trong bối cảnh của câu chuyện mà đặc biệt với một cá tính cứng cỏi, bé Thu là nguyên nhân tạo nên những tình huống bất ngờ và xúc động. Điều này lý giải cho sức hấp dẫn, lôi cuốn trong cách kể chuyện tài tình của nhà văn. Từ thủa lọt lòng cho đến khi ba nó ghé thăm nhà trong câu chuyện, hai ba con bé Thu chưa một lần được gặp mặt nhau. Nhà văn đã khai thác sự xa cách phủ phàng do chiến trang gây ra này để tạo nên một cuộc gặp gỡ đầy éo le của các nhân vật. Suýt nữa, một sự hiểu lầm đáng tiếc đã làm đổ vỡ tất cả ... Chỉ là bởi bé Thu chỉ có một nhận thức rất ngây thơ về người ba ruột thịt của mình. Dấu hiệu để nó nhận mặt ba là người trong tấm hình chụp chung với má. Cứ cho là ông Sáu không hề bị vết thẹo trên mặt đi chăng nữa thì cuộc sống gian khổ của người lính trong suốt 7,8 năm trời ấy cũng đã khiến ông thay đổi quá nhiều so với người trong ảnh. Làm sao con bé có thể nhận ra. Tuy nhiên, chi tiết vết thẹo còn được nhà văn xây dựng như một bằng chứng để tố cáo tội ác của chiến tranh. Nó là đầu mối cho tất cả mọi sự hiểu lầm. Lẽ ra, cuộc gặp gỡ giữa ba con nhà bé Thu sau nhiều năm xa cách phải cảm động và hạnh phúc lắm. Nhưng, đáp lại sự vồ vập của ông Sáu, con bé chỉ hưởng ứng trong chốc lát rồi bổng dưng hốt hoảng, mặt tái mét, kêu thét lên và vùng bỏ chạy ...Trong tình huống bất ngờ ấy, ai cũng vì thương cho ông Sáu mà cho rằng con bé đã có những hành động kỳ quặc. Có lẽ, chính vì không ai hiểu được điều gì đang xảy ra trong lòng nó cho nên nó càng khổ sở. Thực ra, bé Thu cũng khao khát gặp ba lắm chớ. Chỉ vì nhận thức ngây thơ không cho phép nó biết rằng: Ông Sáu có cái vết thẹo dài trên mặt kia đích thực là ba của mình. Dường như chiến tranh đã gây ra quá nhiều nỗi éo le, trắc trở. Những người lớn đã không trang bị tinh thần cho nó nên con bé
nhất thời không thích ứng kịp. Có điều đây là một dụng ý trong cách xây dựng chuyện cho nên nhà văn đã tìm cách giấu nhẹm nó đi để làm nên sức ép cho các tình huống... Thái độ của con bé với ông Sáu trong những ngày sau đó thực ra cũng mang tính dây chuyền .Đó là một cách bộc lộ tình cảm đầy cá tính. Cần gọi ông Sáu ngay cả trong những tình huống gay cấn nhất bé Thu đã sử dụng cách gọi trống không. Với con bé, đây là một giải pháp tình thế. Nó không biết phải xưng hô với ông Sáu như thế nào cho phải. Dù là mời ông vào ăn cơm hay nhờ ông chắt dùm nước trong nồi cơm đang sôi con bé vẫn không chịu gọi ông là ba. Thậm chí nó còn hất cả bát cơm làm cơm bắn tung tóe cả mâm chỉ vì trong bữa cơm chiều ông Sáu đã gắp cho nó một miếng trứng cá to vàng. Đó là một sự phản ứng quyết liệt của bé Thu. Nó không chịu nhận bất kỳ một thứ tình cảm nào của cái người mà trong lúc ấy nó nghĩ không phải là ba của mình. Phản ứng này của con bé là hình ảnh của một giọt nước tràn ly. Mâu thuẫn giữa hai cha con đã dâng lên cực điểm. Ông Sáu vì không hiểu được bản chất của vấn đề, cứ nghĩ rằng bé Thu quá hư đốn mà ông đã vung tay đánh con. Tuy nhiên, dù vậy bé Thu vẫn không khóc. Nó đã vùng vằng bỏ sang nhà bà ngoại. Trước khi đi nó còn cố khua dây "lòi tói” cột xuồng nhằm tạo nên những âm thanh rổn rảng để chọc tức, trêu ngươi ...Hành động này của con bé càng làm cho những hy vọng cuối cùng của ông Sáu hướng về nó trở nên mờ mịt. Sự ương ngạnh nói trên của bé Thu là hoàn toàn không đáng trách. Mà cũng không có ai là người đáng trách. Tất cả đều không lường hết những éo le mà cuộc sống chiến tranh có thể mang lại. Phản ứng của con bé khi nhìn ông Sáu với cái nhìn xa lạ cũng là một phản ứng rất tự nhiên. Nó càng chứng tỏ con bé có một cá tính rất mạnh mẽ. Với nó, chỉ có duy nhất một ông bố trên đời. Ông bố ấy từ lâu đã ăn sâu trong tiềm thức. Rằng: phải giống hệt như người trong tấm ảnh. Khác đi là nó không chấp nhận.Trong cái sự "cứng đầu, cố chấp”của con bé có cả một niềm kiêu hảnh về tình cảm phụ tử tình thâm. Thể hiện được điều này, tác giả đã cho thấy sự am hiểu sâu sắc tâm lý nhân vật trẻ con của mình. Khi mọi thứ đã trở nên sáng tỏ thì người đọc sẽ thấy bé Thu là một nhân vật rất đáng yêu. Trong đêm bỏ nhà sang ở nhà bà ngoại, qua câu chuyện của bà, bé Thu bấy giờ mới hiểu ra tất cả. Nó dằn vặt, hối hận và thương ba vô cùng. "Nghe bà kể nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng thở dài như người lớn...” Thì ra, ông khách lạ có cái vết thẹo dài trên mặt kia đích thực là người ba ruột thịt của nó. Người ba mà nó hằng xiết bao mong nhớ trong suốt những tháng năm dài của tuổi thơ. Vết thẹo quái ác do chiến tranh gây ra đã làm ông Sáu biến dạng. Bé Thu không hiểu được điều này. Nó không thương ba đã đành lại còn xem ông như người xa lạ. Con bé thấy lòng mình tan nát. Chỉ mới tý tuổi đầu mà bé Thu đã có những suy nghĩ sâu sắc chẳng khác gì người lớn. Hơn lúc nào hết con bé thấy giận mình và muốn bù đắp cho ba nhiều hơn... Sáng hôm sau khi ông Sáu chuẩn bị lên, con bé dù đã ở nhà bà ngoại trở về nhưng người ta đều coi nó là kẻ ngoài cuộc. Không còn ai hy vọng gì ở nó. Họ không muốn gợi lại nỗi đau của ông Sáu trước thời khắc của cuộc chia tay sinh tử. Là bởi, chẳng ai biết được rằng đã có một sự thay đổi nhận thức tình cảm rất lớn trong lòng con bé. Hình ảnh nó đứng ở một góc khuất chăm chú theo dõi cuộc chia tay của ba nó trông thật tội nghiệp.
Cũng may là trong những giây phút cuối cùng ông Sáu còn ngoái đầu nhìn con lần cuối. Mặc dù trong ánh mắt, trong giọng nói của ông dành cho nó còn chứa đựng tất cả tình yêu thương nhưng lời chào của ông chỉ gần như mang tính xã giao. Ông Sáu đã tuyệt đối không còn mảy may hy vọng. Nhưng vào đúng thời điểm không ai ngờ tới ấy bé Thu bổng cất lên tiếng gọi ba. Không phải là tiếng gọi mang tính chiếu lệ mà là tiếng gọi cất lên từ sâu thẳm trong lòng con bé. Đó là tiếng gọi mà bé Thu đã khao khát hàng mấy năm trời. Lời chào của ông Sáu chính là sự mở đường cuối cùng cho con bé. Nó biết rằng ba nó lại sắp sửa đi xa. Từ cái cơ hội mong manh ấy ấy nó đã cất lên tiếng gọi xé tan lòng người. Theo như lời bác Ba - người kể chuyện thì bản thân bác cũng cảm thấy khó thở như ai đó lấy bàn tay nắm lấy trái tim. Phải nói rằng đây là một phần chuyện mà tác giả Nguyễn Quang Sáng đã cho thấy khả năng kể chuyện rất tài tình của mình. Ông đã phát huy tối đa biệt tài khai thác những tình huống truyện bất ngờ để tạo nên những ấn tượng mạnh đối với độc giả. Trong cái tiếng gọi ba ấy của bé Thu, người đọc đều cảm nhận thấy rằng có một cái gì đó bị dồn nén bỗng bùng lên thật mạnh mẽ. Một tiếng gọi có một sự đồng vọng rất lớn vào lòng người. Nó vỡ òa, đứt quãng và gây nên niềm xúc động khôn tả. Cùng với tiếng gọi xé lòng ấy, bé Thu đã có những hành động rất ngây thơ. Nó chạy lại ôm chặt lấy ba nó. Con bé đã hôn ông Sáu rất nhiều , đặc biệt là vết thẹo. Nó làm cho ba nó dường như thực sự được hồi sinh sau khi đã nghĩ rằng tất cả với ông chỉ là một con số không to tướng. Đã có lúc chúng ta nghĩ rằng: bé Thu là một đứa trẻ ương ngạnh, ngang bướng nhưng khi hiểu ra tất cả thì mọi người càng khâm phục và trân trọng nó hơn. Chỉ vì sự hiểu lầm đầy nhạy cảm mà hoàn cảnh éo le mang đến đã suýt làm đổ vỡ mọi thứ nhưng khi giông bão đi qua thì bầu trời đã trong xanh trở lại. Nhân vật bé Thu cùng với ba của mình đã để lại cho chúng ta một ấn tượng vô cùng sâu sắc về tình cảm cha con thiêng liêng sâu nặng. Nó giúp chúng ta hiểu và trân trọng hơn những tình người bình dị cũng như hiểu thêm về nét đẹp trong đời sống tâm hồn người lính. Đề 12: Trình bày cảm nhận của em về nhân vật ông họa sĩ trong truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long
Bài làm : Nếu để chọn ra một nhân vật đáng yêu nhất trong “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long là điều rất khó khăn. Bởi, đơn giản, tất cả họ đều rất đẹp, rất đáng trân trọng, ngưỡng mộ. Họ đều là những biểu tượng cho hình ảnh con người mới Việt Nam XHCN.Tuy nhiên, công bằng mà nói, nhân vật ông họa sĩ qua cách thể hiện vừa quen vừa lạ của nhà văn vẫn để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả . Không thể nói đây là nhân vật đẹp nhất trong toàn bộ thiên truyện nhưng chúng ta hoàn toàn có thể nói đây là nhân vật giống nhà văn nhiều nhất. Cả hai đều có những động lực vươn về phía trước để kiếm tìm, khám phá cái đẹp. Nếu như Nguyễn Thành Long đã lên với các tỉnh phía Bắc của tổ quốc để làm nên một “Lặng lẽ Sa Pa” được nhiều người biết đến thì nhân vật của ông - ông họa sĩ cũng ngược Sa Pa với mục đích tìm cảm hứng cho một bức tranh tâm huyết. Điều đáng nói là cả hai đều đã rất thành công với dự định của mình.
Giữa thế giới những nhân vật không tên - những con người bình thường mà vĩ đại của câu chuyện thì nhân vật ông họa sĩ là đại diện tiêu biểu cho thế hệ tuổi già mẫu mực. Tuy nhiên giữa con người này với nhân vật bác lái xe vẫn có những nét phong cách riêng rất thú vị. Trong khi bác lái xe là một con người cởi mở thậm chí là hơi ồn ào để rồi trẻ hơn so với tuổi thì ông họa sĩ lại có một dáng vẽ lịch lãm, từng trải nhưng hơi nghiêm nghị và trầm lặng. Lẽ ra, ông đã được nghỉ hưu nhưng vẫn còn quyết bươn chải một chuyến đường xa để thực hiện niềm khao khát vẽ nên một bức tranh có ý nghĩa cho cuộc đời. Đó là một thái độ cống hiến hết mình cho lao động nghệ thuật. Giá mà, trên đời này ai cũng có một trách nhiệm cao với nghề nghiệp như ông thì thật đẹp đẽ biết bao. Chặng hành trình của ông lên Sa Pa là chặng hành trình kiếm tìm cái đẹp. Với ông, đời một nghệ sĩ cũng như một đời ong. Phải tích tụ được một sự thơm thảo nào đó để làm cho cuộc sống trở nên tươi đẹp hơn. Trên chuyến xe Hà Nội - Lao Cai, tình cờ ông họa sĩ trở thành người bạn đường của cô kỷ sư trẻ tuổi. Người vừa có một quyết định dũng cảm là giã từ thủ đô Hà Nội phồn hoa, cắt đứt với mối tình đầu đầy mộng mị để đến nhận công tác tại ty nông nghiệp Lai Châu. Trước đó, dù chưa một lần trò chuyện nhưng ông họa sĩ cũng có thể buông một câu nói bâng quơ mà hầu như thâu tóm được cả ruột gan cô gái trẻ, rằng "Đối với những người khát khao trời rộng, đôi khi một sự dứt bỏ tình yêu lại cảm thấy nhẹ lòn ...” Điều này cho thấy sự trải đời rất lớn của ông. Trải đời nhưng không ngạo đời. Ví như khi chứng kiến sự bối rối, e thẹn của cô kỷ sư trước chàng trai trên đỉnh núi, ông họa sĩ chỉ tủm tỉm cười. Một cái cười thông cảm, động viên và khích lệ mặc dù ông đã biết tỏng những gì đang xảy ra trong lòng cô gái trẻ. Dường như, chẳng có gì giấu được con mắt tinh tường của con người này. Vậy mà, với chàng trai 27 tuổi làm công tác khí tượng thủy văn kiêm vật lý địa cầu trên đỉnh Yên Sơn thì ông vẫn đã nhầm. Khi thoáng gặp nhau, thấy chàng trai vội vàng chạy về “Đại bản doanh”ông đã thầm nghĩ: chắc cu cậu về trước để thu dọn cái thế giới một mình ngổn ngang, bề bộn trên đỉnh núi. Nhưng khi lên đến nơi thì cả ông và cô kỷ sư nữa mới thực sự ngỡ ngàng. Thì ra, anh ta nhanh chân về trước là để hái hoa tặng cô kỷ sư trẻ. Một hành động không phải lãng mạn theo kiểu xa xỉ của các bậc công tử mà là một cái đẹp chân thành và hồn nhiên. Chính con người này - ông chủ của đỉnh Yên Sơn đã làm cho ông họa sĩ đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Chàng thanh niên đã toát lên một vẽ đẹp mà ông không thể nào cưỡng lại. Đáng chú ý nhất là hình ảnh cô kỷ sư thì đứng lặng giữa các luống Dơn, không cần hái hoa nữa, ôm nguyên bó hoa trong tay, lắng tai nghe còn "Tại sao họa sĩ già cảm thấy mình bối rối" vì thực ra cái hình ảnh của cô kỷ sư giữa vườn hoa kia là cái điều ông đang khát khao tìm kiếm. Một nét đủ khẳng định một tâm hồn, khơi gợi một ý sáng tác, một nét mới là giá trị của cả một chuyến đi dài...Đây là phần chuyện đáng đọc nhất của toàn thiên truyện. Ông họa sĩ đã nhìn thấy cái đẹp của chàng trai hiện lên qua ánh mắt ngưỡng mộ của cô kỷ sư. Nó cho thấy ở ông có một con mắt nghệ thuật hết sức nhạy cảm. Ông đã khám phá được một nét đẹp tạo nguồn cảm hứng cho bức tranh tâm huyết của mình. Cái đẹp trong thứ nghệ thuật mà ông đang theo đuổi không phải là những cái đẹp xa xỉ, hào nhoáng mà là cái đẹp hết sức mộc mạc, bình dị. Ngòi
bút hội họa của ông đã bắt nhịp được với hơi thở của thời đại. Đó là vẻ đẹp của anh thanh niên - một con người thầm lặng lao động, thầm lặng cống hiến trong cái thế giới tuyệt đẹp trên đỉnh Yên Sơn - một cái đẹp điển hình cho con người mới Việt Nam XHCN. Sẽ không quá khi nói rằng: thông qua nhân vật ông họa sĩ, tác giả Nguyễn Thành Long đã có thêm một thứ ngôn ngữ nữa để thể hiện tác phẩm - đó chính là ngôn ngữ hội họa. Sự có mặt của nhân vật này đã làm cho những trang văn của ông thêm phần sâu sắc. Ông họa sĩ còn là một tấm gương phản chiếu để từ đó nổi bật hình tượng nhân vật anh thanh niên - nhân vật trung tâm của câu chuyện. Đề 13: Nhân vật cô kỷ sư trong truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của nhà văn Nguyễn Thành Long đã gợi nên trong chúng ta những suy nghĩ tích cực về khát vọng cống hiến của tuổi trẻ. Hãy nêu những suy nghĩ của mình về vấn đề này!
Bài làm : Nếu không có nhân vật cô kỷ sư thì chắc hẳn những trang văn của Nguyễn Thành Long trong truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” sẽ không thể nào nhẹ nhàng, tươi mát và đằm thắm một chất thơ như vậy. Cô chính là một thanh âm trong trẻo nhất trong một bản đàn cũng vô cùng trong trẻo. Người đọc ấn tượng về nhân vật cô kỷ sư trước hết bởi cái quyết định vào đời tuyệt đẹp của cô. Dù là một cô gái Hà Nội chính cống nhưng sau khi rời giảng đường đại học cô đã quyết định gác lại đằng sau thủ đô hoa lệ, sẵn sàng cắt đứt với mối tình đầu đầy mộng mị để đến nhận việc ở ty nông nghiệp Lai Châu. Phải đứng ở vị trí của cô gái này chúng ta mới thấy hết cái đẹp, cái dũng cảm trong sự lựa chọn con đường phía trước của cô. Bởi, sinh ra giữa chốn phồn hoa, mọi thứ với cô đã trở thành nề nếp. Nay, đích đến lại là một vùng quê mang đầy màu sắc sơn cước. Có lẽ, trong nhận thức mơ hồ của cô cũng như với những gì mà nhiều người trang bị cho cô thì Lai Châu phía trước chỉ là một chốn hoang vu, khỉ ho cò gáy. Nhưng, có hề chi, tuổi trẻ cần đối diện với thử thách. Cô không bằng lòng với thái độ bám lại Hà Nội như một cây tầm gửi mà đã quyết định lên đường. Cô kỷ sư vì thế chính là hình ảnh của câu khẩu hiệu "Đâu cần thanh niên có - đâu khó có thanh niên”.Nó khiến chúng ta - đặc biệt là những người tuổi trẻ thực sự khâm phục. Quyết định này của cô cũng đã tạo được sự đồng cảm sâu sắc với nhân vật ông họa sĩ . Chính ông đã cổ vũ cô rằng "Đối với những người khát khao trời rộng thì sự dứt bỏ một tình yêu lại cảm thấy nhẹ lòng”. Và rồi , cũng từ mối đồng cảm ấy mà khi tình cờ ngồi chung hàng ghế trên chuyến xe ca họ đã trở thành một đôi bạn đường lý tưởng. Giữa họ đã mau chóng nảy sinh một thứ tình cảm giống như tình cảm bố con và trên thực tế họ cũng đã gọi bố xưng con. Cô kỷ sư đang hướng về phía trước với một câu hỏi lớn. Liệu ty nông nghiệp Lai Châu phía trước mà cô sẽ phải đến nay mai có phải là một bầu trời rộng để cô thực hiện những hoài bão cống hiến của tuổi trẻ? Liệu quyết định rời bỏ thủ đô phồn hoa có phải là một quyết định đúng đắn và liệu rồi cô có thể tìm thấy ý nghĩa cuộc đời trong chuyến đi xa này? Dường như, để cổ vũ tinh thần cho cô, tác giả Nguyễn Thành Long đã dành cho nhân vật này rất nhiều niềm ưu ái.
Bắt đầu là cái sự ngây thơ của đôi vợ chồng người Mèo. Dù mua lạc vé ở hai chuyến xe nhưng quyết không rời nhau. Kế đến là là một bác lái xe cởi mở, vui tính, chu đáo, tận tụy với khách hàng. Và nữa là một ông họa sĩ già. Cô gái trẻ đã tìm thấy ở người bạn này một chổ dựa tinh thần khiến lòng cô bớt trống vắng, lo âu trước một lộ trình dằng dặc mà có lẽ, trong cuộc đời đây là lần thứ nhất mà cô phải đói diện với nó. Nhưng, ấn tượng nhất với cô kỷ sư chính là cuộc gặp gỡ với "Người cô độc nhất thế gian" trên đỉnh Yên Sơn. Chính cái thế giới một mình tuyệt đẹp của chàng trai đã chiếm trọn niềm ngưỡng mộ của cô. Trong con người anh ta, mọi thứ đều đẹp. Không phải là cái đẹp xa hoa, sang trọng mà là cái đẹp hồn hậu, tươi rói màu sắc cuộc sống. Bắt đầu là cái vườn hoa rực rỡ của anh. Cô kỷ sư đã ồ lên một tiếng ngỡ ngàng, ngạc nhiên và thán phục. Cô băn khoăn tự hỏi: Tại sao ngay dưới chân núi kia là mùa hè nóng nực mà ở đây, trên chót vót đỉnh núi cao lại có một vườn hoa trăm hồng ngàn tía đẹp đẽ đến như vậy? Vườn hoa đẹp hay đó chính là cái đẹp trong tâm hồn của ông chủ trên đỉnh Yên Sơn? Cũng chính từ vườn hoa này, tác giả đã có một phần chuyện đầy ấn tượng. Đó là khi tâm hồn của cả ba nhân vật đã có một sự giao thoa thật đẹp. Cô kỷ sư thì đứng lặng giữa các luống Dơn, không cần hái hoa nữa, ôm nguyên bó hoa trong tay, lắng tai nghe còn ông họa sĩ thì bất giác cảm thấy mình bối rối. Vì sao vậy? Bởi, ngay trước đó ít phút thôi, cô kỷ sư còn bị hút hồn giữa vườn hoa mà chốc lát đã đứng lặng giữa các luống Dơn, không cần hái hoa nữa ...Là vì, lúc này, cô đang bị câu chuyện của chàng trai chi phối mạnh mẽ. Nó còn hấp dẫn , cuốn hút với cô hơn rất nhiều so với vườn hoa cũng đã rất hấp dẫn, cuốn hút kia. Mà nào câu chuyện của chàng trai có gì là to tát. Đó chỉ là câu chuyện trong đời sống hàng ngày của anh ta. Nhưng, chính cái bình thường, giản dị ấy lại khiến cô kỷ sư thực sự thèm muốn. Câu chuyện của anh thanh niên làm cô kỷ sư ngộ ra một điều rằng: cái đẹp đích thực của cuộc đời chính là cách mà con người đối diện với nó. Gạt ra ngoài tất cả mọi bon chen, ích kỷ anh thanh niên đã cống hiến hết mình cho công việc . Tại một vị trí chẳng thể cô đơn hơn nhưng con người này vẫn có một cuộc sống đầy ắp niềm vui. Cái quan niệm “Cháu với công việc là đôi, sao gọi là một mình được” không hề mang tính giáo điều, sách vở. Nó là tiếng lòng của chàng trai xuất phát từ hơi thở cuộc sống. Thoáng cảm nhận ấy của cô gái trẻ về chàng trai lập tức đã được ông họa sĩ ghi bắt. Cái điều mà ông đang khát khao tìm kiếm bổng hiện ngay trước mắt. Còn gì thú vị hơn khi chứng kiến vẻ đẹp của chàng trai hiện lên trong ánh mắt ngưỡng mộ của cô kỷ sư giữa vườn hoa? Tuy nhiên, cũng cần nói thêm rằng nếu cô kỷ sư không phải là một cánh chim đang khát khao trời rộng thì làm sao cô có thể đồng cảm với cái đẹp rất mộc mạc, giản dị ấy. Phần chuyện này của Nguyễn Thành Long vì thế đã tạo được những nét thăng hoa. Cuộc gặp gỡ với anh thanh niên bất ngờ nhưng đã tạo được ấn tượng mạnh với cô kỷ sư trẻ. Nó rọi vào tâm hồn cô những nét đẹp mang tính cổ vũ lớn lao. Anh chính là tấm gương sáng vẫy gọi cô có thêm dũng khí để di về phía trước. Cô càng an tâm với quyết định của mình. Cô kỷ sư dường như đã hòa mình vào thế hệ những con
người trẻ tuổi khát khao cống hiến, khát khao tìm kiếm những giá trị đích thực của cuộc đời. Hình ảnh chiếc khăn mùi soa của cô ở phần cuối câu chuyện đã làm tăng thêm chất dư vị cho những trang viết vốn đã rất nhiều dư vị của Nguyễn Thành Long. Cô kỷ sư dù không phải là một nhân vật chính nhưng hình ảnh của cô đã có một chổ đứng trong lòng độc giả cũng vì những lẽ đó. Đề 14: Phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” của Kim Lân khi bất ngờ nghe tin và ngỡ rằng làng chợ Dầu của ông đã theo giặc (Trích “Làng” - Kim Lân - Ngữ Văn 9 - Tập I) Bài làm Không phải ngẫu nhiên mà người ta nói rằng cây bút Kim Lân có vốn hiểu biết về người nông dân hơn chính người nông dân hiểu về họ. Chỉ cần tìm hiểu diễn biến tâm trạng của nhân vật Ông Hai trong truyện ngắn “Làng”nổi tiếng của nhà văn khi nhân vật này nghe tin và ngỡ rằng làng Chợ Dầu kiêu hãnh của mình đã theo giặc chúng ta sẽ phần nào thấy được điều đó. Trước hết, phải thấy rằng phần chuyện xoay quanh thông tin làng Chợ Dầu theo giặc là cái cớ cốt lõi tạo nên truyện ngắn “Làng”. Đó là một phần chuyện được tác giả Kim Lân xây dựng rất thông minh để qua đó giúp ông bộc lộ tận chân tơ, kẽ tóc tâm lý của nhân vật. Một hoàn cảnh hết sức điển hình đã được tạo ra và đủ sức nén cần thiết để nhân vật chính Ông Hai thể hiện tấm lòng thật nhất của mình. Nhân vật Ông Hai là một điển hình sinh động cho cá tính của người nông dân. Con người ấy đã gắn bó hơn nửa cuộc đời với mảnh đất làng Chợ Dầu. Những gì thuộc về vùng quê ấy đều rất đỗi thiêng liêng đối với ông. Khi bất đắc dĩ phải xa làng đi tản cư thì tấm lòng của ông Hai dành cho nó càng trở nên sâu nặng. Ông rất hay khoe về cái làng của mình. Một phần xuất phát từ bản tính thâm căn cố đế của người nông dân trong ông nhưng phần nữa là bởi ông muốn qua đó mà làm vợi đi nỗi nhớ làng thăm thẳm của mình. Ông cố tình tô vẽ về một làng Chợ Dầu tuyệt vời anh dũng trong kháng chiến. Mọi thứ về nó trong con mắt ông đều là số một. Sẵn trong lòng niềm thăng hoa đó, tác giả tiếp tục để cho nhân vật được đẩy cao niềm phấn khích của mình khi nhân vật này đến với phòng thông tin tuyên truyền của huyện. Nơi đó, ông Hai được nghe, được biết về những chiến công dồn dập của quân dân cả nước. Tất cả đã khiến cho ruột gan ông lão như múa cả lên. Đặt nhân vật trong trạng thái tinh thần như vậy là khi tác giả đã có một sự dọn đường hoàn hảo để làm nổi bật tình huống truyện quan trọng nhất của câu chuyện. Rất tình cờ, ông Hai đã nghe được những người đàn bà tản cư nhắc đến làng Chợ Dầu của ông. Một phản ứng nhanh như điện giật, ông lão đã quay phắt lại và lắp bắp hỏi “Liệu ta giết được bao nhiêu tên giặc?”. Ông lão đang háo hức chờ đợi những điều tốt đẹp từ những thông tin phản hồi. Rằng, đó phải là những thông tin tương xứng với cái hình ảnh làng Chợ Dầu kiêu hãnh trong lòng ông, phải xứng đáng với những chiến công oai hùng của quân dân cả nước mà ông vừa được biết. Đến lúc đó, không biết chừng ông sẽ ưỡn ngực lên mà nói rằng: thưa các vị tôi chính là người
dân làng Chợ Dầu và tất nhiên vì thế mà những người đàn bà kia sẽ tròn mắt nhìn ông trong cái nhìn ngưỡng mộ ... Nhưng chao ôi! cái viễn cảnh tươi sáng kia thì chẳng thấy đâu. Ngược lại , đó chỉ là một thông tin khiến ông Hai phải rụng rời: Làng Chợ Dầu của ông đã theo giặc. Cái điều khủng khiếp ấy đến một cách quá đỗi bất ngờ khiến “Cổ họng ông lão nghẹn ắng lại, da mắt tê rân rân...”. Tác giả của câu chuyện đã miêu tả cực kỳ chính xác biểu hiện tâm lý của nhân vật. Với ông Hai, đó thực sự là một tiếng sét giữa trời quang. Khi đã định thần chút ít, ông Hai muốn kiểm chứng độ chính xác của thông tin. Nhưng khi được người ta nói thêm cả gia đình chánh Bệu cũng đã lên ở với đồn Tây thì ông đã hoàn toàn sụp đổ. Nhận thức thơ ngây đã khiến ông cay đắng nghĩ rằng, mọi thứ đã là sự thật vì cái tên chánh Bệu thì còn lẫn vào đâu được nữa. Với hoàn cảnh tan nát cõi lòng của nhân vật như vậy, nhà văn Kim Lân tiếp tục cho thấy sự am hiểu sâu sắc bản tính người nông dân trong con người ông Hai. Đó là khi mà ông lão đã có một sự trốn chạy thật tội nghiệp. Dù sự thật trớ trêu trong suy nghĩ của ông là “cháy nhà” thật rồi nhưng ông Hai nào đã chịu “ra mặt chuột”. Ông lão còn muốn vớt vát chút sĩ diện cuối cùng là tìm cách đánh trống lảng để lách khỏi đám đông bằng lời độc thoại: “Hà, nắng gớm, về nào!”. Trên đường trở về thì ông lão đã cúi gằm mặt xuống mà đi như thể chính ông là người có lỗi trong mọi chuyện. Đất trời quanh ông như chao đảo vì cái nỗi hụt hẩng tột độ dâng trào trong lòng của ông. Tội nghiệp cho ông Hai vì cái chuyện động trời kia không phải là một thông tin mang tính bột phát. Nó còn dằn vặt, hành hạ ông nhiều ngày sau đó. Khi về đến nhà thì ông đã nằm vật xuống giường trong một nỗi tủi hổ nghẹn ngào. Những biểu hiện khác thường ấy đã lập tức tạo nên những hiệu ứng dây chuyền. Bắt đầu là lũ trẻ. Chúng chẳng dám vòi quà như mọi bữa, chỉ len lét nhìn nhau, chơi sậm chơi sụi với nhau, ngay cả trong khi ngủ cũng chỉ dám thở đều đều, khe khẻ ...Trong đêm, khi hai ông bà ông Hai nói chuyện với nhau thì chúng ta đã được chứng kiến một cuộc thoại cộc lốc, nhát gừng, đứt quảng thậm chí là với những lời nói rít qua kẽ răng. Tất cả đều cho thấy một không khí căng thẳng và ngột ngạt. Một bóng đêm đúng với nghĩa của nó đã bao trùm lên cuộc sống của gia đình ông Hai. Mấy ngày sau, ông lão đã chẳng dám đi đâu ra khỏi nhà vì cứ sợ người ta nhìn mình với cái nhìn khinh bỉ. Nghe ai xì xào chuyện gì ở đâu ông cũng cứ nghĩ là họ đang nói về chuyện làng Chợ Dầu theo giặc. Rõ ràng, tác giả Kim Lân đã đặt nhân vật của mình rất chính xác trong trạng thái thường xuyên phấp phỏng lo sợ “Có tật giật mình”. Rất nhiều lời độc thoại và độc thoại nội tâm được nhà văn huy động để tái hiện một cách sinh động những dằn vặt trong lòng nhân vật. Nhìn lũ con ông cay đắng nghĩ rằng: chúng cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? ngần ấy tuổi đầu sao chúng đã sớm có một lý lịch bôi đen làm vậy? Nghĩ đến những người dân của làng ông thì ông rất phẩn uất là tại làm sao họ lại đổ đốn như thế? Tại sao họ nỡ bán rẻ danh dự của làng? Trong cái bóng đen u ám ấy thì ông Hai lại càng rất lo sợ cho tương lai, không biết rồi đây gia đình ông sẽ làm ăn, buôn bán với ai. Ai người ta còn dại gì mà dây mơ rễ má với người dân của làng Việt gian nữa.
Sợ bị tuyệt đường sinh sống đã đành, cái mà ông lão lo sợ nhất có lẽ đó là nỗi lo sợ bị cộng đồng xa lánh, cô lập. Dù rằng ông Hai đã xác định làng thì yêu thật nhưng nếu làng đã theo Tây thì cũng phải thù. Điều đó cho thấy thái độ dứt khoát trong tư tưởng của nhân vật. Tuy nhiên, nghĩ là vậy nhưng ông Hai lại không thể làm nổi. Cả cõi lòng của ông sau trước vẫn đau đáu hướng về làng quê. Sự mâu thuẩn ấy càng làm cho ông lão vô cùng đau đớn. Hằng đêm, ông Hai chỉ còn nước tâm sự với thằng con út và khóc. Những giọt nước mắt mặn chát của một lão nông nhỏ vào màn đêm sao mà thật xót xa. Ông muốn cùng thằng Húc giải bày chút đỉnh cho vơi bớt phần nào sự bế tắc đang vây bủa trong lòng. Về mặt hình thức thì cuộc thoại giữa ông Hai với đứa con là một cuộc đối thoại nhưng về bản chất thực ra đó là những độc thoại nội tâm không thể kìm nén được của nhân vật. Ông lão muốn cùng con xác định rằng dù sao họ vẫn là con dân của làng Chợ Dầu. Đó là một sự thực không thể phủ nhận nhưng không vì thế mà họ có thể đồng lõa với hành động phản động của làng. Ông lão muốn chứng tỏ cái tấm lòng trong sạch suốt đời hướng về cách mạng, tuyệt đối tin tưởng vào Bác Hồ kính yêu. Đó cũng chính là chổ bấu víu cuối cùng giúp cho nhân vật vượt qua được một giai đoạn gần như tuyệt vọng về mặt tinh thần. Có thể nói , tạo nên tình huống chuyện ông Hai với cái thông tin sét đánh làng Chợ Dầu theo giặc, tác giả của câu chuyện đã có được một phép thử tuyệt vời để kiểm chứng tấm lòng của nhân vật. Những diễn biến nội tâm của ông Hai với bao nhiêu giằng xé rất dữ dội đã cho thấy tình yêu sâu nặng mà ông đã dành trọn cho Làng Chợ Dầu thân yêu. Tuy nhiên khi đẩy nhân vật đến với tận cùng của niềm đau đớn thì Kim Lân còn chứng tỏ được một điều rất thú vị nữa đó là cuối cùng thì con người nông dân trong ông Hai đã vượt qua được bản tính bảo thủ mang tính truyền kiếp để đặt tình yêu đất nước, niềm tin son sắt vào cách mạng, vào Bác Hồ kính yêu lên trên tình yêu làng. Đó là một vẻ đẹp tinh thần mang tính phổ biến của người dân kháng chiến lúc bấy giờ. Truyện ngắn “Làng” tuy nhiên không thể dừng lại với sự tuyệt vọng của nhân vật ông Hai vì cái sự trớ trêu là làng Chợ Dầu kiêu hảnh của ông theo giặc. Đó chỉ là một phép thử của tác giả câu chuyện mà thôi. Bởi, cuối cùng thì mọi sự thật đã được làm sáng tỏ. Thông tin động trời đã dồn ông Hai đi vào ngõ cụt kia thực ra chỉ là một sự hiểu lầm đáng tiếc. Có điều, với tác giả Kim Lân thì đó là một dụng ý nghệ thuật đặc sắc mà ông đã giúp người đọc hiểu một cách thấu đáo hơn đối với nhân vật của mình. Đề 16: Trình bày cảm nhận của em về phần chuyện sau : “Chúng tôi, mọi người – kể cả anh, đều tưởng con bé sẽ đứng yên đó thôi. Nhưng thật lạ lùng, đến lúc ấy, tình cha con như bổng nổi dậy trong người nó, trong lúc không ai ngờ đến thì nó bổng kêu thét lên: - Ba … a… a … ba! Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa . Đó là tiếng “ba” mà nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng “ba” như vỡ tung từ đáy lòng nó, nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó
chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó. Tôi thấy làn tóc tơ sau ót nó dựng đứng lên” (“Chiếc lược ngà” – Nguyễn Quang Sáng - Ngữ Văn 9 – Tập I ) Bài làm: Nói đến nhà văn Nguyễn Quang Sáng là chúng ta nghĩ ngay đến một cây bút nổi tiếng với biệt tài xây dựng những tình huống truyện bất ngờ. Đây là một trong những điểm sáng nghệ thuật tạo nên sức hấp dẫn cho những trang viết của nhà văn này. Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” chính là một thành công tiêu biểu thể hiện tập trung tất cả những năng lực sở trường ấy của ông. Tuy nhiên, có lẽ phần chuyện nói về khoảng khắc con bé Thu cất lên tiếng gọi ba trong đó đã để lại cho người đọc những ấn tượng sâu sắc hơn cả. Trước đó, như chúng ta đã biết, ông Sáu phải trải qua những thời điểm hết sức khó khăn. Ông mang bao nhiêu niềm thương, nỗi nhớ để về gặp lại đứa con gái yêu sau gần chục năm trời hai cha con không một lần gặp mặt. Vậy nhưng, ông đã bị sốc rất nặng với tất cả sự tủi hổ, bẽ bàng vì con bé Thu đã vùng bỏ chạy, coi ông như một người hoàn toàn xa lạ. Nó không chạy xô vào vòng tay của ông trong giây phút đầu tiên ông và nó gặp nhau đã đành, con bé còn một mực ương bướng cự tuyệt mọi nổ lực thể hiện tình cảm của ông Sáu sau đó. Đỉnh điểm của mâu thuẩn là khi, trong bữa cơm chiều cuối cùng ông Sáu được ăn với vợ con trước lúc lên đường, ông nhón tay gắp một miếng trứng cá to vàng cho nó thì con bé đã hất tung cả chén cơm, làm cơm bắn tung tóe cả mâm . Hành động của nó chính là một giọt nước tràn li. Ông Sáu vì không thể kiềm chế được mà đã vung tay đánh mạnh vào mông của nó. Tuy nhiên, như chúng ta đã biết, con bé đầy cá tính này đã không khóc. Nó đã vùng vằng cởi dây lòi tói, bơi xuồng chạy sang nhà bà ngoại. Trước khi đi nó còn cố khua sợi giây lòi tói thật rổn rảng để chọc tức. Đó là lúc chúng ta có thể nghĩ rằng, câu chuyện về tình cảm cha con của ông Sáu và bé Thu đã vô phương cứu chữa. Tất cả đã là một dấu chấm hết thực sự quá đỗi phủ phàng. Tuy nhiên, tình huống truyện được nén tới mức căng như dây đàn kia chính lại là một dụng ý trong cách kể chuyện tài tình của tác giả mà thôi. Sự thắt nút tới đỉnh điểm ấy cũng là sự chuẩn bị thông minh tạo nên tính bùng nổ cho phần chuyện này. Trong cuộc chia tay sau cuối của ông Sáu trước lúc lên đường, mọi người – kể cả ông Sáu không ai còn muốn nhắc tới bé Thu nữa. Là cũng bởi, khi niềm hy vọng không còn, người ta không ai nỡ chạm vào vết thương lòng của ông Sáu trước lúc đi xa. Con bé vì thế trở thành kẻ ngoài cuộc. Không ai biết rằng sau khi bị ba đánh, nó đã vùng vằng bỏ sang nhà bà ngoại, trong đêm ở với bà, nghe bà giảng giải “ba nó đi đánh Tây bị Tây bắn bị thương – bà nhắc lại tội ác của mấy thằng Tây ở đồn đầu vàm cho nó nhớ” thì con bé đã hiểu ra tất cả và “Nghe bà kể nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn”. Việc ông Sáu mở lời chào con bé Thu nghe ra thật ngượng ngùng và đau xót. Đó không phải là lời chào mang theo niềm hy vọng về tình cảm cha con mà gần như chỉ mang thủ tục trước lúc ông Sáu phải lên đường. Thế nhưng, thật kỳ lạ! trong cái thời khắc không ai ngờ tới ấy thì bé Thu lại đã cất tiếng gọi ba. Chưa ai kịp hiểu chuyện gì đã xảy ra nhưng ai cũng nhận thấy đó là một tiếng gọi chân thành, xúc động, thiêng liêng mà con bé đã nâng niu, gìn giữ suốt ngót chục năm trời. Trong
hoàn cảnh đặc biệt này bao nhiêu sự dồn nén đó đã vở tung ra và khiến cho chẳng ai kể cả độc giả - có thể cầm được nước mắt. Tiếng gọi “- Ba … a… a … ba ! ” của con bé được miêu tả là nghe như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba” mà nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng “ba” như vỡ tung từ đáy lòng nó. Những dòng văn như là lời gan ruột ấy của Nguyễn Quang Sáng bổng như có sức thôi miên độc giả mà mỗi lần đọc lại chúng ta đều cảm thấy cay cay nơi khóe mắt. Nhà văn dường như đã truyền cho người đọc cái cảm giác nghẹn ngào của người trong cuộc. Nếu với ai đó đã từng đi qua chiến tranh, đã từng thấm thía cái nỗi đau của sự mất mát và hy sinh thì khi đọc những dòng văn này lại càng không thể cầm nỗi lòng mình. Nguyễn Quang Sáng đã viết phần chuyện này không chỉ bằng ngòi bút mà còn viết bằng tất cả sự nhạy cảm trong trái tim của một người nghệ sĩ… Chúng ta cũng thấy rất rõ vai trò của người kể chuyện ở đây đã được phát huy rất tốt. Chỉ có người trực tiếp chứng kiến thì những chi tiết của tình huống mới có thể được miêu tả chính xác đến là như vậy. Con bé Thu đã vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó. Tôi thấy làn tóc tơ sau ót nó dựng đứng lên. Sẽ là bất công biết bao nếu ông Sáu phải lên đường trong niềm tủi nhục vì đứa con đứt ruột đẻ ra đã không gọi ông là ba, trong khi ông hoàn toàn không biết chuyện gì đã xảy ra. Nếu ông biết rằng tất cả mọi khúc mắc đều bắt nguồn từ cái vết thẹo – bằng chứng của tội ác chiến tranh trên khuôn mặt của mình thì chắc hẵn ông sẽ trân trọng tình cảm của bé Thu hơn bội phần. Tuy nhiên, dù sao thì tiếng gọi ba xé lòng của nó trong phút giây chia tay cũng đã làm cho ông vỡ òa trong niềm hạnh phúc. Đó là một khoảng khắc đẹp nhất trong câu chuyện về tình cảm cha con, thiêng liêng sâu nặng của họ. Ông Sáu sẽ lên đường với một động lực tinh thần rất lớn từ cái khoảng khắc này. Đây là một phần chuyện rất có hậu. Người đọc có thể cảm nhận rất rõ tài năng cũng như tấm lòng của nhà văn. Viết về đề tài người lính nhưng rõ ràng, ở đây trong câu chuyện này Nguyễn Quang Sáng đã chọn cho mình một lối đi riêng. Ông không đi sâu kể về hình ảnh oai hùng của họ trong cuộc sống chiến trường ngút ngàn bom đạn như một số tác phẩm văn học đương thời. Nhà văn đã chỉ tập trung khai thác một nét đẹp trong tâm hồn người lính đó là câu chuyện về tình cảm cha con. Chính những trang viết xúc động này đã giúp bạn đọc có thêm những điểm nhìn khác nhau về người lính. Đó cũng chính là lý do vì sao mà tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng luôn được độc giả gần xa yêu mến! Đề 17: Trình bày cảm nghĩ của em về đoạn thơ sau : “Tà tà bóng ngả về Tây Chị em thơ thẩn dan tay ra về Bước lần theo ngọn tiểu khê Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh Nao nao dòng nước uốn quanh Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang” (“Cảnh ngày xuân” - “Truyện Kiều” – Nguyễn Du) Bài làm
“Truyện Kiều” mặc dù là một tác phẩm tự sự nhưng với một năng lực thơ xuất chúng cùng với một tâm hồn đặc biệt đa cảm, đại thi hào Nguyễn Du vẫn luôn biết cách làm người đọc phải chú ý bởi những đoạn trích có sử dụng các yếu tố miêu tả hết sức ấn tượng. “Cảnh ngày xuân” chính là một đoạn trích như thế. Tuy nhiên, để lại nhiều cảm xúc hơn cả đối với độc giả là những câu thơ: “Tà tà bóng ngả về Tây Chị em thơ thẩn dan tay ra về Bước lần theo ngọn tiểu khê Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh Nao nao dòng nước uốn quanh Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang” Có một cái gì đó thật hẫng hụt khi chúng ta đọc những câu thơ này. Bởi chỉ trước đó chút ít thôi thì mọi thứ vẫn hãy còn tươi nguyên, trong sáng. Dù là những ngày xuân đã muộn nhưng dưới ngày bút đầy nâng niu, trân trọng của nhà thơ thì vẫn còn đó những cái đẹp làm say lòng người. Đó là một thiên nhiên tháng Ba đang bừng lên sức sống xanh tươi mãnh liệt với những thảm cỏ xanh non tít tắp tận chân trời, đó là những rặng Lê dù lặng lẽ, âm thầm nhưng đã kịp điểm xuyết những bông hoa trắng muốt và đặc biệt đó là lễ hội của ngày tết thanh minh được mở ra đã rủ rê không biết cơ man nào là những nam thanh nữ tú xuống đường. Với những cô gái từ lâu sống trong cảnh “Êm đềm trướng rủ màn che – Tường đông ong bướm đi về mặc ai” như chị em Thúy Kiều thì khoảng khắc được tháo cũi sổ lồng mà hòa mình vào một không khí du Xuân thật đông vui và náo nhiệt ấy quả là một kỷ niệm thật không thể nào quên. Nhưng chẳng có gì là vô cùng, vô tận. Đặc biệt là quỹ thời gian của một ngày hội lại càng chóng qua mau. Hình ảnh chị em Thúy Kiều trở về lúc này được Nguyễn Du khắc họa trong một không gian đã tím thẫm bóng hoàng hôn. Dư vị của bao nhiêu náo nhiệt hội hè vừa mới đó đã lùi lại phía sau. Dù chẳng phải là những sầu não, bi ai đến mức phải rơi nước mắt nhưng một cái buồn man mác thì đã thấm đẫm vào trong từng cảnh vật. Người đọc có thể thấy được cả sự rón rén trong từng nét chữ của tác giả “Truyện Kiều” và thấy ông tinh tế biết bao trong việc tả tình, tả cảnh. Sự vận động của thời gian, không gian lúc này thực sự phù hợp với những đổi thay của tâm trạng. Một chút gợi buồn muôn thủa của thời khắc hoàng hôn khi bóng chiều đang từ từ buông xuống đã làm cho thời gian có vẽ như đang chậm lại và vì thế bước chân của các nhân vật bổng nhiên nhuốm đầy nỗi niềm tiếc nuối. Nhà thơ đã rất có lý khi lựa chọn được những từ láy độc đáo có sức biểu cảm rất cao. Bóng chiều thì Tà tà chầm chậm trôi trong tĩnh lặng còn con người thì thơ thẩn bước đi mà lòng hãy còn đang gửi lại với bao nỗi luyến lưu, bịn rịn. Khung cảnh dù vẫn còn đẹp, vẫn còn thanh thanh nhưng không sao tránh được cảm giác đìu hiu, quạnh vắng. Ngọn tiểu khê, Dòng nước uốn quanh, Nhịp cầu nho nhỏ là những vùng không gian được tác giả lựa chọn đầy chủ ý. Trong cái cảnh ấy đã nhuốm đầy tâm trạng Nao nao nghèn nghẹn rất khó lý giải của lòng người. Buổi du Xuân đã khép lại. Đó là một hừng đông mới mẻ, trong sáng, tươi nguyên đã bừng lên trong tâm hồn những cô gái trẻ. Sức vẫy gọi của cuộc đời thật hấp
dẫn, đẹp đẽ biết bao. Nhưng đáng tiếc thay, tất cả lại chỉ được nhà thơ sử dụng như một niềm an ủi nhỏ nhoi đối với nhân vật Thúy Kiều trước khi đưa nàng đến với một cuộc đời đầy bão giông, gió bụi. Khi bóng hoàng hôn được nói đến trong đoạn thơ này buông xuống thì nỗi buồn đã len thấm lên từng cảnh vật. Đó không chỉ là nỗi buồn thuần túy của những tâm hồn đa sầu đa cảm mà chính là điềm báo cho nàng Kiều vì những truân chuyên phía trước. Sự chuẩn bị ấy cho mạch vận động tự sự của tác phẩm thật là tài hoa, tinh diệu vô cùng. Đoạn thơ nói riêng, tác phẩm “Truyện Kiều” nói chung vẫn luôn là vậy – đó là những áng văn chương tuyệt bút mãi mãi có sức âm vang dẫu lời đã tận. Đề 18: Phân tích tâm trạng của nhân vật ông Hai trong đoạn trích sau: “Ông lão ôm thằng con út lên lòng, vỗ nhè nhẹ vào lưng nó, khẽ hỏi: - Húc kia! Thầy hỏi con nhé, con là con ai? - Là con thầy mấy lị con u. - Thế nhà con ở đâu? - Nhà ta ở làng Chợ Dầu. - Thế con có thích về làng Chợ Dầu không? Thằng bé nép đầu vào ngực bố trả lời khe khẽ: - Có. Ông lão ôm khít thằng bé vào lòng , một lúc lâu ông lại hỏi: - À, thầy con hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai? Thằng bé giơ tay lê, mạnh bạo và rành rọt: - Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm! Nước mắt ông lão giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má. Ông nói thủ thỉ: - Ừ đúng rồi, ủng hộ Cụ Hồ con nhỉ. Mấy hôm nay ru rú ở xó nhà, những lúc buồn khổ quá chẳng biết nói cùng ai, ông lão lại thủ thỉ nói với con như vậy. Ông nói để ngỏ lòng mình, như để mình lại minh oan cho mình nữa. Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông. Cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai. Mỗi lần nói ra được đôi câu như vậy nỗi khổ trong lòng ông cũng vợi đi được đôi phần.” Bài làm: Kim Lân là một nhà văn đặc biệt sở trường về truyện ngắn. Ông có một vốn hiểu biết vô cùng sâu sắc về cuộc sống của nông thôn và người nông dân. Tất cả những năng lực thế mạnh ấy đã được thể hiện một cách rất tập trung trong truyện ngắn “Làng”. Chỉ cần tìm hiểu cách mà nhà văn này kể về cuộc nói chuyện đầy xúc động của nhân vật ông Hai với thằng con út sau khi ông lão nghe tin và ngỡ rằng cái làng Chợ Dầu đầy kiêu hãnh của mình đã theo giặc người đọc cũng sẽ phần nào thấy được điều đó. Chúng ta đều biết rằng ông Hai vừa phải trải qua một thời khắc có thể nói là hết sức tồi tệ. Khi mà ông đang bay cao với những lời khoe về làng, rằng làng ông là cái làng số một trong số những làng số một cũng như ông lão đang tràn đầy niềm phấn khích vì những thông tin chiến công dồn dập của quân dân cả nước mà ông vừa được
nghe được biết ở phòng thông tin tuyên truyền của huyện, thì đùng một cái, bất ngờ và khủng khiếp như một tiếng sét giữa trời quang, ông phải nghe cái thông tin làng Chợ Dầu theo giặc. Bao nhiêu trạng thái tinh thần tốt đẹp của nhân vật phút chốc bị sụp đổ, thay vào đó là một cảm giác thất vọng, tủi hổ, đau xót đến nghẹn ngào. Cũng là bởi, ông Hai chưa bao giờ ngờ tới lại có chuyện động trời như vậy xảy ra cho nên ông lão đã không kịp thích ứng. Bản chất bảo thủ cố hữu của người nông dân đã không cho phép ông Hai mở lòng ra với mọi người. Ông lão cứ âm thầm một mình chịu đựng không biết bao nhiêu là những uất nghẹn như thế trong lòng. Nhưng dù có dằn vặt nội tâm nhiều bao nhiêu thì ông vẫn không thể nào tìm ra lối thoát và điều đó càng chỉ tổ khiến cho trái tim già nua của ông thêm đau đớn hơn mà thôi. Cho đến khi không thể chịu đựng được nữa. Ông phải bung cái sự lòng tê tái của mình ra để mà giải bày, để mà chia sẻ. Nếu không có thể ông lão sẽ ngả quỵ mất. Đó chính là lý do vì sao có phần chuyện ông Hai chuyện trò với thằng con trai út . Nhà văn Kim Lân có lẽ đã quá am hiểu nhân vật của mình nên mới mang đến cho ông Hai cái đối tác rất thích hợp cho cuộc nói chuyện này. Thằng Húc – con trai út của ông là một đứa trẻ còn rất nhỏ tuổi. Nó có thể nghe, có thể nói nhưng không thể hiểu vì thế ông lão có thể an tâm mà trút bầu tâm sự. Ông sẽ không phải nơm nớp cái chuyện mình sẽ bị lòi đuôi trước bàn dân thiên hạ. Ông lão dù đã “cháy nhà” rồi nhưng vẫn không chịu “ra mặt chuột”. Con người đầy tự trọng của ông vẫn buộc ông phải nổ lực để bưng bít cái thông tin nhục nhã về làng Chợ Dầu. Chính vì lẽ đó, thằng Húc coi như chỉ là cái cớ để ông bộc lộ cái cõi lòng của mình. Về mặt hình thức, phần chuyện này là những lời đối thoại của hai cha con ông lão nhưng dường như về mặt bản chất chỉ là những độc thoại và độc thoại nội tâm đã đến mức cao trào của nhân vật mà thôi. Khi ông Hai hỏi con và nghe nó trả lời thì ông đang muốn cùng con xác định rằng cha con ông là người dân của làng Chợ Dầu. Đó là một sự thực không bao giờ thay đổi. Làng có xấu tốt vinh nhục gì đi chăng nữa thì họ vẫn là những người đầu tiên phải chịu trách nhiệm. Tình cảm của họ sau trước với làng vẫn phải thủy chung son sắt. Không thể vì cái chuyện làng đã trót theo Tây, làm Việt gian bán nước mà có thể dễ dàng cắt đi hình ảnh của nó trong lòng của mình được. Nhưng cũng chính vì việc không thể trốn chạy, không thể cắt đứt trong khi chưa tìm ra cách giải quyết sự bế tắc của vấn đề cho nên càng làm cho ông Hai đau đớn, tủi nhục vô cùng. Diễn tả được những điều này, có thể nói nhà văn đã hiểu đến tận chân tơ, kẻ tóc tâm lý của nhân vật. Sẽ là thật phũ phàng và tàn nhẫn với con người tội nghiệp như ông Hai khi ông phải trải qua những sự hành hạ đau đớn như thế về tinh thần. Ông lão rất dễ sẽ bị rơi vào tình trạng quẩn bách và tuyệt vọng như nhân vật Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao phải mượn bã chó để kết thúc cuộc đời nếu không có cái chuyện khi ông lão hỏi con “- À , thầy con hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai?” và thằng bé đã trả lời “mạnh bạo và rành rọt” rằng “- Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!”. Câu trả lời ngây thơ nhưng dứt khoát đó của thằng Húc đã thắp lên cho người cha tội nghiệp của nó một ánh sáng thật đẹp phía cuối đường hầm. Chính niềm tin tươi sáng của ông Hai về cách mạng, về Bác Hồ kính yêu là những bấu víu vô cùng quan trọng giúp cho
ông lão rút cục đã không hoàn toàn bị ngả quỵ. Ông lão đã có một chổ dựa tinh thần để vượt qua một thử thách khắc nghiệt và để trụ lại với cuộc đời. Đây cũng chính là sự khác biệt căn bản giữa nhân vật của tác phẩm văn học cách mạng với nhân vật của văn học hiện thực phê phán. Trong tận cùng của sự đau đớn và bế tắc trước mắt nhưng ông Hai vẫn được sưởi ấm lòng mình bằng một cái nhìn hết sức lạc quan. Đó là gốc rễ cho niềm tin của nhân dân một lòng đi theo cách mạng. Câu chuyện của ông Hai cùng với đứa con trai út nói như nhà văn Kim Lân là “Ông nói để ngỏ lòng mình, như để mình lại minh oan cho mình nữa” và “Mỗi lần nói ra được đôi câu như vậy nỗi khổ trong lòng ông cũng vợi đi được đôi phần”. Sự am hiểu sâu sắc của nhà văn đối với người nông dân luôn là một thế mạnh giúp ông thành công trong việc khắc họa tâm lý nhân vật ông Hai. Phần chuyện này là một ví dụ như thế. Đọc “Làng” của Kim Lân chúng ta thấy rất quý cái tấm lòng của nhà văn dành cho người nông dân trong buổi đầu đi theo kháng chiến. Nhà văn tuyệt đối chưa bao giờ khai thác những yếu điểm cố hữu của họ để mà miệt thị. Vượt lên trên tất cả cây bút này vẫn luôn biết cách dành cho họ một chổ đứng thật đáng trân trọng ở trong những trang viết của mình. Đọc phần chuyện trên làm gì có độc giả nào nỡ giận, nỡ trách ông Hai. Chúng ta chỉ có thể thương xót cho những bi kịch mà ông lão phải gánh chịu và từ đó khâm phục cái tấm lòng sâu nặng, chân thành, thiết tha mà ông đã dành cho làng Chợ Dầu nói riêng và cho cả cách mạng, cả đất nước nói chung. Đây chính là một thành công rất đáng ghi nhận của cây bút Kim Lân. Có lẽ, người ta nói rằng ông là nhà văn của người nông dân cũng chính là vì lẽ đó. Đề 18: Phân tích đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” để thấy được năng lực bậc thầy của đại thi hào Nguyễn Du trong việc xây dựng nhân vật. Bài làm: Có thể khẳng định rằng thành tựu nghệ thuật nổi bật nhất trong kiệt tác “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du chính là việc xây dựng nhân vật. Mỗi một tính cách, mỗi một số phận xuất hiện trong 3254 câu lục bát của tác phẩm nổi tiếng này đều được nhà thơ tạo nên những nét riêng không hề trộn lẫn. Rất nhiều nhân vật trong thế giới ấy của Truyện Kiều đã trở thành những điển hình văn học bất hủ và đã từ trang sách của Nguyễn Du mà bước đến với cuộc đời. Những người con gái tài sắc họ Vương mà đặc biệt là nhân vật Thúy Kiều chính là một thành công nổi bật nằm trong số đó. Chỉ cần tìm hiểu cách mà nhà thơ miêu tả hình ảnh chị em Thúy Kiều trong đoạn trích cùng tên chúng ta cũng sẽ phần nào thấy được điều này. Không khó để nhận ra dấu ấn của bút pháp ước lệ tượng trưng phổ biến của văn học trung đại mà tác giả Nguyễn Du đã sử dụng. Tuy nhiên, dưới ngòi bút thiên tài của ông thì mọi thứ vẫn vô cùng sinh động. Từ những chất liệu ước lệ có vẽ như rất giống nhau nhưng nhà thơ lại đã tạo cho mỗi nhân vật dù đều là tuyệt thế giai nhân là chị em Thúy Kiều những dáng vẻ rất khác nhau. Ngay từ những câu thơ đầu tiên thì cách giới thiệu khái quát nhân vật của nhà thơ đã vô cùng sinh động. Nếu như ở hai câu thứ nhất “Đầu lòng hai ả tố nga – Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân” còn là cách nói mộc mạc của ngôn ngữ bình dân, cho dù là kẻ chợ hay người quê thì đều có thể giới thiệu về chị em Thúy Kiều như thế nhưng ngay liền đó với hai câu thơ “Mai cốt cách, tuyết tinh thần – Mỗi người mỗi vẻ
mười phân vẹn mười” nhà thơ đã cho thấy năng lực bậc thầy của mình trong việc sử dụng ngôn ngữ văn chương bác học. Những chuẩn mực của bút pháp ước lệ đã được huy động. Người đọc có thể hình dung rằng cốt cách của chị em Thúy Kiều cao quý như Mai trong khi phẩm chất tinh thần của họ lại sáng trong như Tuyết. Cả hai đều đã đạt đến đỉnh điểm đẹp “mười phân vẹn mười”. Nhà thơ đã rất công phu lựa chọn từng con chữ để mở ra sự liên tưởng về cái hoàn hảo của các nhân vật một cách đầy sự nâng niu, trân trọng. Trong tác phẩm “Truyện Kiều” nói chung và đoạn trích này nói riêng, dĩ nhiên Thúy Vân chỉ là một nhân vật phụ nhưng tác giả lại miêu tả nhân vật này trước. Đây là một dụng ý nghệ thuật độc đáo cho thấy sự chuẩn bị rất tinh tế của nhà thơ. Ông đã muốn mượn hình ảnh Thúy Vân thông qua nghệ thuật đòn bẩy để làm nổi bật Thúy Kiều. Tuy nhiên, trước hết, chỉ bằng có bốn câu thơ thôi mà những gì nhà thơ muốn nói về nàng Vân cũng đã là vô cùng ấn tượng. “ Vân xem trang trọng khác vời Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang Hoa cười ngọc thốt đoan trang Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da ” Người đọc có thể tùy theo năng lực tưởng tượng của mình mà cảm nhận về cái đẹp của nàng Vân nhưng tất cả sẽ có chung một cảm nhận về sự đoan trang, phúc hậu và quý phái của nhân vật này. Vẫn chỉ là khuôn trăng, nét ngài, hoa, ngọc, mây, tuyết quen thuộc của bút pháp ước lệ nhưng bằng dụng ý của mình nhà thơ đã buộc chúng phải cất lên những tiếng nói riêng. Một nàng Vân có khuôn mặt ngời ngợi như ánh trăng có điểm xuyết nét cao quý của mày ngài mắt phượng, miệng cười tươi như hoa, tiếng nói trong như ngọc, mây phải chấp nhận thua độ bồng bềnh của mái tóc, tuyết phải chịu nhường sự nõn nà, tươi trẻ của làn da thì quả là một cái đẹp tròn đầy, viên mãn. Những nét bút của Nguyễn Du dù chỉ là phác họa nhưng cũng đã vô cùng tinh diệu. Ví như cái chữ “thốt” mà ông dùng là vô cùng đắc địa. Thốt có nghĩa là nói nhưng còn hàm thêm nghĩa kiệm lời. Tiếng nói của Thúy Vân cao quý, trong như ngọc mà lại khiêm nhường, ít nói nữa cho nên mỗi lời nhả ngọc, phun châu của nàng lại càng hết sức có giá trị. Một điều nữa không thể không nói về nhân vật này đó là dường như thượng đế chí tôn đã ưu ái ban tặng cho nàng có được một cái đẹp hòa hợp với những cái đẹp khác. Điều này gần như báo trước cho người con gái may mắn này một tương lai rồi sẽ bình lặng, êm chèo mát mái. Đây là điều mà cô chị của nàng đã không thể nào có được. Từ trên phía bên này của đầu đòn bẩy được tạo ra từ nhân vật Thúy Vân thì ở phía bên kia nàng Kiều đã xuất hiện với một ấn tượng rất nổi bật. Tuy nhiên mọi thứ ở Kiều lại là rất khác biệt. Điều đáng nói là trước sau tác giả của đoạn trích vẫn trung thành với những cách nói quen thuộc của bút pháp ước lệ. “Kiều càng sắc sảo mặn mà So bề tài sắc lại là phần hơn Làn thu thủy, nét xuân sơn Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”
Vẫn là thu thủy, xuân sơn, Hoa, liễu vốn là những chất liệu ước lệ như đã từng miêu tả về Thúy Vân nhưng sức gợi từ nhân vật Thúy Kiều lại rất độc đáo. Cũng là cái đẹp “mười phân vẹn mười” nhưng ở Kiều không phải là cái đẹp đoan trang, phúc hậu như Thúy Vân mà lại là cái đẹp “sắc sảo mặn mà”. Nàng cũng không hề có được sự hòa hợp với những cái đẹp khác khiến mây thua, tuyết nhường như Thúy Vân mà đó lại là cái đẹp gây nên nông nỗi hoa phải ghen và liễu phải hờn. Đó là một cái đẹp mang đầy tính xung khắc với những cái đẹp khác. Từ đó dường như một chặng đường đầy bão giông phía trước đã là kiếp số định mệnh dành sẵn cho nàng rồi. Tả cái đẹp hơn người của Kiều mà tác giả lại còn có thể dự báo số phận của nhân vật nữa thì quả là hết sức thú vị. Khi miêu tả Thúy Kiều tác giả không làm một cách khái quát, chung chung như đã từng làm đối với Thúy Vân. Dường như ông đa rất dụng công đi vào chi tiết và vì thế bức chân dung của Thúy Kiều vẫn sinh động hơn hình ảnh nàng Vân rất nhiều. Chỉ cần lấy một cách nói “Làn thu thủy” của nhà thơ làm ví dụ chúng ta cũng sẽ thấy rõ điều này. Làn thu thủy là hình ảnh ước lệ dùng để so sánh với đôi mắt của Thúy Kiều. Một đôi mắt long lanh như làn nước hồ Thu. Nó không chỉ là đôi mắt đẹp mà còn là đôi mắt tinh anh sắc sảo, thể hiện Kiều là con người con gái thông minh, mẫn tuệ vô cùng. Bên cạnh chất liệu ước lệ quen thuộc như đã từng được vận dụng khi miêu tả Thúy Vân thì trong bức chân dung Thúy Kiều, tác giả còn vận dụng thêm cách nói của điển tích, điển cố. Theo đó, Kiều được so sánh với các bậc đại mỹ nhân đã từng có sắc đẹp đầy ma lực làm đảo quốc khuynh thành như Tây Thi, Điêu Thuyền, Đát Kỷ, Bao Tử vv. Cái đẹp của nàng rõ ràng đã được nhấn mạnh trở thành một tột đỉnh nhân gian. Không những đẹp, Kiều còn là một con người tài hoa. Chính nhờ ưu thế này mà trong tác phẩm của mình đại thi hào Nguyển Du đã trân trọng đưa nàng vào hàng ngũ đấng bậc. Với một tố chất thông minh thiên bẩm và dường như cũng được giáo dục rất cẩn thận cho nên Thúy Kiều đã sở hữu rất nhiều món tuyệt kỹ của tài hoa mà bất kỳ ai cũng thèm muốn và ngưỡng mộ. Đó là sự hội tụ một cách khắt khe nhất những chuẩn mực cầm, kỳ, thi, họa của những tiểu thư lá ngọc mình vàng ngày xưa. Món tài nào ở Thúy Kiều cũng có thể gọi là “Nghề” và đủ sức vượt lên tất cả “Ăn đứt ” mọi người. Nhưng cho dù vậy thì ngay trong buổi còn trẻ trung, hồn nhiên của cuộc đời tác giả đã để cho nàng đa mang một cung đàn có tựa đề “Bạc mệnh”. Dường như nhà thơ đã sớm để cho nhân vật của mình dự cảm về một cái gì đó rất trớ trêu trong cuộc đời đầy dâu bể nay mai. Đó lại cũng là thêm một dự báo nữa cho số phận “rồi chẳng ra gì” đúng như lời báo mộng của Đạm Tiên đối với Thúy Kiều. Có thể nói cả hai nhân vật được xây dựng trong đoạn trích đều được tác giả đặt trong quan hệ so sánh và chủ yếu là để làm nổi bật bức chân dung Thúy Kiều. Cài tài, cái sắc hơn người của nàng không hề là cơ hội cho nàng có được một cuộc đời hạnh phúc. Ngược lại, đó lại là những mầm mống của tai họa. Đại thi hào Nguyễn Du đã thể hiện điều này bằng không chỉ tất cả tài năng mà còn là bằng tất cả nỗi lòng của mình.
Đề 20: Phân tích tâm trạng nỗi nhớ của nhân vật Thúy Kiều đối với Kim Trọng và cha mẹ trong đoạn thơ sau: “Tưởng người dưới nguyệt chén đồng, Tin sương luống những rày trông mai chờ. Bên trời góc bể bơ vơ, Tấm son gột rửa bao giờ cho phai. Xót người tựa cữa hôm mai, Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ? Sân Lai cách mấy nắng mưa, Có khi gốc tử đã vừa người ôm” (“Kiều ở lầu Ngưng Bích” – “Truyện Kiều” – Nguyễn Du – Ngữ Văn 9 – Tập I) Bài làm: Thành tựu nghệ thuật nổi bật của đại thi hào Nguyễn Du trong thiên kiệt tác “Truyện Kiều” chính là cách xây dựng nhân vật. Đặc biệt là với nhân vật chính Thúy Kiều thì dường như ở bất kỳ phần chuyện nào của tác phẩm, nhà thơ vẫn biết cách mang đến cho người đọc những trang viết cực kỳ độc đáo. Đó là những trang viết thể hiện tất cả tài năng cũng như tấm lòng của ông dành cho nhân vật. Chỉ cần tìm hiểu tám câu thơ nói về tâm trạng nỗi nhớ của nàng Kiều đối với Kim Trọng và cha mẹ trong đoạn thơ sau: “Tưởng người dưới nguyệt chén đồng, Tin sương luống những rày trông mai chờ. Bên trời góc bể bơ vơ, Tấm son gột rửa bao giờ cho phai. Xót người tựa cữa hôm mai, Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ? Sân Lai cách mấy nắng mưa, Có khi gốc tử đã vừa người ôm” chúng ta cũng sẽ phần nào thấy rõ điều đó. Nàng Kiều – như chúng ta đã biết – lúc bấy giờ đã bị đưa đến lầu Ngưng Bích. Đó không phải là một lầu son gác tía đẹp đẽ gì mà chỉ là một phần trong kế hoãn binh vô cùng thâm độc của Tú Bà mà thôi. Lầu Ngưng Bích với nàng là một nhà tù không hơn, không kém. Tại đây, nàng đã phải đối diện với một sự cô đơn khủng khiếp. Nàng dường như bị cô lập với mọi diễn biến của cuộc sống bên ngoài. Chính trong cảnh ngộ tâm trạng buồn tủi, bế tắc ấy nàng mới tìm về những nỗi nhớ với người thân. Coi đó như một sự xoa dịu chính mình. Cảnh ngộ tâm tạng tội nghiệp ấy đã được nhà thơ thể hiện bằng những câu thơ vô cùng xúc động. Trước hết là nỗi nhớ của Kiều đối với chàng Kim – một nỗi nhớ bằng tất cả trái tim, tấm lòng ngây thơ trong sáng của một thiếu nữ đang yêu. Đó là một nỗi nhớ bằng hình ảnh được nhà thơ biểu cảm bằng chữ “tưởng” gợi chúng ta liên tưởng tới tất cả sự sống động, bồn chồn, khắc khoải … Hình ảnh người dưới nguyệt chén đồng có thể có hai cách hiểu mà cách hiểu nào cũng rất xúc động . Có thể nàng Kiều đang mường tượng ra hình ảnh ở nơi xa chàng Kim đang một mình độc ẩm dưới trăng. Nàng biết, dù xa cách muôn trùng nhưng chàng vẫn ngày đêm thương nhớ mình và tha thiết chờ
mong vào ngày tái ngộ. Vậy mà, giờ đây nàng đâu còn là bến đợi của chàng nữa. Nghĩ tới điều đó trái tim nhỏ bé của nàng giống như dao đâu muối xát. Cũng có thể nàng đang hồi tưởng lại đêm răng thề nguyền của hai người. Lời thề thủy chung thì vẫn còn đó nhưng giờ đây chỉ vì chữ hiếu mà nàng đã là người phụ bạc. Hiểu theo cách nào thì nàng vẫn cảm thấy mình có lỗi với chàng Kim. Nàng biết rằng tình yêu mà cả hai người dành cho nhau dù là chân trời, dù là góc bể Bên trời góc bể bơ vơ thì vẫn không bao giờ thay đổi Tấm son gột rửa bao giờ cho phai . Đó là một sự thủy chung tuyệt đẹp nhưng đã chẳng bao giờ có hậu nữa thì quả là tội nghiệp biết bao…Không biết nhà thơ đang bộc lộ tâm trạng của nàng Kiều hay chính ông cũng đang hóa thân hết mình vào nhân vật? Trong bốn câu thơ còn lại của đoạn trích ông đã rất có lý khi chọn chữ “Xót” để thể hiện một cách tập trung tâm trạng nỗi nhớ của Thúy Kiều khi nàng hướng về cha mẹ trong tận cùng sự cô đơn, tủi nhục của mình. Đó là một nỗi nhớ không phải với hạnh phúc, tươi vui mà lại là nỗi nhớ giữa đầm đìa nước mắt với bao nhiêu xót xa, đau đớn. Nguyễn Du quả là một bậc kỳ tài hiếm có trong thiên hạ. Ông không chỉ là một chuyên gia hàng đầu về tâm lý, có thể thấu hiểu được tới tận chân tơ kẻ tóc tâm trạng của con người mà còn là một bậc thầy về chữ nghĩa để có thể biểu đạt điều đó một cách vô cùng xúc động. Nàng Kiều tội nghiệp lúc bấy giờ mới chính là người có cảnh ngộ đáng thương nhất. Nhưng dường như nàng không hề than thân trách phận, không hề nghĩ đến nỗi đau của bản thân mà chỉ luôn đau đáu nghĩ hộ cho người khác. Tấm lòng vị tha cao thượng ấy của nàng quả là rất đáng để chúng ta ngưỡng mộ. Mặc dù trong cơn gia biến nàng đã thầm lặng chấp nhận hy sinh và đã làm cho mẹ cha tất cả những gì có thể. Vậy nhưng, khi đã gần như mất đi tất cả, phải đối diện với những nỗi ô nhục không thể diễn tả hết bằng lời, nàng vẫn hướng về song thân của mình bằng những tình cảm sáng ngời nỗi lòng hiếu thảo. Đồng cảm với cái nỗi “Xót” của nhân vật chúng ta mới thấy hết được sự xúc động của vấn đề. Nàng đang mường tượng ra cảnh bố mẹ của mình sáng sáng, chiều chiều tựa cửa hôm mai thẫn thờ dõi theo những phương trời mờ mịt mà thương xót cho đứa con gái của họ chỉ vì gánh nạn cho gia đình mà phải bơ vơ lưu lạc nơi chân trời góc bể. Kiều rất biết rằng sự hy sinh của mình đang luôn là nỗi day dứt, ân hận ngày đêm vò xé tâm can bố mẹ. Giờ đây họ lại đã tuổi già như trái chín cây, chẳng biết nắng sớm chiều mưa lúc nào. Kiều lại cảm thấy mình là đứa con có lỗi vì giờ đây đang bơ vơ lưu lạc không thể sớm hôm phụng dưỡng. Nhà thơ đã liệt kê rất nhiều những hình ảnh ước lệ và điển tích điển cố hết sức cảm động về chữ hiếu như “Quạt nồng” “ấp lạnh” “Sân Lai” “Gốc Tử” để diễn tả điều này. Chính những dòng tự vấn lương tâm miên man khắc khoải như thế càng khiến đẩy nàng Kiều phải lún sâu hơn xuống cái bi kịch của sự cô đơn , tủi nhục giữa cảnh ngộ cá chậu chim lồng của lầu Ngưng Bích . Sẽ không quá khi nói rằng đây là những dòng đàm tâm độc thoại xúc động nhất của nhân vật Thúy Kiều trong toàn bộ tác phẩm “Truyện Kiều”. Đại thi hào Nguyễn Du đã luôn biết cách làm cho những vàn thơ như thế có chổ đứng trong tâm hồn độc giả.
B: PHẦN NGHỊ LUẬN VỀ TÁC PHẨM THƠ, ĐOẠN TRÍCH. Đề 1: Trình bày cảm nhận của em về cái đẹp trong bài thơ “Ánh Trăng” của Nguyễn Duy.
Bài làm: Người ta đọc thơ phải chăng vì thơ có cách mang đến cho họ những sự đồng điệu của tâm hồn. Thơ có thể chứa đựng trong từng con chữ những bài học nhân sinh sâu sắc. Nhưng, không phải là các giáo điều khô cứng mà là những tâm tình rất có sức lắng đọng. “Ánh Trăng” của Nguyễn Duy chính là một bài thơ như thế. Hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ vừa mới đi qua, hãy còn nóng hổi đó tính thời sự của nó. Một quãng thời gian lịch sử đầy bão táp đã nuôi dưỡng nên những tài năng xuất chúng cho nền văn học nước nhà. Nguyễn Duy là một nhà thơ nằm trong số đó. Sự trải nghiệm của thế hệ những người như ông chính là việc họ đã trực tiếp trải qua, trực tiếp chứng kiến những hy sinh, mất mát lớn lao của cả dân tộc. Hơn ai hết, họ thấm thía một cách sâu sắc ý nghĩa thiêng liêng của bao mồ hôi, nước mắt và cả máu nữa mà các thế hệ cha anh đã đổ xuống để dành lại màu xanh cho bầu trời tổ quốc ngày hôm nay. Nhưng khi lịch sử đã sang trang, hòa bình được lập lại thì không chỉ là một mà là nhiều người đã vội vàng lãng quên quá khứ. Một thái độ vẫn dễ thường nảy sinh trước sức ép của cuộc sống mới đầy bon chen, toan tính. Không khỏi chạnh lòng trước thực trạng đó, Nguyễn Duy đã viết bài thơ “Ánh Trăng” không lâu sau ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước. Có thể coi đây là một hồi chuông cảnh tỉnh cho lương tri thời đại mà ý nghĩa nhân văn của nó rồi sẽ còn có sức tỏa sáng tới muôn đời. Trước hết phải ghi nhận sự tinh tế của nhà thơ khi lựa chọn hình ảnh ánh trăng để xây dựng thành một biểu tượng. Trăng là hiện thân cho cái đẹp của tự nhiên mà sức hấp dẫn của nó là điều không cần phải bàn cãi. Với việc khéo léo vận dụng kết hợp các yếu tố biểu cảm, miêu tả và tự sự của nhà thơ mà dòng cảm xúc trữ tình của “Ánh Trăng” đã đến cùng độc giả như một câu chuyện tâm tình nhẹ nhàng mà xúc động. Hai khổ thơ đầu được tác giả mở ra với những vùng không gian chứa đầy kỷ niệm: "Hồi nhỏ sống với đồng Với sông rồi với bể Hồi chiến tranh ở rừng Vầng trăng thành tri kỷ” ở đó, ánh trăng và con người đã có biết bao ân nghĩa. Kỷ niệm của thời thơ ấu, kỷ niệm của hồi chiến đấu gian khổ trong rừng... tất cả đan quyện vào nhau làm nên những thử thách để rồi từ đó vun đắp và khẳng định mối giao tình giữa con người và ánh trăng. Nếu như, theo dọc những năm tháng tuổi thơ của nhân vật trữ tình, ánh trăng đã trải dài với "đồng” với "sông” rồi với "bể” làm cho chúng ta cũng xốn xang những ký ức ngọt ngào của một thời tuổi hoa, tuổi nụ; thì ánh trăng trong vùng rừng sâu,
địch hậu lại là chổ dựa tinh thần cho người lính xa nhà chia sẻ mọi buồn vui. Nó làm chúng ta liên tưởng tới cái ánh trăng treo đầu ngọn súng trong thơ của Chính Hữu hay “Mảnh trăng cuối rừng” trong truyện ngắn nổi tiếng của Nguyễn Minh Châu. "Tình nghĩa” "Tri kỷ” lẽ ra phải là những điều không được phép thay đổi. Nó phải được con người nâng niu, bảo trọng như tròng mắt con ngươi. Nhưng lòng người lại là cái khó lường nhất trong cuộc sống. Bởi: "Từ hồi về thành phố Quen ánh điện , cửa gương Vầng trăng đi qua ngõ Như người dưng qua đường” Con người đã nhanh chóng làm quen với cái mới và vì thế lại tỏ ra xa lạ với những điều gần gủi, thiêng liêng mà một thời đã gắn bó như máu thịt. "Ánh điện”, “cửa gương” là một hình ảnh ẩn dụ gợi sự liên tưởng về một cuộc sống mới nơi đô hội, thị thành sau khi nước nhà thống nhất. Đó là hiện thân cho một cuộc sống tiện nghi, đủ đầy, khác xa những ngày canh măng, cháo bẹ trên những nẻo đường hành quân gian khổ. Tuy nhiên, cũng cần phải nói thêm rằng: phấn đấu để từng bước hàn gắn vết thương chiến tranh, xóa bỏ đói nghèo để đến với cuộc sống văn minh là điều cần phải như thế. Nhưng cái cách mà con người xem "Vầng trăng đi qua ngõ” chỉ "Như người dưng qua đường” lại là điều khó lòng chấp nhận. Đó là một thái độ quá ư vô tâm, bạc bẽo. Phải chăng, khi tâm hồn con người đã vì chuyện mưu sinh, bon chen cơm áo mà trở nên chai sạn thì đâu còn nữa chổ đứng cho những thủy chung, ân nghĩa. Cái câu chuyện giữa con người và ánh trăng tại sao lại có một hồi kết đáng buồn như vậy? Nhưng, điều đáng nói là hình ảnh ánh trăng trong cách nói của nhà thơ không chỉ dừng lại với ý nghĩa tả thực mà nó còn là một biểu tượng của quá khứ. Một quá khứ hào hùng nhưng đau thương với vô vàn những hy sinh, mất mát. Trong thời điểm Nguyễn Duy viết bài thơ này thì tất cả vẫn còn tươi rói như chuyện của ngày hôm qua. Làm sao con người có thể một sáng một chiều vội ngoảnh mặt, quay đầu dễ dàng như vậy được? Nếu bài thơ dừng lại và kết thúc ở đây thì đó sẽ là một kết thúc không có hậu. Nhưng, tất nhiên, tác giả của nó, nhà thơ Nguyễn Duy không làm như vậy. Vẫn với một lối dẫn dắt rất tài tình, ông đã tìm cách đưa con người trở về với quá khứ. Đó là khi: "Thình lình đèn điện tắt Phòng buyn -đinh tối om Vội bật tung cửa sổ Đột ngột vầng trăng tròn” Mọi thứ diễn ra tình cờ , ngẫu nhiên nhưng nó lại là bước ngoặt của bài thơ. Những: "Thình lình” "Vội” "Đột ngột” đều cho thấy tất cả sự bất ngờ - cái bất ngờ tạo nên ấn tượng mạnh. Khi mà "ánh điện, cửa gương” hay "Phòng buyn – đinh” tạm thời nín lặng vì "Đèn điện tắt” lại là khi nổi bật hình ảnh vầng trăng trong quá khứ. Nhà thơ đã khiến nhân vật trữ tình không thể né tránh vầng trăng ngày xưa được nữa. Một sự đối mặt gợi nhớ tới bao điều...
"Ngửa mặt lên nhìn mặt Có cái gì rưng rưng Như là đồng là bể Như là sông là rừng” Trăng cố nhân, Trăng kỷ niệm đã tuôn chảy từ nỗi nhớ của con người biết bao ký ức - một quãng đời gắn bó tình sâu nghĩa nặng "Vừa qua cơn hoạn nạn mới hiểu hết lòng nhau”. Đó lại vẫn là đồng là bể là sông là rừng ... một kết cấu trùng lặp được nhà thơ xây dựng đã làm tái hiện biết bao điều thiêng liêng đáng thương, đáng nhớ. Cái tư thế "Ngửa mặt lên nhìn mặt” trong tâm trạng "rưng rưng” vừa thành kính vừa trang trọng vừa có một chút gì đó hơi nghèn nghẹn vì thế càng có sức đồng vọng rất lớn vào lòng người. Theo nỗi nhớ bất chợt của con người, quá khứ đã ùa về hối hả. Tất cả vẫn vẹn nguyên, ngồn ngộn như tự thủa nào. Thì ra, chỉ cần một tác động nhỏ thôi là cả cái vùng trống trong hồi ức của con người sẽ được đánh thức, sẽ được lấp đầy bằng những kỷ niệm. Đủ thấy kỷ niệm có một sức sống mảnh liệt đến nhường nào ... Bài thơ đã khép lại bằng chính bức thông điệp mà nhà thơ muốn gửi gắm "Trăng cứ tròn vành vạnh Kể chi người vô tình ánh trăng im phăng phắc Đủ cho ta giật mình” Vầng trăng xưa thì vô cùng trong sáng, quá khứ thì rất đỗi anh minh... biết rất rõ những gì mà con người đã đối xử với mình. Nhưng vượt lên trên tất cả là một thái độ bao dung đầy lòng nhân ái. Các từ láy: "Vành vạnh” "Phăng phắc” được nhà thơ lựa chọn có một sức biểu cảm đặc biệt. Chính cách ứng xử cao thượng của ánh trăng khiến con người cảm thấy hổ thẹn. Nó thức dậy trong cõi sâu tâm hồn con người một thái độ tự vấn lòng mình. Anh ta đang đối diện với một vị quan tòa lương tâm với những phán xét không thể nào né tránh. Sự “giật mình” của nhân vật trữ tình trong bài thơ có thể muộn nhưng là vô cùng cần thiết. Điều đáng quý là anh ta cuối cùng đã nhận ra sự ích kỷ, bội bạc của chính mình để hướng tới một cuộc sống đẹp đẽ hơn. “Ánh Trăng” là một bài thơ nhỏ nhưng đã mang đến cho người đọc một vấn đề lớn. Đó là cách đối xử của con người với quá khứ. Chính lối nói nhẹ nhàng mà sâu sắc, tác động tới sự sâu kín trong tâm hồn con người mà dòng cảm xúc trữ tình này của Nguyễn Duy mãi mãi là một bài thơ vô cùng đáng đọc. Đề 2: Trình bày những cảm nhận của em về cái bản sắc vùng cao rất riêng và đậm đà trong bài thơ “ Nói với con ” của nhà thơ Y Phương Bài làm : Đọc thơ Y Phương, người ta dễ bị hút hồn bởi bản sắc vùng cao rất riêng và đậm đà. Thật khó mà lí giải được một cách tường tận, rạch ròi rằng cái bản sắc ấy được thể hiện ở đâu, như thế nào, nhưng có một điều mà ai cũng cảm nhận được rằng: phải là một con người được sinh ra, lớn lên, được nuôi dưỡng bằng chính nguồn mạch của núi rừng mới cất lên được tiếng nói mang đầy âm hưởng của cuộc sống vùng cao như vậy. “Nói với con”là một bài thơ tiêu biểu cho âm hưởng ấy.
Có người còn cho rằng: mỗi lần đọc bài thơ ấy người ta dễ quên đi sự tỉnh táo để lí giải, cắt nghĩa về vẻ đẹp trong từng câu chữ. Bởi ở đó một thứ ngôn ngữ quá tự nhiên, quá mộc mạc, như hơi thở, như cuộc sống, như dòng máu của người Tày chảy qua đầu ngọn bút mà thành thơ vậy: Chân phải bước tới cha Chân trái bước tới mẹ Một bước chạm tiếng nói Hai bước tới tiếng cười. Những câu thơ là những lời kể, tả hết sức bình dị: Chân phải, chân trái, một bước, hai bước…Thế mà đủ để cho người đọc cảm nhận rõ một không gian đầy ắp sự ríu rít ngọt ngào của một gia đình đầm ấm, với những bước đi chập chững của con, với tiếng nói cười rộn rã, với vòng tay nâng niu đón chờ của mẹ cha. Từ “chạm”được sử dụng rất tự nhiên nhưng mang rất rõ dấu ấn của sự sáng tạo. Bởi lẽ, tiếng cười nói vốn là âm thanh vô hình, nhưng đã được hữu hình hóa, cụ thể hóa qua từ “chạm”, khiến chúng ta như thấy rõ niềm vui, sự hạnh phúc đang tràn ngập khắp cả ngôi nhà. Y Phương quả là rất khéo léo khi đã vận dụng lối diễn đạt của người vùng cao để xây dựng hình ảnh thơ. Những hình ảnh vừa cụ thể, gần gũi, vừa mang tính khái quát cao, giàu ý nghĩa biểu tượng. Bình dị, mộc mạc nhưng lại mang vẻ đẹp nên thơ, không hề trộn lẫn với bất kỳ một giọng thơ nào mà chúng ta vẫn thường gặp. Người đồng mình yêu lắm con ơi Đan lờ cài nan hoa Vách nhà ken câu hát Rừng cho hoa Con đường cho những tấm lòng. Dụng cụ để bắt cá, dưới bàn tay của người Tày cũng trở thành một vật dụng mang tính nghệ thuật. Vách nhà không chỉ đan bằng tre, gỗ mà còn được ken bằng cả những câu hát ấm áp. Từ “ken”được kết hợp với từ chỉ âm thanh, một sự kết hợp giữa cái cụ thể với cái vô hình, tạo nên một hiệu quả biểu đạt khá cao: Đẹp biết bao và đáng yêu biết nhường nào, tâm hồn của “người đồng mình”: lãng mạn, vui tươi, trong sáng đến vô cùng.
Có thể nói, ngôn từ, hình ảnh trong thơ Y Phương không phải bao giờ cũng cắt nghĩa, lí giải một cách tường tận rõ nghĩa trắng đen thành lời mà cái chính là người đọc phải cảm nhận được cái linh hồn thần thái của nó. Rất cụ thể mà giàu sức khái quát, có khi mơ hồ, có vẻ như vô lí mà lại hết sức có lí, hết sức chân thật - đó cũng là điểm thú vị trong bài thơ “Nói với con”. Người đồng mình thương lắm con ơi Cao đo nỗi buồn Xa nuôi chí lớn… Một cách nói mang đậm dấu ấn, cách tư duy của người miền núi. Lấy cái cụ thể làm thước đo cho cái trìu tượng. Lấy cái cao, cái xa của đất trời để đo kích cỡ của nỗi buồn và chí hướng. Những nỗi niềm, khát vọng của họ mang tầm vóc của núi cao sông dài. Cũng từng gặp cách nói này của ông trong một bài thơ khác: Con ơi / Cha muốn giữ nỗi buồn này lại / Rồi thả cái khát khao ra cùng với gió trời (Tay trái) Cuộc sống vất vả, nghèo đói, lam lũ, cực nhọc nhưng họ có chí khí, sức mạnh và niềm tin: Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương- là một trong những câu thơ mang âm hưởng sử thi hào sảng, kiêu hãnh thường bắt gặp trong thơ Y Phương chặng đầu. Hình ảnh “Đá”xuất hiện lần thứ hai trong bài thơ và rất nhiều lần trong sáng tác của ông như một ám ảnh không nguôi. Gập ghềnh gian khó là Đá (Sống trên đá không chê đá gập ghềnh), cứng cỏi, hiên ngang cũng là Đá. “Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương” bằng “bàn tay đẽo đá” và “bàn chân đạp bằng đá sắc”. Hình ảnh thơ làm rạng ngời lên vẻ đẹp quê hương, vẻ đẹp của ý chí bền bỉ, của đức tính cần cù nhẫn nại, của nghị lực phi thường. Vẻ đẹp của sức mạnh tự lực tự cường và tinh thần tự chủ của người đồng mình. Bởi thế bài thơ khép lại bằng hình ảnh của người con lên đường với hành trình dài rộng và con đường đầy chông gai, nhưng con không bao giờ gục ngã: Lên đường Không bao giờ nhỏ bé được Nghe con. Bằng cách dùng từ, lối phô diễn giản dị mộc mạc, bằng lối tư duy giàu hình ảnh khiến những câu thơ của Y Phương vừa có tính vật chất cụ thể, vừa thể hiện một trí tưởng tượng bay bổng, vừa hồn nhiên chân thật, lại vùa gợi những liên tưởng sâu sắc. Vì vậy có thể nói bài thơ đã đi vào tâm trí người đọc trước hết bằng con đường của
trực giác. Đó chính là sức mạnh của lối tư duy bằng hình ảnh – một nét không thể trộn lẫn của thơ Y Phương. Cùng với việc sử dụng từ ngữ và hệ thống hình ảnh mang đậm bản sắc vùng cao, giọng điệu cũng là một phương tiện khá đặc sắc đã chở tải một cách hiệu quả những giá trị tư tưởng đẹp đẽ của bài thơ. Có thể thấy rằng ở bài thơ “Nói với con” ta bắt gặp một giọng điệu đa thanh, vừa đằm thắm chất trữ tình, vừa hào hùng chất sử thi, vừa hồn nhiên chân chất, vừa sâu lắng tâm tư. Đọc bài thơ, có lúc ta như thấy được ở đó một cánh võng êm ái, có lúc là một sự vuốt ve đầy âu yếm, có lúc là đôi bàn tay chắc nịch, khỏe khoắn sẵn sàng nâng con dậy khi con vấp ngã trên đường đời. Phần đầu bài thơ là một khúc hát tâm tình trong giọng điệu nhẹ nhàng mà vô cùng ấm áp. Hình ảnh một em bé đang chập chững những bước đi đầu tiên trong đời, có ánh mắt chờ đợi dõi theo trong niềm yêu thương và hạnh phúc của cha của mẹ. Ta như nghe thấy tiếng nói, tiếng cười, tiếng bước chân đi, thấy hoa ngan ngát và cả tiếng hát rộn ràng, trong trẻo. Cả một không gian đầy ắp sự ríu rít ngọt ngào của một gia đình đầm ấm quấn quýt bên nhau. Đó là chiếc nôi đầu tiên của con, chiếc nôi êm ả thời thơ ấu - là vòng tay nâng niu đón đợi của cha mẹ, gia đình, là căn nhà ấm áp ngập tràn hương hoa và tiếng hát; là những cánh rừng thơm thảo, là những con đường nghĩa tình sâu nặng… – Nơi đó con được sinh ra và lớn lên… Nơi đó con có được sự nâng niu che chở của quê hương. Giọng thơ vui tươi, hồn nhiên, tự nhiên như chính cuộc sống ấm áp ấy đã tràn vào thơ. Nếu ở phần một, đứa con xuất hiện như một chủ thể tiếp nhận, được yêu thương, chăm bẵm, nuôi nấng bởi cha mẹ, mái nhà, núi rừng, quê hương, thì chuyển sang phần hai người con hoàn toàn ở một tư thế khác – lúc này con trong vai trò là một hành thể trên hành trình chinh phục thử thách. Hành trình ấy lâu dài và gian khổ, dễ làm con buông xuôi, nản lòng và trở nên nhỏ bé. Chính những lúc ấy, “Người đồng mình” lại xuất hiện như một giá đỡ vững chắc, khỏe khoắn, như những điểm tựa hiên ngang đầy kiêu hãnh: Người đồng mình thương lắm con ơi Cao đo nỗi buồn Xa nuôi chí lớn Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh Sống trong thung không chê thung nghèo đói Sống như sông như suối Lên thác xuống ghềnh Không lo cực nhọc. Giọng thơ không còn cái vẻ nhẹ nhàng tươi vui như trước. Bên cạnh sự xuất hiện của những đá, thung, ghềnh, thác, âm điệu câu thơ bỗng trở nên nhọc nhằn mà cũng đầy gắng gỏi. Ta cảm nhận được trong đó bao nhiêu khó khăn chồng chất, bao nhiêu gian khó cực nhọc. Những câu thơ với nhiều âm tiết khép, nhiều thanh trắc,những câu ghép không có chủ ngữ, cũng không cần đến quan hệ từ, càng làm cho giọng điệu thơ trở nên chắc, gọn, rắn rỏi, mạnh mẽ, khỏe khoắn, như nắng, như gió, như sức vóc, như tâm hồn người vùng cao. Đoạn thơ dồi dào nhạc điệu, được tạo nên bởi điệp từ điệp ngữ, điệp cấu trúc câu, nhịp thơ khi vươn dài gắng gỏi, khoáng đạt, khi rút ngắn chắc nịch, mạnh mẽ. Điệp từ “Sống”được đặt đầu mỗi câu thơ góp phần làm nên giọng điệu rắn rỏi, như muốn thể hiện cái tư thế kiêu hãnh của con người quê hương trước những khó khăn thử thách. Đó là nguồn tiếp sức cho con, cho con một tư thế, một niềm tin, lẽ sống. Nhưng dù vậy, âm hưởng chung của bài thơ không hề thô cứng. Sự góp mặt của nhiều yếu tố tình thái trong bài thơ như “…yêu lắm con ơi; …thương lắm con ơi; …nghe con..”cùng với sự lặp lại của cụm từ “Người đồng mình”như một điệp khúc đã tạo nên một nốt nhấn làm cho âm điệu thơ trở nên mềm mại, tha thiết, ngọt ngào . Những đặc sắc về nghệ thuật ấy cộng hưởng với những cung bậc cảm xúc khi sâu lắng, lúc sôi nổi của nhà thơ đã làm nên sức hấp dẫn đặc biệt của tác phẩm. “Nói với con” là một bài thơ đậm đà bản sắc vùng cao và mang đậm dấu ấn phong cách Y Phương, một hồn thơ chân thật, mạnh mẽ, trong sáng với cách tư duy giàu hình ảnh, những suy tư giàu tính trải nghiệm về lẽ sống, về đạo lí làm người, về sự gắn bó chung thủy với quê hương làng bản. Nếu nói thơ Y Phương là một bức tranh thổ cẩm đan dệt nhiều màu sắc lung linh kỳ ảo của cuộc sống vùng cao thì bài thơ “Nói với con” chính là một bông hoa rừng ngát hương và là một điểm nhấn kỳ lạ trong cái bức tranh đó vậy. Đề 3: Nêu cảm nhận của em về giọng thơ hồn nhiên, trẻ trung tinh nghịch của Phạm Tiến Duật trong đoạn thơ sau: “Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha. Không có kính, ừ thì ướt áo Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi. Những chiếc xe từ trong bom rơi Đã về đây họp thành tiểu đội Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới Bắt tay nhau qua cửa kính vở rồi.” ( Phạm Tiến Duật – “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” – Ngữ Văn 9 – Tập I ) Bài làm: Phạm Tiến Duật là một trong số những cây bút Việt Nam nổi tiếng trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thơ của ông viết trong những năm tháng Trường Sơn khỏi lửa được coi là những bản tình ca hay nhất của thời đại. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một thành công tiêu biểu khẳng định điều này. Tuy nhiên, nổi bật trong đó đoạn thơ nói trên vẫn để lại cho người đọc những ấn tượng cảm xúc mãnh liệt hơn cả. Có nhiều người đã rất thích một cách nói của nhà văn Chu Lai đại loại rằng: Ông rất ngưỡng mộ những người lính Trường Sơn ra trận năm nào. Đằng sau lưng của họ luôn có một ngọn gió vô hình thốc tháo thổi. (“Thốc tháo thổi” là chữ dùng nguyên văn của Chu Lai) Đó là một ngọn gió mà theo ông được bắt nguồn từ truyền thống chống ngoại xâm trong lịch sử bốn nghìn năm hào hùng của dân tộc. Có lẽ cũng cần phải mượn tới cách nói sâu sắc này của nhà văn thì mới có thể lý giải được cái chất giọng lính tráng ngang tàng trong những vần thơ độc đáo nói trên của nhà thơ Phạm Tiến Duật. Tuy nhiên, cần phải nói thêm rằng, nếu không sống trong bầu không khí xuống đường hừng hực trên con đường Trường Sơn anh hùng những năm tháng ấy, không mang trên mình cái ba lô cóc, chiếc mũ tai bèo, đôi dép cao su Bác Hồ cũng như chiếc gậy Trường Sơn thì thử hỏi làm sao Phạm Tiến Duật lại có thể viết được những vần thơ hay đến là như vậy? Thơ của ông trước hết là sự phản ánh đầy đủ nhất hơi thở của cuộc sống thời đại, là những bản tình ca hay nhất của thời đại... Hãy đọc kỹ đoạn thơ này: Ba khổ thơ có tới mười hai câu nhưng gần như không có bất kỳ một biện pháp tu từ nào. Phạm Tiến Duật không gò ép các con chữ trên phương diện kỹ thuật làm thơ. Ông cứ để mặc nhiên những ngôn ngữ ồn ào, tự nhiên của người lính – cách nói mà theo nhiều người là giống với văn xuôi – mà đưa vào bài thơ của mình. Vậy mà, thật kỳ lạ nó vẫn rất thơ, rất có sức hấp dẫn đối với bất kỳ độc giả nào. Nếu cứ phân tích “xe không kính” nhưng là ở một khía cạnh khác thì sẽ rất nguy hại. Đó là những chiếc xe vừa đi xẹt qua cánh cửa của tử thần giữa mưa bom bão đạn của đế quốc Mỹ trên con đường Trường Sơn. Quá chú ý tới điều này sẽ làm
cho vấn đề trở nên nghiêm trọng. Người ta sẽ hoang mang, lo lắng và sức mạnh tinh thần vì thế sẽ bị đe dọa. Tuy nhiên, tác giả của bài thơ đã chọn được cách nói thông minh nhất. Ông phớt lờ cái hiện thực nghiệt ngã ấy để bông phèng nó một cách đầy ngạo nghễ. Đây cũng chính là mảnh đất sở trường đã làm nên phong cách nghệ thuật độc đáo của nhà thơ. Ai đã từng đọc thơ của Phạm Tiến Duật thử hỏi làm sao có thể quên được những câu thơ kiểu như “Em ở Thạch Kim sao lừa anh nói là Thạch Nhọn?” trong bài thơ “Gửi em cô thanh niên xung phong” nổi tiếng của ông. Từ trên những chiếc xe bị tàn phá tả tơi rất đặc trưng của những năm tháng Trường Sơn khói lửa, thay vì kêu ca, phàn nàn hay hoang mang lo lắng nhà thơ đã mang đến cho người đọc những vần thơ hết sức hóm hỉnh và tinh nghịch. Xe không kính là vừa chạm mặt với tử thần “Bom giật bom rung kính vở đi rồi”, là kèm theo đó vô vàn bất tiện cho người điều khiển chúng (xét ở phương diện kỹ thuật vận hành) nhưng qua cách nói của những người lính trẻ thì nào có can hệ gì. Xe không kính nhưng hóa ra lại hay vì từ đó tạo rất nhiều hình ảnh ngộ nghĩnh. Không đếm xỉa tới việc “Bụi phun tóc trắng như người già” mà chỉ cần “phì phèo châm điếu thuốc” là đã đủ để cho họ “Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”. Đó là một tiếng cười thật trẻ trung, thật bản lĩnh biết chừng nào. Phải có những tiếng cười như thế thì mới có đủ dũng khí cho người lính đối diện với hiện thực. Đó quả là một cái đẹp không hề tô vẽ. Đọc những câu thơ này của Phạm Tiến Duật chúng ta bất chợt lại liên tưởng tới cách nói của nhà văn trẻ Lê Minh Khuê trong truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi”. Đối với những cô gái của câu chuyện (cũng là những cô gái Trường Sơn) khi bị bom vùi lấp, cười chỉ thấy hai hàm răng trắng xóa trên khuôn mặt nhem nhuốc, họ đã gọi nhau là “Những con quỷ mắt đen”. Cách nói nghịch ngợm này chẳng khác gì cái tiếng cười “Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” trong thơ Phạm Tiến Duật. Từ bụi rồi đến mưa. Mà đó là những cơn mưa rừng ào ạt “Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời”. Nhưng rồi cũng nào có hề chi. Bởi vì “Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa - Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.” Bao nhiêu là những trở ngại như thế nhưng với người lính lại cứ tửng từng tưng xem như chẳng có chuyện gì. Không phải là họ không ý thức được những khó khăn, gian khổ nhưng kêu ca thì liệu có ích gì. Họ đã cùng nhau cười đùa mà tự lên dây cót tinh thần cho mình. Phát hiện ra vẻ đẹp ấy của người lính chính là cách mà nhà thơ đã neo đậu được những vần thơ của mình trong tâm hồn độc giả. Phạm Tiến Duật là một nhà thơ ra trận. Ông không cho phép mình tô vẽ, đánh bóng cái hiện thực ấy bằng một lớp son phấn giả tạo. Sứ mệnh của những cây bút như ông là phải luôn biết lắng nghe tiếng nói của hiện thực cuộc chiến khốc liệt mà mình đang đối diện để chưng cất những gì tinh túy nhất mà đem vào thơ, mà làm món ăn tinh thần cho cả cuộc cách mạng bề thế của dân tộc. Cách nói của nhà thơ trong khổ thơ thứ ba của đoạn thơ nói trên chính là những cái đẹp như thế. Từ “xe không kính” rồi đến “Tiểu đội xe không kính”, tất cả đều có thể coi là những sáng tạo nghệ thuật mang đầy dấu ấn của Phạm Tiến Duật. Lời thơ ở đây vô cùng rắn rỏi khẳng định một sức sống mãnh liệt của “Những chiếc xe từ trong bom rơi - Đã về đây họp thành tiểu đội”. Và từ những chiếc xe độc nhất vô nhị đó họ đã “Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới - Bắt tay nhau qua cửa kính vở rồi.”. Với những con chữ đầy chất lính tráng ấy
nhà thơ đã tạo nên sự cuốn hút không thể cưỡng lại. Một cái bắt tay thắm tình đồng đội nhưng là đầy sự nghịch ngợm, ngang tàng. Khác xa với cái bắt tay cẩn trọng và có phần rón rén “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” của người lính trong buổi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp trong bài thơ “Đồng chí ” của nhà thơ Chính Hữu. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một cột mốc nghệ thuật đáng tự hào trong những vần thơ viết về Trường Sơn nổi tiếng của nhà thơ Phạm Tiến Duật. Thơ của ông đã, đang và sẽ mãi mãi có chổ đứng trong tâm hồn mọi thế hệ độc giả Việt Nam. Đề 4: “Con ơi tuy thô sơ da thịt Lên đường Không bao giờ nhỏ bé được Nghe con.” (“Nói với con” nhà thơ Y Phương) Từ cảm nhận về đoạn thơ trên hãy trình bày suy nghĩ của em về những tình cảm, ước mơ, hy vọng của những ông bố, bà mẹ trên cuộc đời này gửi gắm vào tương lai, hạnh phúc của những đứa con yêu. Bài làm: Khép lại bài thơ “Nói với con” nổi tiếng của mình, nhà thơ Y Phương đã có một cái kết hết sức ấn tượng: “Con ơi tuy thô sơ da thịt Lên đường Không bao giờ nhỏ bé được Nghe con.” Từ những lời thơ độc đáo như thế, tác giả đã khơi dậy trong lòng người đọc những suy nghĩ rất sâu sắc về ân tình sâu nặng của những ông bố, bà mẹ trên cuộc đời này gửi gắm vào tương lai, hạnh phúc của những đứa con yêu. Viết về điều này thực sự là một đề tài không hề mới nếu không muốn nói là nó đã hết sức phổ biến trong văn học. Tuy nhiên, với những lời thơ mộc mạc, giản dị của mình, nhà thơ Y Phương vẫn biết cách để tạo nên một sức cuốn hút rất đặc biệt. Đó là bởi vì ông đã mang đến cho chúng ta một khẩu vị ngôn ngữ mang đầy âm hưởng của núi rừng. Nó đã trở thành một chất men nghệ thuật đặc sản, in đậm dấu ấn của ngòi bút Y Phương.
Nếu như trong đoạn thơ trước đó, khi nói về những phẩm chất quý báu của con người quê hương vùng cao nhà thơ đã từng viết bằng những lời rất sâu lắng rằng: “Người đồng mình tuy thô sơ da thịt – Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con” thì ở đây, mở đầu đoạn thơ này, điều đó đã một lần nữa được ông nhắc lại. Hình ảnh thô sơ da thịt là một nét đẹp mang tính bản sắc rất đáng tự hào của con người vùng cao. Thô sơ ở đây là đồng nghĩa với sự mộc mạc, bình dị không hề son phấn, trau chuốt chứ không phải là sự tầm thường, kém cỏi. Bởi vì, cũng chỉ là những con người ấy nhưng họ đã làm được bao nhiêu điều đẹp đẽ khiến chúng ta kính trọng. Họ sống trên đá nhưng không chê đá gập ghềnh, sống trong thung nhưng không chê thung nghèo đói. Họ đã sống mạnh mẽ, tự nhiên như núi như rừng lên thác xuống ghềnh không lo cực nhọc. Đã bao đời họ đã cùng nhau yêu thương, chung thủy, gắn bó với quê hương. Không bao giờ chối bỏ cội nguồn, không bao giờ đứng núi này trông núi nọ. Họ đã bằng chính đôi bàn tay lao động cần cù sáng tạo và đầy nghị lực của mình để từng bước xây dựng quê hương “Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương – Còn quê hương thì làm phong tục”. Đó thực sự là một kỳ tích. Từ trên điểm tựa của những phẩm chất truyền thống quý báu mà những con người vùng cao đã thể hiện, nhân vật trữ tình người cha muốn đứa con thơ của mình phải biết kế thừa và phát huy điều đó để dù có thô sơ da thịt thì Lên đường cũng Không bao giờ nhỏ bé được. Ông không hề ảo tưởng rằng một mai này con mình sẽ có được một đôi dày vạn dặm, chỉ một bước chân thôi đã tới được cánh cửa của thiên đường. Cái nhìn của người cha này hết sức thực tế. Ông muốn đứa con biết yêu thương, quý trọng, tự hào cái chất vùng cao mạnh mẽ đang từng ngày, từng giờ âm thầm chảy trong từng huyết quản của nó. Nó phải ngẩng cao đầu lấy đó làm hành trang tinh thần mà bước đến với cuộc đời. Phàm là những người làm cha làm mẹ, chẳng ai không sẵn sàng truyền dạy tất cả những kinh nghiệm sống mà họ tích lũy được cho những đứa con. Ai cũng cầu mong con có một tương lai tươi sáng, một hạnh phúc vững bền. Niềm mong ước ấy cũng chính là một lý do để họ âm thầm lặng lẽ hy sinh. “Lưng trần phơi nắng phơi sương – Có manh áo cộc tre nhường cho con”. Nếu như một người mẹ trong bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của Nguyễn Khoa Điềm đã từng có những mơ ước thật giản dị: nào là “Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần – Mai sau con lớn vung chày lún sân” nào là “Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều – Mai sau con lớn phát mười Ka Lưi” “Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ – Mai sau con lớn làm người tự do” thì một người mẹ khác trong bài thơ “Con cò” của Chế Lan Viên lại chờ đợi:
“Lớn lên – lớn lên... Con làm gì? – Con làm thi sĩ – Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ - Trước hiên nhà và trong hơi mát câu văn”. Trong khi đó, một người cha trong bài thơ “Với con” của Thạch Qùy lại hy vọng rằng: “Cha mong con lớn lên chân thật – Yêu mọi người như cha đã yêu con”. Những ân tình ấy có thể khác nhau về cách thức thể hiện nhưng đều có một điểm chung là các ông bố bà mẹ trên đời này đều gửi gắm tất cả hy vọng đẹp đẽ nhất của cuộc đời họ vào tương lai của những đứa con. Tình yêu, niềm mong ước và sự chờ đợi của họ đối với con cái là thiêng liêng, sâu nặng như trời như biển. Đó là lý do vì sao mà nhân dân ta luôn đặt chữ hiếu lên vị trí số một trong đạo làm người.“Một lòng thờ mẹ kính cha – Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”. Là một người học sinh còn ngồi trên ghế nhà trường, mọi thứ với chúng ta vẫn còn đang ở phía trước. Bố mẹ đã mang chúng ta đến với cuộc đời này. Đó thực sự là một ân tình vô cùng thiêng liêng sâu nặng. Hãy nổ lực học tập, rèn luyện, tu dưỡng trong ngày hôm nay để tích lũy cho ngày mai. Cùng hướng tới một con đường tươi sáng không chỉ vì chính bản thân cuộc đời của mỗi con người mà đó còn là cách tốt nhất để báo đáp công ơn của các bậc sinh thành. Đề 5: Quan điểm sống cống hiến cao thượng của nhà thơ Thanh Hải trong đoạn thơ sau thật sự có sức lay động lòng người về một lối sống đẹp. “Ta làm con chim hót Ta làm một nhành hoa Ta nhập vào hòa ca Một nốt trầm xoa xuyến Một mùa xuân nho nhỏ Lặng lẽ dâng cho đời Dù là tuổi hai mươi Dù là khi tóc bạc” (“Mùa xuân nho nhỏ” – Ngữ Văn 9 – Tập II) Em hãy nêu suy nghĩ của mình về vấn đề này. Bài làm: Không thể ngờ rằng trong những ngày cuối cùng của cuộc đời trên giường bệnh mà nhà thơ Thanh Hải vẫn có thể viết nên một dòng cảm xúc trữ tình “Mùa xuân nho nhỏ” trong sáng, tin yêu, phơi phới một tinh thần lạc quan thiết tha đến là như vậy. Bài thơ là một món quà rất ý nghĩa mà ông đã trân trọng gửi lại cho cuộc đời trước lúc đi xa. Tuy nhiên, nổi bật trong đó, cái “Lời gửi” đầy chất nhân văn trong hai khổ thơ nói trên vẫn để lại cho người đọc những ấn tượng sâu sắc hơn cả khi cùng hướng về một lối sống đẹp. “Ta làm con chim hót Ta làm một nhành hoa
Ta nhập vào hòa ca Một nốt trầm xoa xuyến Một mùa xuân nho nhỏ Lặng lẽ dâng cho đời Dù là tuổi hai mươi Dù là khi tóc bạc” Âm hưởng của đoạn thơ vang lên khiến chúng ta bổng như muốn liên hệ tới cái chặng hành trình đầy khó nhọc nhưng cũng rất vinh quang của một đời ong. Chính những con ong mật nhỏ bé, đáng yêu kia đã âm thầm, nhẫn nại bằng những cần lao tích cóp mà làm nên những giọt mật ngọt cho đời. Trong bài thơ này, trước sự thôi thúc giục giã của những khoảng trời mùa xuân rất đẹp với dòng sông xanh, bông hoa tím, tiếng chim chiền chiện cũng như cái khí thế náo nức, sục sôi của mùa xuân đất nước, mùa xuân thời đại với lộc giắt đầy trên vành lá ngụy trang của người ra trận và lộc trải dài nương mạ của người ra đồng; nhà thơ cảm thấy mình cũng phải làm nên một cái gì đó thật sự thơm thảo mà đóng góp vào cuộc đời chung. Những câu thơ của ông vì thế đã cho chúng ta hình dung một cách đầy đủ tinh thần của cả dân tộc lúc bấy giờ. Đó chính là sự phấn khởi, tin tưởng. Mỗi một con người đều có ý thức hòa mình vào dòng chảy tích cực của thời đại. Ước nguyện cống hiến được nhà thơ bộc lộ trong khổ thơ thứ nhất thật mộc mạc, bình dị những cũng rất trong sáng, thiết tha. Đại từ “ta” kết hợp với điệp ngữ làm đã tạo cho lời thơ trở nên rắn rỏi, đầy sự tự tin. Những hình ảnh ẩn dụ độc đáo được liệt kê rất chọn lọc đã tạo nên những câu thơ đầy gợi cảm và cũng là tiêu biểu cho phong cách thơ của Thanh Hải. Ông muốn làm một con chim hót trong muôn ngàn tiếng chim của cuộc đời, muốn làm một nhành hoa trong bạt ngàn vườn hoa của đất nước và muốn làm một nốt trầm xao xuyến trong bản hòa ca của thời đại… Hình ảnh nào cũng là tiêu biểu cho một ngọn lửa lòng của nhà thơ muốn cháy sáng hết mình nhưng lời thơ vẫn tự nhiên, dung dị và đặc biệt khiêm nhường. Hiểu những điều này chúng ta càng trân trọng hơn nét đẹp trong tâm hồn của nhà thơ. Ông đã mang đến cho chúng ta một bài học lớn về lẽ sống cống hiến nhưng đó không phải là những lời thuyết giảng sách vở mà là những bộc lộ tâm tình rất có sức lắng đọng vào lòng người… Trong khổ thơ thứ hai nhà thơ đã láy lại nhan đề mùa xuân nho nhỏ của bài thơ. Đây chính là một hình ảnh ẩn dụ độc đáo thể hiện tập trung bức thông điệp mà nhà thơ muốn gửi gắm. Hình ảnh này tượng trưng cho tất cả những gì đẹp đẽ nhất, tươi sáng nhất mà một cuộc đời có thể làm được để đóng góp vào cuộc đời chung. Nhưng cho dù cái ngọn lửa của khát vọng cống hiến đã cháy sáng hết mình thì nhà thơ vẫn không hề lên giọng. Vẫn thực sự là một cách nói bình dị khiêm nhường. Các từ láy “nho nhỏ” “lặng lẽ” đã nói lên điều đó. Thái độ thành tâm dâng mùa xuân nho nhỏ của mình để hòa vào cái mùa xuân rộng lớn của cuộc đời được thể hiện ở đây thật đáng trân trọng. Không những thế trong hai câu kết của đoạn thơ với điệp ngữ “dù là” cũng như với các hình ảnh ẩn dụ “ tuổi hai mươi” “ khi tóc bạc” Thanh Hải lại một lần nữa khẳng định quan niệm sống cống hiến bền bỉ suốt cuộc đời. Không phải
chỉ là trẻ trung, phơi phới tuổi hai mươi như anh thanh niên, cô kỹ sư mới dâng tràn nhiệt huyết phấn đấu mà ngay cả khi đã tuổi già bóng xế như bác lái xe, ông họa sĩ (Các nhân vật trong “Lặng lẽ Sa Pa” – Nguyễn Thành Long) thì ngọn lửa trong tâm hồn nhà thơ vẫn luôn tỏa sáng. Điều đáng quý là Thanh Hải đã không hề nói suông mà ông đã chứng minh một cách rất thuyết phục và cảm động bằng chính cuộc đời mình. Dù đã là những ngày cuối cùng trên giường bệnh nhưng nhà thơ không hề bi quan, chán nản hay đầu hàng số phận. Ông vẫn mở lòng để đón nhận những cái đẹp tươi sáng của cuộc đời. Mỗi lời thơ của ông vẫn tràn đầy tinh thần lạc quan và có sức đốt lửa, cổ vũ cho hàng triệu tâm hồn. Bài thơ này chính là món quà vô giá mà nhà thơ đã gửi lại cho chúng ta. Từ hình ảnh của mùa xuân đất nước, mùa xuân thời đại với những chồi tơ, lộc biếc trên vành lá ngụy trang của người ra trận cũng như trên nương mạ của người ra đồng được Thanh Hải nói đến trong bài thơ đã đốt lửa lên trong lòng chúng ta tình yêu và niềm tin vào con đường đi tươi sáng trong sự nghiệp cách mạng lớn lao của dân tộc. Nó khiến chúng ta càng thêm gắn bó hơn với chính cuộc đời này. Chắc chắn rằng bức thông điệp đáng chú ý nhất trong “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải chính là cái quan điểm sống cống hiến vô cùng cao đẹp. Điều này đã tạo nên những tác động hết sức tích cực trong suy nghĩ cũng như hành động của chúng ta. Sẽ không quá khi nói rằng những lời thơ mở lòng kia của một một nhà thơ trước lúc đi xa đã soi tỏ cho chúng ta một cách nhập thế khi đang băn khoăn tìm kiếm lẽ yêu đời. “Mùa xuân nho nhỏ” vì thế đã tạo nên một sự cộng hưởng giữa nhà thơ với độc giả. Tiếng lòng của Thanh Hải đã trở thành tiếng hát của muôn nhà, tiếng hát của lý tưởng sống cao đẹp. Cái tôi riêng của người nghệ sỹ rất chân thành, thiết tha ấy đã hòa vào cái ta chung của cuộc đời làm thức dậy trong mỗi con người mà đặc biệt là những con người trẻ tuổi ý thức về một lẽ sống đẹp. Rằng, không có gì đáng trân trọng hơn của một đời người khi chúng ta biết thành tâm cống hiến những gì đẹp nhất của chính bản thân cho dân tộc, cho đất nước, cho thời đại. Năm 1980, sau khi bài thơ này hoàn thành không bao lâu thì nhà thơ Thanh Hải đã lặng lẽ từ giã chúng ta để về với cõi vĩnh hằng. Chúng ta sẽ không còn được đọc thêm những bài thơ do chính ông sáng tác nữa. Tuy nhiên, dù vậy những vần thơ như “Mùa xuân nho nhỏ” cũng như tên tuổi của nhà thơ sẽ bất chấp mọi hệ lụy của thời gian mà sẽ sống mãi trong niềm mến yêu, trân trọng của các thế hệ độc giả Việt Nam. Đề 6: Phân tích bài thơ “Sang Thu” của Hữu Thỉnh Bài làm: Mùa thu luôn là một nguồn cảm hứng đầy hấp dẫn cho văn học mọi thời đại đã, đang và sẽ khai thác. Có rất nhiều những cây bút tên tuổi đã thành công với mảng đề tài này. Tuy nhiên, nổi bật trong đó, bài thơ “Sang thu” nổi tiếng của nhà thơ Hữu Thỉnh vẫn thực sự đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc hơn cả. Dẫu rằng cảm hứng về mùa thu trong thơ ca nói chung thường gợi buồn. Các nhà thơ vẫn hay nói nhiều về những chiếc lá vàng rơi, những cuộc chia tay sầu não… Nhưng khi đến với bài thơ này của Hữu Thỉnh thì mọi chuyện đã rất khác. Ông không hề đi trên cái lối mòn quen thuộc như thế. Dòng cảm xúc trữ tình trong Sang Thu vẫn
trong trẻo, thiết tha và tràn đầy sức sống. Chính vì điều này mà mỗi vần thơ của ông đã luôn có một sức cuốn hút mạnh mẽ đối với mọi thế hệ bạn đọc. " Bổng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió se Sương chùng chình qua ngõ Hình như thu đã về” Từ những lời thơ nhẹ nhàng mà đằm thắm như thế chúng ta có cảm giác như đang cùng với nhà thơ tham gia vào một trò chơi ú tim thật thú vị. Tín hiệu nghệ thuật mở đầu cho bài thơ là một điểm nhấn tuyệt đẹp của hình ảnh hương ổi. Đây chính là một phát hiện đầy sáng tạo. Bởi, thông thường khi nói về mùa thu các nhà thơ vẫn quen lựa chọn những hương vị đặc trưng như: hương cốm, hương lúa hay hương hoa sữa. Hình ảnh hương ổi của Hữu Thỉnh ở trên dù rất đỗi đơn sơ, thân thuộc trong cuộc sống nhưng khi đi vào thơ lại có một màu sắc rất tươi mới. Từ “Bổng” được dùng rất đắt vừa như một sự ngạc nhiên lại vừa như là một niềm chờ đợi. Nhà thơ đã tạo cho mình một cách thể hiện không hề trộn lẫn. Mùi vị của những quả ổi bói đầu mùa thoang thoảng, bay bay trong những làn gió nhẹ đã làm cho bức tranh chớm thu mang đậm một nét duyên thầm nơi vườn quê mộc mạc. Câu thơ như đưa người đọc trở về với một miền ký ức thật trong trẻo của một thời tuổi hoa, tuổi nụ. Nơi chúng ta không biết bao lần từng vắt vẻo cùng chúng bạn trên những cành ổi cao. Để rồi được tấm tắc cùng nhau trước những quả ổi bói đầu mùa vàng ươm nấp sau kẽ lá. Phàm là người Việt Nam, chẳng ai là không ấn tượng với cái món quà tặng kỳ diệu ấy của vườn quê. Lời thơ của Hữu Thỉnh dù không hề trau chuốt nhưng vẫn tạo nên những đánh thức thật tuyệt vời. Từ hương ổi đến với những làn gió nhẹ và tiếp nữa là sương. Đây đều là những tín hiệu rất đẹp, rất gợi cảm của mùa thu. Có điều tất cả chúng chỉ vừa mới chớm cho nên còn đang rất mỏng manh, mơ màng. Hư nhiều hơn là thực. Phải có một tâm hồn đặc biệt nhạy cảm và tinh tế thì nhà thơ mới có thể ghi bắt được. Và rồi, với một nhân hóa đặc sắc thông qua từ láy “chùng chình”, nhà thơ đã làm cho những giọt sương kia bổng trở nên rất có tâm hồn. Sương đi qua ngõ mà còn như ngoái đầu lại để giục giã, để đợi chờ và khiến cho lòng người có biết bao thổn thức..! Đó cũng là lúc để nhà thơ phải cất lên lời reo khe khẻ “Hình như thu đã về” bằng một tình thái đầy gơi cảm. Ông đã gợi lên ở tất cả chúng ta một niềm vui rất trong sáng trước thời khắc chớm thu hết sức ấn tượng đất trời. Đến với khổ thơ thứ hai: Sông được lúc dềnh dàng Chim bắt đầu vội vã Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu”. mọi thứ đã bắt đầu trở nên rõ ràng hơn. Bầu trời, cảnh vật dường như đã rộng hơn, cao hơn, xa hơn nhưng vẫn rất thơ, rất lãng mạn và đáng yêu. Các hình ảnh được liệt kê đều có tính chọn lọc rất cao. Đó là con sông dềnh dàng chở nước mùa thu - một dòng chảy khoan thai, êm đềm, lững lờ như nhớ như thương soi rõ cả bóng mây trời. Tiếp đó là những cánh chim bắt đầu “vội vã”. Phải chăng vì sự nhạy cảm đặc biệt của
mình, đàn chim kia đã cảm nhận được tiết trời đang dần se lạnh nên đã hối hả rủ nhau bay về phương Nam tránh rét hay là chúng lại đang rủ nhau về vớimột mùa hẹn hò, một mùa uyên ương kết tổ, một mùa dựng xây hạnh phúc. Chính những lựa chọn này đã làm cho không gian mùa thu đang về bừng lên một sức sống vô cùng mãnh liệt. Tuy nhiên, nổi bật hơn cả trong đó là vẻ đẹp của hai câu thơ : "Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu”. Sẽ không quá khi nói rằng đây là một tứ thơ xuất thần của Hữu Thỉnh. Câu thơ hay cả nghĩa tả thực lẫn sự liên tưởng của nó. Đó là đám mây mùa hạ nhưng nửa bên kia của nó lại đã là mùa thu. Một câu thơ đầy giá trị tạo hình đã nói lên một cách chính xác và gợi cảm về thời khắc giao mùa. Nó cũng cho thấy nhà thơ như đang phân thân tâm hồn mình ra làm hai nửa. Nửa bên này còn dùng dằng tiếc nuối vì những giọt nắng cuối cùng của mùa hạ đang qua nhưng nửa bên kia thì lại bâng khuâng xao xuyến vì những cái đẹp không thể cưỡng lại của chớm thu đang về. Đây thực sự là một cách nói có khả năng lay động đến tận cùng thế giới của cảm xúc. Chúng ta, dù có vô cảm đến mấy nhưng khi đọc những vần thơ này của Hữu Thỉnh thì cũng đều không thể không luyến ái đối với mùa thu Trong khổ thơ còn lại của bài thơ, nếu như đọc vội chúng ta vẫn nghĩ rằng đây cũng chỉ là những cảm xúc thuần túy về mùa thu. Một loạt những hiện tượng tự nhiên nắng, mưa, sấm đã được liệt kê. Mùa hạ vừa mới đi qua cho nên dư âm của nó vẫn còn hiện hữu. Nắng thì vẫn còn rất nhiều, mưa dù đã vơi dần nhưng chưa dứt hẳn và ngay cả sấm nữa cũng vẫn đang còn. Có điều, tất cả chúng đã không hề làm cho “hàng cây đứng tuổi” bị cảm thấy bất ngờ nữa. Đây là một hiện tượng của tự nhiên rất dễ hiểu. “Hàng cây đứng tuổi ” bền bỉ, dẻo dai, kiên cường chính là hình ảnh của những cây cổ thụ lâu năm đã dạn dày với mọi tác động của mưa nắng, của thời gian. Vì có một sức sống mãnh liệt, một bản lĩnh phi thường như thế cho nên đứng trước những biến động của đất trời lúc thu sang chúng đã trở nên vô cùng bình thản. Tự thân cái đẹp giản dị như thế cũng đủ để khiến chúng ta hết sức ngưỡng mộ. Tuy nhiên, khi đọc kỹ những lời thơ này của Hữu Thỉnh thì chúng ta thấy vẫn còn đó rất nhiều điều đáng để khám phá. Việc liệt kê lựa chọn các hình ảnh nói trên của nhà thơ là hết sức độc đáo. Ông không dừng lại với tầng nghĩa đen như chúng ta vừa phân tích mà từ các hình ảnh ấy, thông qua cách nói ẩn dụ ông đã thể hiện những đúc kết, những suy nghiệm rất sâu sắc về mùa Thu, về cuộc đời. Nếu như nắng, mưa, sấm lần lượt là những ẩn dụ đặc sắc tượng trưng cho tất cả những gian khổ, thử thách, khó khăn, bất trắc mà chúng ta phải đối diện thì hàng cây đứng tuổi lại là hình ảnh khác nói về những con người từng trải. Cuộc sống đã tôi luyện họ trở nên cứng cáp hơn, vững vàng hơn trước những thăng trầm, dâu bể. Bởi vậy, đối với những con người này họ sẽ luôn luôn bình thản trước mọi phong ba bão táp của cuộc đời. Đó là một giá trị đích thực được tích lũy mà chúng ta cần trân trọng. Thơ hay phải chăng là vì nó đã biết cách mang đến cho tâm hồn người đọc những cảm xúc đồng điệu. Cảm ơn rất nhiều bởi bài thơ này của nhà thơ Hữu Thỉnh. Ông đã khơi dậy, đã bồi đắp thêm trong tất cả chúng ta những tình yêu trong sáng, thiết tha về mùa thu, về quê hương đất nước cũng như về cuộc đời.
Đề 7: Nêu cảm nghĩ của em về đoạn thơ sau: “Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ. Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân ... Bác nằm trong giấc ngủ bình yên Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền Vẫn biết trời xanh là mãi mãi Mà sao nghe nhói ở trong tim!” (Trích “Viếng lăng Bác” - Viễn Phương - Ngữ Văn 9 - Tập II) Bài làm: Trong rừng thơ khóc Bác của cả dân tộc khi Người qua đời, nhà thơ Viễn Phương cũng đã góp mặt vào đó bằng một bài thơ “Viếng lăng Bác” hết sức xúc động. Bài thơ là một dòng cảm xúc trữ tình dồn nén rất nhiều tình cảm chân thành, tha thiết của một người con Miền Nam đối với Bác Hồ kính yêu. Tuy nhiên, nổi bật trong đó, hai khổ thơ sau đây vẫn để lại cho độc giả nhiều ấn tượng sâu sắc hơn cả “Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ. Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân ... Bác nằm trong giấc ngủ bình yên Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền Vẫn biết trời xanh là mãi mãi Mà sao nghe nhói ở trong tim!” Trước hết phải thấy rằng, bài thơ nói trên được ra đời trong một hoàn cảnh rất đặc biệt - một hoàn cảnh tràn ngập những cảm xúc rất mãnh liệt của nhà thơ. Khi Bác qua đời - năm 1969 - một cây đại thụ ngã xuống làm trống vắng cả một khoảng trời, đã để lại niềm tiếc thương vô hạn cho cả dân tộc. Nhưng lúc ấy, vì chiến tranh giặc giã mà hàng triệu đồng bào Miền Nam đã không thể ra Bắc viếng Bác. Đây là điều để lại niềm day dứt trăn trở rất lớn trong lòng Miền Nam. Phải đợi đến khi nước nhà thống nhất thì những niềm khao khao khát kia mới có điều kiện để trở thành hiện thực.Và nhà thơ Viễn Phương cũng chính là một trong những người con Miền Nam như thế đã đến bên lăng Bác Hồ coi như là để thực hiện nghĩa vụ về mặt tình cảm của một đứa con xa đối với vị cha già của dân tộc. Cái đạo lý giản dị và tự nhiên ấy càng thôi thúc cho bước chân của nhà thơ ... Trong nhận thức của tất cả chúng ta thì Bác Hồ đã là vô cùng vĩ đại. Tuy nhiên, khi được thực sự đứng bên Người trong không khí trang nghiêm của Lăng thì những cảm nhận ấy càng trở nên rất rõ ràng. Nhà thơ Viễn phương đã thể hiện điều này bằng những hình ảnh thơ đầy gợi cảm.
Trong khổ thơ thứ nhất, điệp ngữ "ngày ngày” được dùng như một sự khẳng định về sức sống mãnh liệt của hình tượng Bác Hồ. Hình ảnh "mặt trời” là một ẩn dụ đầy sức gợi cho ta liên tưởng rằng Bác của chúng ta luôn tỏa rạng ánh hào quang bất tử như vầng mặt trời trên cao. Bác là hiện thân cho ánh sáng của lý tưởng đưa dân tộc ta vượt qua đêm đen nô lệ. Cùng với đó là hình ảnh "dòng người đi trong thương nhớ” cũng được dùng như một ẩn dụ vô cùng độc đáo. Nhìn dòng người lặng lẽ nối đuôi nhau ngày ngày vào Lăng viếng Bác nhà thơ đã nảy sinh một ý thơ rất táo bạo. Rằng, sự hiện diện của họ đã chứng tỏ một sức sống lớn lao của hình tượng Bác Hồ kính yêu trong lòng dân tộc. Tấm lòng thành kính của dòng người bất tận ấy đã khéo léo kết thành tràng hoa dâng, kính cẩn dâng lên cuộc sống bảy mươi chín mùa xuân bất tử của Người. Trong khổ thơ thứ hai thì điểm nhấn của nó chính là hình ảnh vầng trăng. Đó lại tiếp tục là một ẩn dụ rất tài tình của nhà thơ. Vầng trăng ấy là tượng trưng cho một cái đẹp vô cùng tinh khiết. Nó khiến chúng ta nghĩ tới trái tim nhân ái bao la của Người. Một trái tim cao đẹp biết bao vì lẽ sống "Hy sinh tất cả chỉ quên mình”. Cũng lại là điều mà chúng ta càng thêm bội phần khâm phục và biết ơn sâu sắc đối với Bác Hồ kính yêu. Khổ thơ đã khép lại bằng một câu thơ rất cảm động “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi - Mà sao nghe nhói ở trong tim”. Câu thơ đã nói lên rất thật nỗi lòng của cả dân tộc. Dù vẫn biết rằng Bác Hồ sẽ mãi mãi là cái đẹp vĩnh hằng trước thiên thu bất tử. Nhưng dù sao sự ra đi vĩnh viễn của Người cũng là một sự thật không thể nào thay đổi. Bởi thế, niềm tiếc thương chân thành, tha thiết của tất cả chúng ta hướng về Người cũng là những tấm lòng thành rất đáng trân trọng. Có thể nói đây là hai khổ thơ đáng đọc nhất của cả bài thơ. Dường như, tác giả Viễn Phương đã nói hộ những cảm nhận chân thành, sâu sắc của tất cả nhân dân Việt Nam đối với vị lãnh tụ kính yêu của mình. Đề 8: Đoạn thơ sau là một áng trữ tình để lại sự lắng đọng sâu sắc nhất cho độc giả trong bài thơ “Bếp lửa” của nhà thơ Bằng Việt. Em hãy thể hiện điều này! "Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ Ôi kỳ lạ và thiêng liêng - Bếp lửa!” (“Bếp lửa” - Bằng Việt - Ngữ Văn 9 - Tập I)
Bài làm : Bằng Việt là một nhà thơ có sở trường về mảng đề tài ước mơ và kỷ niệm. Đó là điều đã giúp cho những trang viết của ông rất dễ đi vào lòng người để từ đó có được những sự đồng điệu. Bài thơ Bếp lửa chính là một thành công tiêu biểu khẳng định điều này. Tuy nhiên, nổi bật trong đó, đoạn thơ độc đáo nói trên vẫn để lại trong mỗi chúng ta nhiều ấn tượng sâu sắc hơn cả.
Trước hết cần phải biết rằng đây là một dòng cảm xúc trữ tình đi từ quá khứ đến hiện tại, từ kỷ niệm đến suy ngẫm. Trong đoạn thơ này thông qua sự vận dụng kết hợp tài tình giữa biểu cảm và nghị luận mà tác giả Bằng Việt đã làm nổi bật những sự đúc kết, chiêm nghiệm, suy ngẫm hết sức sâu sắc, chân thành của nhân vật trữ tình người cháu đối với tình cảm thiêng liêng, cao quý của bà cũng như sự kỳ diệu của hình ảnh bếp lửa. Tất cả đều rất đỗi đơn sơ, mộc mạc nhưng qua cách nói của nhà thơ thì mọi thứ lại bổng trở nên lung linh một vẻ đẹp huyền thoại. Ông đã mang đến cho người đọc những niềm rung động hết sức ấn tượng từ những điều tưởng như rất giản dị của cuộc sống. Đã có một quãng thời gian dài sâu tình, nặng nghĩa mà hai bà cháu chia sẻ cùng nhau. Nhưng, chắc chắn khi còn ở bên bà, vì quá nhỏ dại mà người cháu chưa thấm thía hết những điều này. Chỉ khi đã đủ khôn, đủ lớn thì anh ta mới cảm nhận được những cái đẹp tiềm tàng kia của kỷ niệm. Tuy nhiên , đó lại là lúc mà cháu đã ở rất xa bà - xa cả thời gian lẫn không gian. Cũng chính vì điều này mà những tri ân của anh ta càng cồn cào, da diết, càng động thấu tới tận cõi tâm linh của con người. Dường như nó cũng thức dậy trong chúng ta một cái gì đó thật thiêng liêng khi lòng mình hướng về quá khứ mà khó diễn tả hết bằng lời. Trước hết là những thấu hiểu trong niềm cảm thông, yêu thương và biết ơn vô hạn đối với bà của người cháu. Bà đã trải qua một cuộc đời đầy gian lao, cực nhọc. Hai chữ "Lận đận” đã nói lên tất cả. Người đọc đều cảm nhận được ở đó một nỗi ngậm ngùi sâu lắng. Nó làm cho giọng thơ của Bằng Việt bổng nhiên chùng xuống. Tuy nhiên, cũng chính vì vậy mà càng làm cho mạch cảm xúc trữ tình thể hiện rõ nét những hồi ức thiết tha. Thương bà gian nan, cơ cực bao nhiêu thì người cháu lại khâm phục bấy nhiêu đối với những gì mà bà đã làm được trong cuộc đời. Đó là những sự cần cù chịu thương chịu khó đã trở thành bản chất của bà:"Mấy chục năm rồi đến tận bấy giờ - Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm”. Dường như, trong cái bóng tối của cuộc đời người đàn bà nhà quê lam lũ với một giai đoạn lịch sử đầy chiến tranh giặc giã ấy bổng thấy lấp lánh những ánh sáng nhân cách thật tuyệt vời. Hiểu thấu những điều này, người cháu đã dành cho bà của mình rất nhiều sự kính trọng. Điểm nhấn trong đoạn thơ này chính là dấu ấn của điệp động từ “nhóm”. Nó đã làm nổi bật lên trong từng vần thơ của Bằng Việt sự kỳ diệu của hình ảnh bếp lửa. Và, đương nhiên, đồng hiện lên ở đó là những cái đẹp của của hình tượng người bà. Chính bà, với những phẩm chất tuyệt vời của người phụ nữ Việt Nam truyền thống đã làm cho cái bếp lửa đơn sơ bổng linh linh vẻ đẹp huyền thoại. Cách nói " ấp iu nồng đượm”đã được sử dụng như một điệp khúc của bài thơ, gợi cho chúng ta liên tưởng tới sự cẩn trọng, chi chút từ đôi bàn tay bà nhóm lửa. Để rồi, từ bếp lửa một sự ấm áp đã lan tỏa rất ngọt ngào. Đó không chỉ là sự nồng đượm hiểu theo nghĩa đen mà còn là sự nồng đượm của hơi ấm tình người. Và, cũng từ cái bếp lửa ấy của bà, không biết bao nhiêu cái đẹp đã hình thành. Rất nhiều những hình ảnh liệt kê, ẩn dụ được nhà thơ huy động để thể hiện điều đó. Rằng, những sản vật quen thuộc của quê nhà, qua bếp lửa đã trở thành những món ăn đầy tình, đầy nghĩa."Khoai sắn” có thể trở nên "ngọt bùi” hơn, "nồi xôi gạo mới” có thể trở thành nhịp cầu để nối liền những niềm vui bình dị và đặc biệt là bếp lửa của bà lại có thể
"nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”. Thế thì "kỳ lạ” và "thiêng liêng" quá còn gì. Cách nói đổi trật tự cú pháp trong câu thơ cuối cùng đã làm cho đoạn thơ khép lại bằng một đúc kết đầy sức thuyết phục. Đó là cái “kỳ lạ” về sự tồn tại phi thường của bếp lửa. Dẫu đối diện với muôn vàn gian khó của đời sống chiến tranh bà vẫn làm cho bếp lửa của hai bà cháu sáng chiều đỏ lửa. Tất cả khẳng định cho một sức sống thật tuyệt vời. Đó là cái sự “thiêng liêng” vì bếp lửa chính là cái nôi đầu tiên làm nên bao điều ân nghĩa trong cuộc đời. Không chỉ nuôi sống con người mà còn nuôi dưỡng được cả tâm hồn của họ. “Bếp lửa” của Bằng Việt có thể chưa phải là một kiệt tác nhưng rõ ràng qua những vần thơ của mình nhà thơ đã biết cách đánh thức trong tất cả tâm hồn người đọc những điều bình dị mà rất đỗi thiêng liêng của cuộc sống. Những ký ức thân thương của tuổi thơ vẫn luôn đủ sức tỏa sáng và có thể nâng đỡ chúng ta suốt những năm tháng dài rộng của cuộc đời. Đề 5: Trình bày cảm nhận về bai thơ “Nói với con” của nhà thơ Y Phương (Ngữ văn 9 – Tập II) Bài làm: Thời gian là con thưyền vô hình chở những gì từ bến bờ hiện tại đi vào quá khứ. Và trong cái quá khứ thăm thẳm kia nó sẽ đồng nghĩa với lãng quên. Song có những điều lớp bụi thời gian hay những dâu bể của cuộc đời chẳng đủ sức để làm phai nhạt. Ấy là những lời dặn dò ân cần của Cha – người mà chúng ta hằng thương yêu kính trọng nhất, nói với ta trước khi ta lên đường. Và những lời dặn dò tâm tình ấy luôn đốt lửa trong lòng ta, soi cho ta bước tiếp quãng đường đời. Bài thơ “Nói với con” của Y Phương là một lời tâm tình như thế Đọc bài thơ trên ta thấy lòng mình tĩnh lại. Cái Tâm như trở về bản tính ban sơ trong suốt của một thời thơ ấu. Chỉ với 28 câu thơ tự do, với cách biểu cảm chân tình mộc mạc, bài thơ có sức lay động lòng người thật mãnh liệt. Nó như bông hoa rừng tinh khiết, trắng trong, ngây thơ phả hương theo gió, chẳng thể ngờ rằng cái hương rừng hoang dã ấy đủ sức làm trễ nải bước chân bao kẻ lãng du, đủ sức làm đắm say bao tâm hồn độc giả và mãi mời gọi sự tri âm. Quả thật, ngay từ bốn câu thơ đầu tiên, tác giả đã vẽ ra một bức tranh về gia đình hạnh phúc: một đôi vợ chồng trẻ, một đứa con thơ đầu lòng: Chân phải bước tới cha Chân trái bước tới mẹ Một bước chạm tiếng nói Hai bước tới tiếng cười Ngôi nhà nhỏ tràn ngập tiếng nói cười của một đứa bé đang chập chững biết đi, đang bi bô tập nói. Động từ “Bước tới” được nhắc lại hai lần, kết hợp với động từ “chạm” với các từ “phải, trái” giúp ta hình dung cảnh em bé lúc thì sà vào lòng mẹ, lúc lại níu lấy tay cha. Không khí gia đình thật đầm ấm, hạnh phúc. Ở đó em bé được yêu thương, được chăm sóc và che chở. Bốn câu thơ năm chữ vang lên như một lời khẳng định thiết tha: gia đình là cái nôi nuôi dưỡng tâm hồn của mỗi người. Từ tình cảm gia đình, nhà thơ chuyển sang tình làng xóm quê hương.
Người đồng mình yêu lắm con ơi Đan lờ cài nan hoa Vách nhà ken câu hát Rừng cho hoa Con đường cho những tấm lòng. Nhà thơ yêu lắm mảnh đất này. Ông tự hào biết bao nhiêu về con người nơi đây, những con người với công việc lao động giản dị, vất vả hàng ngày, giờ trong mắt nhà thơ hiện lên như những nghệ nhân tài hoa, đang sáng tạo nên những tác phẩm nghệ thuật cho đời: đan lờ đánh cá để phục vụ cuộc sống, dưới bàn tay điệu nghệ của các chàng trai người Tày, những nan trúc nan tre trơ thành những nan hoa, vách nhà không chỉ ken bằng gỗ, mà ken bằng câu hát. Những câu hát Then, hát Lượn, hát Sli được cất lên rộn rã khắp núi rừng. Tiếng hát ấy bay qua chín ngọn núi, mười dòng sông, bay tới tận trời cao để gọi mùa về, để xui cho đôi lứa yêu nhau và tiếng hát ấy mãi ngàn năm vi vút với gió rừng. Trong con mắt thi nhân, thiên nhiên non nước Cao Bằng hiện ra thuần hậu, dung chứa và hoà hợp biết bao. Rừng núi thật thơ mộng, trữ tình. Giờ đây rừng không chỉ cho ta những lâm sản quý giá mà còn cho “Hoa” để toả sắc ban hương tô điểm cho cuộc đời. Con đường cũng không chỉ để lên nương, lên rẫy, để đi vào thung vào rừng, đi ra sông ra suối, đi tới mọi chân trời, mọi miền của đất nước. Mà con đường ấy là con đường tình nghĩa mà bao thế hệ đã đi qua: Ghập ghềnh xuống biển lên non Con đường tình nghĩa ai còn nhớ chăng? (Ca dao) Đang nói với con tác giả bỗng suy tư về cội nguồn hạnh phúc: Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới . Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời “Nhớ về ngày cưới” phải chăng là một cách giữ lửa cho tình yêu để tình yêu trường tồn mãi mãi? Người đồng mình thương lắm con ơi. Câu thơ được lặp lại nhân lên gấp bội sự thiết tha. Nhưng sắc thái tình cảm thì đã khác. Ở khổ thơ trên là “Yêu lắm con ơi”, còn ở khổ thơ dưới là “thương lắm con ơi”. Bởi người đồng mình cần cù, khéo léo, tài hoa trong lao động nhưng vẫn còn chịu nhiều khó khăn vất vả. Trong gian lao vất vả ấy “người đồng mình” đã rèn luyện, đã hun đúc chí khí để nâng cao thế đứng của mình. Cao đo nỗi buồn Xa nuôi ý chí Câu thơ bốn chữ xen vào đẩy giọng thơ vút lên mạnh mẽ. “Sống” ở đây Y Phương đã đẩy lên một tầm cao mới: sống là thử thách, là gian khổ, là sự bứt phá vươn lên để chạy đua với cái “cao”, với cái “xa” của thời gian, không gian vũ trụ. Trong thử thách gian khó ấy, ý chí con người được thể hiện, nhân cách con người được bộc lộ: Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh Sống trong thung không chê thung nghèo đói Sống như sông như suối Lên thác xuống ghềnh Không lo cực nhọc Những hình ảnh ẩn dụ, so sánh, những thành ngữ dân gian được sử dụng nhuần nhuyễn, kết hợp với điệp từ “sống” và điệp từ “không” vang lên ba lần như dội mạnh mẽ vào lòng con thơ những mong muốn cháy bỏng của người cha. Cha mong muốn con không chê bai quê hương, không quay mặt lại với quê hương dù quê hương còn nghèo đói. Đó là lối sống thuỷ chung tình nghĩa. Cha mong con hãy yêu lấy “người đồng mình” bởi họ là những con người hồn nhiên, mạnh mẽ, mộc mạc “như sông như suối” nhưng rất giàu chí khí và niềm tin “lên thác, xuống ghềnh không lo cực nhọc” không bao giờ chịu khuất phục trước khó khăn. Họ luôn lao động sáng tạo đế xây dựng quê hương. Con hãy soi vào họ để thấy được chính mình: Người đồng mình thô sơ da thịt Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương Còn quê hương thì làm phong tục Cũng như người Kinh “chân đất lưng trần”, “ăn chắc mặc bền”, “người đồng mình” tuy thô sơ da thịt với những áo chàm, khăn piêu…Nhưng họ không nhỏ bé về tâm hồn, ý chí, nghị lực. Đặc biệt là khát vọng xây dựng quê hương luôn cháy lên trong lòng họ. Họ xây dựng quê hương bằng tình yêu, bằng sức lực và sự bền bỉ dẻo dai của chính mình. Họ sáng tạo và lưu truyền những phong tục, tập quán tốt đẹp của riêng mình. Để rồi từ đó người cha mong muốn con biết tự hào về truyền thống quê hương, dặn dò con cần tự tin, vững bước trên đường đời. Vì thế, lời cuối “Nói với con” càng trở nên thấm thía và lay động lòng người hơn: Con ơi tuy thô sơ da thịt Lên đường Không bao giờ nhỏ bé được Nghe con Cuộc đời này quá rộng lớn, cha không thể đi cùng con mãi được. Nhưng dù ở đâu, lúc nào và làm gì, cha cũng luôn dõi theo bóng con đi. Khi “Lên đường” không bao giờ được sống tầm thường, sống “nhỏ bé” trước thiên hạ, không được đánh mất mình, dù cho biển đời đầy sóng gió bão giông. Con phải biết giữ lấy và phát huy cốt cách, phẩm giá tốt đẹp của “người đồng mình” nghe con. Từ chỗ “không có ai nhỏ bé” nhà thơ phát triển lên thành “không bao giờ nhỏ bé”, đó là một sự khẳng định dứt khoát, một sự kỳ vọng lớn lao vào tương lai con mình, vào thế hệ trẻ. Câu thơ cảm thán “Nghe con” được đặt cuối bài như một nốt nhấn về mặt cảm xúc. Nó có nhiệm vụ kết thúc bài thơ song lại tạo nên chiều sâu ám ảnh trong lòng người đọc. “Nói với con” thực sự là một hành trang quý giá người cha dành tặng cho con mình. Hành trang ấy được người cha chuẩn bị với tất cả tấm lòng yêu thương và
niềm hy vọng. Hành trang ấy được trải dài theo thời gian nghệ thuật trong bài thơ thứ thời gian bảng lảng khói sương của văn hoá dân gian người Tày nhưng vừa thấm đẫm chất trữ tình hiện đại: lúc còn nhỏ – lúc đang lớn và khi con trưởng thành. Khi con còn bé, người cha nói với con về tình cảm gia đình, tình làng nghĩa xóm, về cội nguồn. Ông gieo vào tâm hồn con tình yêu quê hương, xứ sở. Khi con đã lớn, sắp sửa “lên đường” thì người cha ấy lại nói với con về nghị lực, về trách nhiệm, về lẽ sống. Đó là một ứng xử nghệ thuật nhất quán trong hồn thơ Y Phương.Nhưng điều làm nên men say thi tứ cho bài thơ lại không phải là phép cộng của các thủ pháp nghệ thuật đơn thuần ấy mà đó là cảm xúc mãnh liệt của tình phụ tử. Chính độ sâu sắc của tình cảm đã hóa vào chữ nghĩa tạo nên sức sống cho bài thơ.“Nói với con” là khúc tâm tình của người cha còn mãi với thời gian, năm tháng. Chắc hẳn trong chúng ta ai cũng thuộc vài câu dân ca Cao Bằng: Nàng về giã gạo ba giăng. Để anh ghánh nước Cao Bằng về ngâm. Nước Cao Bằng ngâm thì trắng gạo… Bài thơ “Nói với con” của Y Phương phải chăng là “Một gáo nước Cao Bằng có thể làm trong, làm mát tâm hồn mỗi chúng ta”.(Tạ Đức Hiền) Đề 6: Phân tích đoạn thơ sau và cho biết suy nghĩ của em về cách ứng xử của nhân vật trữ tình đối với vầng trăng quá khứ: “Từ hồi về thành phố quen ánh điện cửa gương vầng trăng đi qua ngõ như người dưng qua đường” (“Ánh trăng” – Nguyễn Duy – Ngữ văn 9 tập I – Trang 156) Bài làm: Với tất cả những trải nghiệm của một nhà thơ từng cầm súng và cầm bút đi qua chiến tranh, Nguyễn Duy đã viết nên bài thơ “Ánh trăng” không lâu sau ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước. Bài thơ là một hồi chuông cảnh tỉnh đầy xúc động cho lương tri của thời đại về cách ứng xử đối với quá khứ ân nghĩa, thủy chung. Tuy nhiên, có thể nói khi đưa ra một thái độ rất đáng lên án của con người đương thời trong khổ thơ: “Từ hồi về thành phố quen ánh điện cửa gương vầng trăng đi qua ngõ như người dưng qua đường” tác giả của bài thơ này đã khiến cho mọi thế hệ độc giả không thể không day dứt, và suy ngẫm về nhân tình thế thái, về đạo lý làm người. Trong cách nói ẩn dụ rất độc đáo của mình nhà thơ đã mượn hình ảnh vầng trăng làm nên một biểu tượng hết sức đẹp đẽ của quá khứ. Cái vầng trăng ấy không những đã cùng với con người có những mối giao tình thắm thiết trong suốt chiều dài của ký ức tuổi thơ như “với đồng, với sông rồi với bể” mà trong những tháng năm gian khổ chiến đấu trong rừng thì vầng trăng ấy cũng là một chổ nương tựa đầy ân nghĩa. Chính vì những bồi đắp của những kỷ niệm tình sâu nghĩa nặng ấy mà con người với ánh trăng quá khứ đã kết giao thành đôi “tri kỷ”. Cứ tưởng, dù có trải qua
bao nhiêu thăng trầm dâu bể thì con người cũng phải nâng niu, trân trọng những tháng năm ấy như chính tròng mắt con ngươi của mình. Thế nhưng, thật đáng thất vọng biết bao “Từ hồi về thành phố” khi đến với một cuộc sống mới đầy tiện nghi, khi người ta đã “quen ánh điện cửa gương” nơi phồn hoa đô hội thì họ đã sớm lãng quên cái hình ảnh cuộc sống cháo mẹ rau măng, rừng sâu địch hậu gian khổ thiếu thốn đầy mất mát hy sinh nhưng cũng vô cùng ân nghĩa hôm nào. Trong câu thơ này nhà thơ Nguyễn Duy đã rất tinh tế trong việc sự dụng hình ảnh ẩn dụ “ánh điện cửa gương” để gợi liên tưởng tới bức tranh của một cuộc sống mới đầy cám dỗ và hấp dẫn. Thực ra, việc con người háo hức đến với một cuộc sống mới ngày càng được cải thiện hơn ấy cũng là chuyện bình thường. Sau khi đất nước hòa bình thống nhất, việc bắt tay nhau để cùng từng bước hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng và phát triển kinh tế là một việc nên làm. Phải có cái nhân là “Thái bình tu trí lực” thì mới có cái quả là “Vạn cổ thử giang san”. Đó chính là quy luật của sự phát triển. Không ai chung thủy với quá khứ bằng cái cách là ôm mãi những đói nghèo, lạc hậu. Nhưng điều đáng trách của con người ở đây là cái cách mà họ ứng xử với quá khứ. Không thể tưởng tượng nổi có bao nhiêu người vừa đi qua những năm tháng đầy mưa bom bão đạn; họ vừa là người trực tiếp trải qua cũng là người trực tiếp chứng kiến những hy sinh mất mát lớn lao của cả dân tộc; chính họ cũng là người đã từng được chia sẻ bao nhiêu tình cảm đồng bào, đồng chí hết sức ân nghĩa, thủy chung vậy mà họ lại có thể sớm ngoảnh mặt quay đầu khi “vầng trăng đi qua ngõ”chỉ hờ hững xem “như người dưng qua đường”. Đây lại cũng là một cách nói ẩn dụ nữa của nhà thơ khiến độc giả phải giật mình khi liên tưởng tới một lối sống thấp hèn, vị kỷ vẫn dễ thường xảy ra với tất cả mọi người mà không dễ gì chúng ta có thể dễ dàng nhìn thấy. Còn nhớ, chính phó thủ tướng Vũ Khoan trong bài viết “Chuẩn bị hành trang vào thế kỷ mới” cũng đã khẳng định con người Việt Nam vốn có một mối quan hệ cộng đồng rất tuyệt vời trong đời sống chiến tranh nhưng rất tiếc là tình cảm đó lại không hề được duy trì và phát triển một cách tích cực trong cuộc sống hòa bình. Việc chạy theo tiếng gọi của cuộc sống vật chất đã khiến con người trở nên nhỏ bé, tầm thường từ khi nào mà chính họ cũng không hề nhận thấy. Thái độ xem vầng trăng quá khứ chỉ như người dưng qua đường ấy quả là hết sức vô tâm, bạc bẽo… Cái hồi chuông mà nhà thơ đã rung lên cảnh tỉnh ấy quả là vô cùng hữu ích. Bất giác, không ai bảo ai, chúng ta đều phải soi lại chính mình. Trong cuộc đời của chúng ta luôn luôn có không biết bao nhiêu những “ánh trăng” như thế khiến chúng ta phải tri ân. Chưa kể tới công lao trời biển của các thế hệ cha anh đã đổ máu xuống để có được màu xanh trên bầu trời tổ quốc như chúng ta ngày hôm nay mà gần hơn là bao nhiêu công ơn của ông bà, cha mẹ, thầy cô… Đó luôn luôn là những ân nghĩa thiêng liêng mà chúng ta có bổn phận phải ghi khắc trong lòng. Chúng ta hãy học tập cách ứng xử cao thượng của nhân vật trữ tình người cháu trong bài thơ “Bếp lửa” nổi tiếng của nhà thơ Bằng Việt. Dù anh ta đang đối diện với một bức tranh cuộc sống vô cùng văn minh, hiện đại, sang trọng, tiện nghi với “khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả” khác xa với những ngày tháng cơ cực “cháu cùng bà nhóm lửa” “chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu – Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay” ... nhưng trong sâu thẳm trái tim của đứa con xa xứ ấy vẫn luôn nguyên vẹn hình ảnh người bà kính yêu
và cái bếp lửa đơn sơ nhưng kỳ diệu của bà. Anh vẫn đã “Chẳng lúc nào quên nhắc nhở - Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?” Có lẽ, khi đọc bài thơ nói chung và khổ thơ này nói riêng chúng ta phải thật sự trân trọng sự thức tỉnh của tác giả Nguyễn Duy. Câu chuyện về thái độ ứng xử với quá khứ mà nhà thơ đề cập ở đây có thể nói là luôn luôn nóng hổi tính thời sự. Đây chính là một bài học nhân sinh có giá trị muôn đời. Đề 7:Nêu suy nghĩ của em về vẻ đẹp trong tư thế hiên ngang của người chiến sĩ lái xe trong hai khổ thơ sau: “Những chiếc xe từ trong bom rơi, Đã về đây họp thành tiểu đội. Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới, Bắt tay qua cữa kính vỡ rồi. Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy Võng mắc chông chênh đường xe chạy Lại đi, lại đi trời xanh thêm” (“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” – Phạm Tiến Duật – Ngữ Văn 9 – TậpI ) Bài làm Phạm Tiến Duật là một nhà thơ trẻ đầy tài năng trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thơ của ông viết về những năm tháng Trường Sơn khói lửa được coi là những bản tình ca hay nhất của thời đại . “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một trong những thành công tiêu biểu khẳng định điều này. Tuy nhiên, vẻ đẹp trong tư thế hiêng của người chiến sĩ lái xe được thể hiện một cách tập trung trong hai khổ thơ trên vẫn để lại cho người đọc những ấn tượng sâu sắc hơn cả. Viết về con đường Trường Sơn của những năm tháng đau thương mà hào hùng của lịch sử dân tộc nhưng Phạm Tiến Duật đã không hề chủ trương kể đếm hiện thực, ông chỉ tập trung khai thác cái chất thơ của hiện thực ấy. Cụ thể ở đây, mở đầu khổ thơ thứ nhất ông đã viết: “Những chiếc xe từ trong bom rơi - Đã về đây họp thành tiểu đội” Đó là những chiếc xe đi trong mưa bom bão đạn trên con đường Trường Sơn để làm nhiệm vụ chi viện cho chiến trường miền Nam. Đế quốc Mỹ đã điên cuồng trút xuống đây hàng ngàn tấn bom đạn kể cả chất độc màu da cam hòng cắt đứt con đường giao thông huyết mạch này của dân tộc. Bất kỳ ai trong chúng ta cũng có thể hình dung được tính chất cực kỳ khốc liệt của nó. Thế nhưng, thật kỳ lạ, khi viết về những điều này thơ của Phạm Tiến Duật vẫn nhẹ như không. Cứ như không hề có chuyện gì xảy ra. Là cũng bởi nhà thơ đã phát hiện ra một tư thế tuyệt đẹp của người chiến sĩ lái xe vút lên trên hoàn cảnh ấy. Họ đã không hề bị gục ngã, không hề bị chia cắt và càng khộng hề bị khuất phục trước bom đạn hủy diệt của kẻ thù. Ngược lại, họ đã vượt qua tất cả để “về đây họp thành tiểu đội”. Đó chính là một sự tập hợp mang đầy tính huyền thoại của những người chiến thắng. Nhà thơ, với sức sáng tạo độc đáo của mình đã khắc tạc vào trong lịch sử văn học dân tộc một hình tượng nghệ thuật bất hủ. Đó là hình tượng tiểu đội xe không kính. Và rồi, chính từ những chiếc xe như thế, nhà thơ tiếp tục có những khám phá vô cùng độc đáo về vẻ đẹp của những người anh hùng ngồi trong buồng lái . Họ gặp nhau trên đường hành quân , không cần mở ca bin nhảy
xuống mà chỉ “Bắt tay qua cữa kính vỡ rồi ” . Đó là một cái bắt tay thực sự trẻ trung, ngang tàng, mang đầy chất lính. Họ đã tiếp thêm cho nhau rất nhiều sức mạnh tinh thần từ những cái bắt tay như thế. Đọc thơ Phạm Tiến Duật dường như chúng ta không bao giờ cảm giác bị nhàm chán. Là cũng bởi, nhà thơ luôn biết cách đưa vào bài thơ của mình những hình ảnh cực kỳ tươi mới. Nói về tình cảm đồng chí đồng đội của người lính Trường Sơn, mở đầu khổ thơ thứ hai ông đã viết “Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời - Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”. Điều vô cùng thú vị ở câu thơ này là nhà thơ đã đưa ra một định nghĩa hết sức độc đáo về khái niệm gia đình. Chỉ cần chung tay dựng tạm một cái bếp dã chiến dọc đường hành quân và rồi chung bát đũa trong một bữa cơm ăn vội như thế nhưng người lính đã xích lại gần nhau, coi nhau như những người ruột thịt trong một gia đình. Đó thực sự là một sự mở lòng ấm áp tình người. Những chàng trai trẻ Trường Sơn không chỉ là những người anh hùng mà còn là những con người có trái tim nhân hậu. Họ vẫn rất đẹp trong ngay cả những ứng xử bình dị nhất. Từ những tâm hồn trong sáng , hồn nhiên đó họ lại đã “Võng mắc chông chênh đường xe chạy - Lại đi, lại đi trời xanh thêm”. Từ láy “chông chênh” được nhà thơ sử dụng rất đắt. Nó vừa thể hiện được cái nhịp điệu lắc lư của những chiếc xe đi trên những đoạn đường gập ghềnh vừa thể hiện được cái tư thế hiên ngang, phớt lờ mọi nỗi hiểm nguy của người lính. Họ tin rằng, đằng sau những dấu chân trên mõi chặng đường hành quân của mình là bầu trời tổ quốc “xanh thêm”. Đây là một hình ảnh ẩn dụ độc đáo thể hiện nổi bật khát vọng hòa bình, niềm tin chiến thắng. Điều này là sự cổ vũ lớn lao cho những người lính Trường Sơn ngẩng cao đầu hướng về phía trước. Sẽ thật không quá lời khi nói rằng Phạm Tiến Duật đã mang được cả cái tinh thần thời đại của con đường Trường Sơn hào hùng vào trong những trang viết của mình. Thơ của ông – những bản tình ca đặc biệt ấy vì thế luôn có chổ đứng trong tâm hồn độc giả. MỘT SỐ DẠNG ĐỀ TỔNG HỢP
Đề1:
PHÒNG GIÁO DỤC $ ĐÀO TẠO HUYỆN NAM ĐÀN
ĐỀ THI HỌC SINH GIỎI LỚP 9 NĂM HỌC 216 – 2017 Môn: Ngữ văn 9 Thời gian 150 phút không kể thời gian giao nhận đề Đề chính thức **** Câu 1: (4,0 điểm) Cho đoạn thơ sau, trả lời các câu hỏi a,b,c. “Kiều càng sắc sảo mặn mà So bề tài sắc lại là phần hơn: Làn thu thủy nét xuân sơn Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh” (Trích: Chị em Thúy Kiều – Truyện Kiều – Nguyễn Du) a, Liệt kê các từ láy có trong đoạn thơ b, Xác định từ loại cho các từ: Sắc sảo, lại, làn, ghen. c, Chỉ ra các biện pháp nghệ thuật và nêu giá trị của chúng trong hai câu thơ: Làn thu thủy nét xuân sơn Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh Câu 2: (6,0 điểm) Đọc kỹ đoạn truyện sau: “… Chàng bèn theo lời, lập một đàn tràng ba ngày ba đêm ở bến Hoàng Giang. Rồi quả thấy Vũ Nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau có đến năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng, rực rỡ đầy sông, lúc ẩn lúc hiện. Chàng vội gọi, nàng vẫn ở giữa dòng mà nói vọng vào: - Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa. Rồi trong chốc lát, bóng nàng loang loáng mờ dạt dần mà biến đi mất.” (Chuyện người con gái Nam Xương – Nguyễn Dữ - Ngữ văn 9, tập 1) Đoạn truyện trên là phần kết của Chuyện người con gái Nam Xương, kể về lễ giải oan cho Vũ Nương diễn ra ba ngày, ba đêm ở bến Hoàng Giang và cuộc trở về trong thoáng chốc của nàng. Hãy nêu suy nghĩ của em về phần kết thúc này! Câu 3: (10,0 điểm) Trong lời đề tựa tập thơ của mình, Sóng Hồng viết: “Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp. Thơ không chỉ nói lên tình cảm riêng của nhà thơ mà nhiều khi thông qua tình cảm đó nói lên niềm hy vọng của cả một dân tộc” (Trích cuốn: Hà Minh Đức, tuyển tập) Bằng sự hiểu biết của em về khổ cuối bài: Đồng chí của Chính Hữu, Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật; hãy làm sáng tỏ nhận định trên. Lưu ý: Cán bộ làm nhiệm vụ coi thi không giải thích gì thêm
Bài làm: Câu 1: (4,0 điểm): a, Các từ láy có trong đoạn thơ trên gồm hai từ: “Sắc sảo” và “Mặn mà” b, Xác định từ loại: Sắc sảo – Tính từ, Lại – Phó từ, Làn – Danh từ và Ghen – Động từ. c, Các biện pháp nghệ thuật được sử dụng gồm tiểu đối, liệt kê, nhân hóa, ẩn dụ, so sánh và nói quá nhằm làm nổi bật cái nhan sắc tuyệt đỉnh nhân gian của nàng Kiều Câu 2: (6,0 điểm) “Chuyện người con gái Nam Xương” trích “Truyền kỳ mạn lục” là một áng thiên cổ kỳ bút bất hủ gắn liền với tên tuổi của nhà văn Nguyễn Dữ. Đây là một câu chuyện vô cùng cảm động về số phận trớ trêu nghiệt ngã của một người phụ nữ đất Nam Xương. Tuy nhiên, nổi bật trong đó, cái kết độc đáo nói trên vẫn để lại trong lòng chúng ta những ấn tượng sâu sắc hơn cả. Câu chuyện về cuộc đời của nhân vật Vũ Nương hoàn toàn có thể kết thúc ở chổ khi người phụ nữ bạc mệnh này gieo mình xuống dòng Hoàng Giang tự vẫn. Hoặc cũng có thể đi xa hơn một chút là khi Trương Sinh vô tình hiểu ra được nỗi oan của vợ. Tuy nhiên, nếu như vậy thì quá bi thảm, không phù hợp với thị hiếu thẩm mỹ của người Việt Nam. Đây là lý do vì sao mà nhà văn đã không để cho câu chuyện của mình bị ách lại ở đó. Tuy nhiên để làm sao không biến mọi chuyện thành hoang đường, không bóp méo hiện thực mà vẫn tạo được một cái kết giàu ý nghĩa nhân văn thì thực sự là một bài toán khó. Nó cần tới tất cả tài năng và tấm lòng của người cầm bút. Còn nhớ trong câu chuyện “Cô bé bán diêm” nổi tiếng của mình, nhà văn người Đan Mạch An - đéc - Xen cũng đã gặp một vấn đề tương tự. Ở đó, ông đã có một cách giải quyết ổn thỏa khiến người đọc phải trầm trồ thán phục và xúc động. Nhà văn này đã để cho nhân vật của mình có được những niềm an ủi, những sự xoa dịu rất quý báu với những lần đốt diêm cuối đời. Dù rằng cái lò sưởi ấm áp, cái bàn ăn sạch sẽ có con ngỗng quay với chiếc dao ăn cắm phập trên lưng, cây thông nô en lấp lánh hay là người bà hiền hậu kia chỉ là những ảo ảnh hiện ra trong thoáng chốc nhưng nó đã mang đến cho cô bé bán diêm khố khổ biết bao niềm vui, niềm hạnh phúc trước khi cô bé lìa bỏ cuộc đời. Trong câu chuyện của Nguyễn Dữ thì phần chuyện hoang đường kỳ ảo là một điểm sáng nghệ thuật nổi bật. Chúng ta thấy tác giả đã xây dựng nó một cách khéo léo đến chừng nào. Toàn bộ hình ảnh cuộc sống của Vũ Nương dưới động rùa của Linh Phi chỉ do một mình Phan Lang kể lại. Anh ta hoàn toàn có thể bịa ra tuy nhiên là với một dụng ý tốt. Bởi vì, con người này không phải ai khác mà chính là một đại diện đầy đủ nhất của lòng dân. Họ rất cảm thương trước cái chết đầy bi kịch của Vũ Nương. Một cái chết còn chứa đựng trong đó không biết bao nhiêu là uẩn khúc. Người xưa quan niệm rằng những cái chết oan khuất, tức tưởi như thế thì linh hồn sẽ không được siêu thoát nếu không được lập đàn tràng giải oan. Việc Phan Lang bịa ra câu chuyện dưới làng mây cung nước của Vũ Nương cũng chính là vì cái tâm nguyện rất đẹp đẽ này của nhân dân. Miễn là làm được cho Trương Sinh hồi tâm chuyển ý, ăn
năn sám hối thành tâm chủ đàn tế lễ. Cách kể chuyện của nhà văn Nguyễn Dữ ở đây là hết sức tự nhiên. Mọi thứ không hề áp đặt. Thậm chí ngay cả cái tín vật là chiếc trâm cài tóc của Vũ Nương được Phan Lang dùng để thuyết phục Trương Sinh cũng dể dàng giải thích một cách khoa học. Rằng, Vũ Nương trước khi gieo mình xuống bến Hoàng Giang tự vẫn đã vô tình đánh rơi cái trâm cài này và sau đó thì người dân trong làng đã vô tình nhặt được. Điều này cho thấy cả một diễn biến hoang đường kỳ ảo khá dài ở phần sau câu chuyện của nhà văn chỉ là những thêu dệt dân gian hướng tới động cơ thúc đẩy Trương Sinh lập đàn tràng giải oan mà thôi. Nó tuyệt đối không tạo nên sự thay đổi về số phận nhân vật như trong cách kể chuyện của thế giới cổ tích. Đây chính là một cách giải quyết rất cao tay của nhà văn Nguyễn Dữ. Có người thắc mắc rằng tại sao sau khi lập đàn ba ngày, ba đêm ở bến Hoàng Giang thì Trương Sinh đã nhìn thấy Vũ Nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa ở giữa dòng, theo sau có đến năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng, rực rỡ đầy sông, lúc ẩn, lúc hiện… Thoạt nhìn thì có vẻ mọi chuyện mang đầy tính thần bí nhưng kỳ thực ngẫm thật kỹ chúng ta lại sẽ thấy đó chỉ là những ảo ảnh đến từ sự quan sát của Trương Sinh mà thôi. Ngoài anh ta ra không có một người thứ hai nhìn thấy. Trương Sinh lúc này đang ở một trạng thái tinh thần rất day dứt, dằn vặt. Cái đàn tràng trên bến Hoàng Giang cũng chính là chổ bấu víu cuối cùng mà anh ta có thể phần nào chuộc lại được lỗi lầm của mình. Khi con người ta tập trung đến mức cao độ thì ảo giác xuất hiện cũng là điều hết sức dễ hiểu. Điều này giống như những ảo ảnh mà cô bé bán diêm đã nhìn thấy trong những lần đốt diêm cuối đời vậy. Mọi sự so sánh đều khập khiễng nhưng có thấy cách kể chuyện của An - đéc - xen và Nguyễn Dữ đã có chổ gặp nhau. Rằng, ảo ảnh dù rất đẹp nhưng tuyệt đối không can thiệp vào những gì xảy ra trong thực tế. Hình ảnh của Vũ Nương rực rỡ, uy nghi trên sông nước kia cho thấy ở một nơi xa xôi nào đó trong tâm nguyện của nhân dân, người phụ nữ này đã có một cuộc sống xứng đáng, một vị thế rất đáng nể. Có điều nàng đã chẳng thể trở về sum họp với chồng con. Đây là một sự thật hiển nhiên vì âm dương đã cách biệt muôn trùng nhưng đó cũng là một bi kịch đầy đau xót. Nhà văn đã không thể kể khác đi vì như thế nó sẽ biến thành một câu chuyện hoang đường nhưng việc cự tuyệt của Vũ Nương còn cho thấy nhân gian bấy giờ đã không có chổ cho người phụ nữ mưu cầu hạnh phúc. Việc chỉ trong chốc lát bóng nàng loang loáng, mờ nhạt dần và biến đi mất là một cái kết hợp lý. Dù số phận của nhân vật đã không thể được đảo ngược nhưng dù sao rốt cục nàng cũng đã chính thức được minh oan. Đặc biệt là bằng một cái đàn tràng tế lễ vô cùng long trọng. Điều này đã tạo nên rất nhiều những động viên, an ủi, xoa dịu. Đó cũng là tất cả những gì mà ngòi bút thấm đẫm tinh thần nhân đạo của nhà văn Nguyễn Dữ có thể làm được cho nhân vật của mình. Ngoài ra, với cách kể chuyện này nhà văn còn làm thỏa mãn tất cả những ai thích thêu dệt những chi tiết thần bí vốn là một đặc điểm đặc trưng của thể loại truyện truyền kỳ. Tuy nhiên, nói gì thì nói. An ủi vẫn chỉ là an ủi. Ngần ấy sáng tạo của Nguyễn Dữ chỉ có thể làm nguôi ngoai phần nào nỗi đau khổ của nhân vật mà thôi. Cái ám ảnh nhức nhối lòng người vẫn là bi kịch của một sự bế tắc. Đây chính là chổ ngõ cụt trong chặng đường số phận đẫm đầy nước mắt của người phụ nữ trong xã hội cũ.
Trong cuộc sống ngày hôm nay, mọi thứ đã khác xa cái thời tăm tối của Vũ Nương. Người phụ nữ đã được đón nhận rất nhiều những văn minh, tiến bộ của xã hội. Cái giấc mơ tưởng như hoang đường của ngày xưa nay đã dần trở thành hiện thực. Thế nhưng đây đó những tư tưởng cổ hũ, lạc hậu trọng nam khinh nữ của xã hội cũ vẫn vương sót lại trong cuộc sống của chúng ta. Việc sinh con trai hay con gái vẫn còn tạo nên áp lực trong nhiều cặp vợ chồng. Bạo lực gia đình vẫn còn đang rung lên những hồi chuông rất đáng báo động … Đó thực sự là những điều rất đáng xấu hổ. Chúng ta, dù là bất kỳ ai, hãy nhìn câu chuyện của nhà văn Nguyễn Dữ mà làm một bài học cho mình. Hãy chung tay cho một cuộc đấu tranh bình quyền nam nữ để cho cuộc sống sẽ ngày càng tốt đẹp hơn! Câu 3: (10,0 điểm) Thơ chính là những rung động thẩm mỹ xuất phát từ tâm hồn nhạy cảm của người nghệ sĩ hướng về cuộc đời. Đúng như trong lời đề tựa cho tập thơ của mình, nhà thơ Sóng Hồng đã viết: “Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp. Thơ không chỉ nói lên tình cảm của riêng nhà thơ mà nhiều khi thông qua tình cảm đó nói lên niềm hy vọng của cả một dân tộc.” Đặc biệt, khi đọc kỹ các khổ thơ cuối trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật chúng ta lại càng thấm thía mọt cách sâu sắc vấn đề này. Nhận định nói trên của Sóng Hồng gần như là một chân lý không cần bàn cãi. Văn học hiển nhiên bao giờ cũng đi ra từ cuộc sống. Nó phải xuất phát từ những nguồn cảm hứng mãnh liệt thì từ đó mới tạo ra những vần thơ có sức sống muôn đời. Đây chính là nơi mà người cầm bút chọn để gửi gắm tất cả mọi tình cảm sâu sắc nhất, những cảm xúc, khát vọng chân thành nhất về con người và cuộc đời. Thiếu đi điều này thì ngọn bút của họ sẽ không thể thăng hoa và anh ta vì thế sẽ bất lực trên mọi hành trình sáng tạo. Tác phẩm văn chương giống như những giọt mật của một đời ong không thể là một sản phẩm hời hợt, nhạt nhẽo. Nó phải là tiếng nói đến từ những tầng cảm xúc chân thành, mãnh liệt. Bao nhiêu xúc động, bao nhiêu tình yêu cũng như nỗi đau đời hết sức nhạy cảm trong tâm hồn người nghệ sỹ mới chính là bấy nhiêu chất men thực sự của sáng tạo nghệ thuật. Đó là những nhãn quan đặc biệt vốn dĩ là tiềm năng thiên bẩm của người cầm bút. Tuy nhiên, điều này chỉ áp dụng đối với những nhà văn, nhà thơ đích thực với những tác phẩm chân chính đã được khẳng định giá trị thông qua sự sàng lọc kỹ lưỡng của thời gian. Đối với những vần thơ rẻ tiền chỉ chạy theo thói xun xoe, nịnh bợ hay lòe bịp mị dân hoặc là vì những dục vọng tầm thường thì không được tính đến ở đây. Nó chưa kịp xuất hiện thì đã bị thời đại khai tử. Làm thơ là một lao động nghệ thuật nghiêm túc và cũng rất lắm gian nan chứ không phải là một trò đùa của cảm xúc. Anh có đến với cuộc sống bằng một cái nhìn chăm chú với tất cả sự nâng niu, trân trọng thì đến lượt mình cuộc sống mới có thể ban tặng cho anh cái nguồn cảm hứng vô tận của sáng tạo. Chính Hữu là một nhà thơ quân đội. Sự nghiệp sáng tác của ông gắn liền với mảng đề tài chiến tranh và người lính. Tuy vậy, trong buổi đầu viết về họ nhà thơ đâu đã ngay lập tức có được thành công. Trong bài thơ “Ngày về” được ông viết năm 1946, vẫn còn đó những câu thơ kiểu như “Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm – Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa”. Nghe qua thì thật hào hùng lẫm liệt nhưng ngẫm kỹ thì đó đâu phải là hình ảnh chân
thực của người lính trong buổi đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ và thiếu thốn lúc bấy giờ. Những giày vạn dặm, bụi trường chinh hay áo hào hoa có một cái gì đó thật khiên cưỡng, giống như hình ảnh của một thời đại hiệp sĩ đã lùi xa trong quá khứ. Phải đợi đến khi Chính Hữu trở thành người lính của trung đoàn Thủ đô anh hùng, được sống thực sự cuộc sống của người lính thì lúc bấy giờ thơ của ông viết về họ mới trở nên mộc mạc và chân thực. Hình ảnh “Áo anh rách vai – Quần tôi có vài mảnh vá – Miệng cười buốt giá – Chân không giày” mới chính là bức chân dung sống động nhất của người lính lúc bấy giờ. Những vần thơ như vậy là bắt nguồn từ hơi thở của thời đại, là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp và vì lẽ đó, được đông đảo bạn đọc gần xa đón nhận. Xin lấy thêm một ví dụ khác. Nhà thơ Hoàng Cầm đã viết bài thơ “Bên kia sông Đuống” trong hoàn cảnh nào? Nếu không phải là đang ở bên này bờ sông, nghe tin bên kia sông Đuống quê hương Kinh Bắc của ông đang bị giặc bắn phá tơi bời, Hoàng Cầm đã thức trắng đêm viết liền một mạch bài thơ nổi tiếng này. Có phải là ông muốn viết về những cảnh đau lòng mà quê hương yêu dấu bị kẻ thù tàn phá như thế hay không? Chắc chắn là không. Chẳng qua là bởi vì trong cái hoàn cảnh ấy nhà thơ không thể nào im lặng cho được. Có điều, những lời thơ chân thực của ông đã làm rung động được trái tim nhân thế. Đó là những dẫn chứng hùng hồn khẳng định rằng những tác phẩm văn học thực sự có giá trị bao giờ cũng đến từ những nỗi niềm vô cùng sâu sắc. Mảnh đất sống của thơ ca chính là những rung cảm chân thành mà người cầm bút phải bắt nguồn từ hơi thở ấm nóng của cuộc đời. Nhà văn Nguyễn Đình Thi trong một nhận định của mình đã cho rằng tác phẩm văn học là sợi dây truyền cho mọi người sự sống mà nghệ sỹ mang trong lòng. Đây chính là chức năng cầu nối đặc trưng giữa họ và độc giả thông qua sợi dây tác phẩm. Khi người cầm bút nung nấu, chưng cất được một điều gì đó thật lớn lao, mới mẻ từ cuộc sống anh ta sẽ gọt đẽo một cách công phu để biến nó thành một ý nghĩa nhân văn và gửi vào tác phẩm, từ tác phẩm mang đến với cuộc đời. Cái chặng hành trình ấy là một vòng quay hoàn hảo của sáng tạo và tái tạo. Cái đời sống trong tác phẩm tất nhiên là bắt nguồn từ đời sống của thế giới hiện thực. Tuy nhiên, nếu như cái đẹp trong cuộc sống chỉ mới là hình ảnh của một viên ngọc thô thì nhà văn khi đưa vào tác phẩm đã mài giũa, gọt đẽo để sao cho nó có thể trở thành một viên ngọc toàn bích. Chính nhờ cái quyền năng vô tận ấy của sáng tạo từ ngòi bút của họ cho nên cái đẹp trong tác phẩm mới luôn trở thành một nguồn hấp dẫn rất lớn. Nhà phê bình nổi tiếng Bielinnki cũng đã từng nói rằng:“Bất cứ thi sĩ nào cũng không thể trở thành vĩ đại nếu họ chỉ do ở mình và miêu tả mình – dù đó là miêu tả những nỗi đau hay niềm hạnh phúc. Bất cứ thi sĩ vĩ đại nào, sở dĩ họ vĩ đại là vì những đau khổ và hạnh phúc của họ bắt nguồn từ hoẳng sâu thẳm của lịch sử xã hội, bởi vì họ là khí quan của xã hội, của thời đại và của nhân loại. Sự nhạy cảm của tác giả sẽ là cây chìa khóa tạo nên sự đánh động, thức tỉnh những sự đồng điệu ở tâm hồn người đọc. Còn nhớ một bài hát đã có một đoạn lời rất thú vị rằng: “Cuộc đời ta chỉ thích hoa hồng, kẻ thù buộc ta ôm cây súng”. Đâu có phải những nhà thơ như Chính Hữu hay Phạm Tiến Duật thích viết về chiến tranh. Chẳng qua đó là cái thời của họ. Hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ thánh thần của dân tộc đã thổi bùng dậy
những khát vọng chiến đấu và chiến thắng hết sức lớn lao. Những khí quan của xã hội, của thời đại và của nhân loại như họ có sứ mệnh phải thổi được cái tinh thần sục sôi ấy lên từng trang viết. Đó vừa là nghệ thuật, vừa là điểm tựa tinh thần cho lớp lớp những người con ra trận lúc bấy giờ. Cũng giống như hàng triệu triệu hồng quân Liên Xô đã khoác ba lô lên đường đánh giặc mà trong hành trang của họ có bài thơ “Đợi anh về” bất hủ của nhà thơ Xi mô nốp. Khép lại bài thơ “Đồng chí” nổi tiếng của mình, nhà thơ Chính Hữu đã có một cái kết hết sức ấn tượng: Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo. Thời gian là đêm tối vắng vẻ, không gian là núi rừng hoang vu, khí hậu là sương muối giá lạnh còn công việc là đánh giặc. Đó thực sự là một hoàn cảnh làm nhiệm vụ thử thách đến tận cùng ý chí và bản lĩnh. Thế nhưng, thật kỳ lạ! Lửa thử vàng, gian nan thử sức. Càng trong hoàn cảnh như vậy thì vẻ đẹp tinh thần của người lính lại càng tỏa sáng. Họ tuyệt nhiên không hề nao núng, không quay đầu lùi bước mà vẫn bình thản, sẵn sàng đối diện với một tư thế đầy hiên ngang bất khuất. Đó là một tư thế có thể tạc vào thế kỷ. Vì sao vậy? Vì người lính không bao giờ cảm thấy đơn độc. Kề vai sát cánh với họ luôn có đồng chí đồng đội chung lưng đấu cật. Đây là một điểm tựa tinh thần kỳ diệu làm nên sức mạnh giúp họ vượt qua tất cả. Có như vậy thì cái hiện thực đầy khó khăn gian khổ thiếu thốn trong buổi đầu của cuộc kháng chiến chín năm chống Pháp mới được họ đẩy lùi lại phía sau để nhường chổ cho một cái nhìn vô cùng lãng mạn. Hình ảnh Đầu súng trăng treo là một tứ thơ xuất thần của Chính Hữu. Nếu như súng là biểu tượng của chiến tranh thì trăng lại là một hình ảnh của khát vọng hòa bình. Hai hình ảnh này rất xa nhau về mặt không gian và càng khác nhau về mặt ý nghĩa nhưng bằng sự sáng tạo độc đáo của mình nhà thơ đã kéo chúng lại gần nhau để từ đó làm nên một sự liên tưởng vô cùng thú vị. Súng lúc này không còn là một vũ khí để bắn giết nữa mà nó đã làm thành một cái giá để treo trăng. Ý thơ ấy quả là hết sức táo bạo. Hiện thực của đời sống chiến tranh khốc liệt tạm thời bị gạt sang một bên để nhường chổ cho khát vọng hòa bình, niềm tin chiến thắng được lên ngôi. Cái tư tưởng tuyệt vời như thế đâu phải là chỉ được đến từ một sáng tạo độc nhất vô nhị của ngòi bút Chính Hữu. Ông chẳng qua là một người đại diện ưu tú để nói lên cái niềm hy vọng mãnh liệt của cả dân tộc mà thôi. Sẽ không quá khi nói rằng hơi thở của thời đại lúc bấy giờ đã đọc thơ cho ông chép. Sự trải nghiệm đến từ cuộc sống của người lính mà trên hết là tư tưởng, tình cảm của cả dân tộc đã giúp ông viết nên những vần thơ này. Tương tự như vậy, trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” nhà thơ Phạm Tiến Duật cũng đã có một cái kết vô cùng thú vị. Xe không kính rồi xe không có đèn Không có mui xe, thùng xe có xước Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Người đọc dù là ai, dù có vô cảm đến mấy cũng sẽ bị lôi cuốn bởi những vần thơ này. Đó là bởi vì, viết về những người lính lái xe Trường Sơn, nhà thơ đã thổi vào đó dấu ấn của cả một thời đại. Vẻ đẹp hiên ngang, quả cảm của những người lính này chính là tinh thần đầy đủ nhất cho những câu khẩu hiệu Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước – mà lòng phơi phới dậy tương lai hay là Trường Sơn đông nắng tây mưa – Ai chưa tới đó như chưa rõ mình. Theo dọc mọi nẻo đường hành quân, những chiếc xe Nam tiến băng mình qua mưa bom bão đạn đã ngày càng bị tàn phá hết sức khốc liệt. Xe không kính rồi xe không có đèn Không có mui xe, thùng xe có xước Nếu nhìn ở góc độ tiêu cực thì tình trạng của những chiếc xe lúc này quả thực là hết sức bi thảm. Nó chẳng khác gì những con gà bị vặt trụi lông. Khó khăn là không thể nào nói hết. Đó là một thứ hiện thực dễ khiến cho nhiều người phải cất lên những tiếng thở dài não ruột. Nhưng cũng như những gì đã nói ở bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu. Càng khó khăn, hiểm nguy, thử thách như thế thì lại càng chứng tỏ được phẩm chất của những người anh hùng trẻ tuổi. Họ là những con người mà ý chí, bản lĩnh đã được tôi luyện thành gang, thành thép. Bất chấp tất cả, xe của họ vẫn cứ hiên ngang chạy vì Miền Nam phía trước. Điều này đã làm run sợ cả lầu năm góc. Bởi vì, cho dù đế quốc Mỹ có trút xuống con đường Trường Sơn cả hàng ngàn tấn bom đạn kể cả chất độc màu da cam thì ngày đêm, vượt lên trên hoàn cảnh khốc liệt ấy con đường chiến lược này vẫn kiên cường, anh dũng nối liền khúc ruột Bắc Nam. Điều này giống như những phép màu nhiệm trong những câu chuyện cổ tích. Những chàng trai đất Bắc có trái tim biết đập vì những nhịp đập Miền Nam đã thực sự làm nên những huyền thoại giữa đời thường. Tất cả những chữ không trước đó: không kính, không đèn, không có mui xe… đều hoàn toàn bị lu mờ bởi một chữ có đầy kiêu hãnh: Chỉ cần trong xe có một trái tim. Như vậy đã là rất đủ. Với những biểu hiện ấy, những anh chàng lính lái xe ngạo nghễ này chẳng phải đã thể hiện tất cả niềm hy vọng của cả một dân tộc về một ngày mai chiến thắng hay sao? Trong bài thơ “Hạnh phúc” nhà thơ Dương Hương Ly đã viết: Hạnh phúc là gì bao lần ta lúng túng Hỏi nhau hoài mà nghĩ mãi chưa ra Rồi mồi ngày cất bước đi xa Miền Nam gọi chúng mình có mặt Và em nói: đó là hạnh phúc. Con người và cái thời đại như thế đã làm nên những cái đẹp phi thường. Họ quả thực rất đáng để chúng ta ngưỡng mộ. Phải chăng sở dĩ người ta nói thơ của Phạm Tiến Duật viết về những năm tháng Trường Sơn khói lửa được coi là những bản tình ca hay nhất của thời đại cũng là vì lẽ đó. Thơ hay đâu phải chỉ là câu chữ mà mỗi lời thơ muốn sống được với thời gian phải được viết ra từ trái tim của người cầm bút. Nhà thơ muốn có được những tâm hồn đồng điệu thì trước hết anh ta phải mang được cái hơi thở chân thực nhất của thời đại anh ta sống lên từng trang viết của mình.
Đề 2: Phòng giáo dục & đào tạo Nam Đàn Kỳ thi thử vào lớp 10 THPT Trường THCS Đặng Chánh Kỷ Năm học 2014 – 2015 Môn Ngữ Văn Thời gian 120 phút Câu 1:(3đ) Đọc kỹ đoạn văn sau, rồi thực hiện các yêu cầu: …(1) Ngoài cửa sổ bấy giờ những bông hoa bằng lăng đã thưa thớt – cái giống hoa ngay khi mới nở, màu sắc đã nhợt nhạt. (2) Hẳn có lẽ vì đã sắp hết mùa, hoa đã vãn trên cành, cho nên mấy bông hoa cuối cùng còn sót lại trở nên đậm sắc hơn. a, Đoạn trích trên trích trong tác phẩm nào? Của ai? b, Chỉ ra những thành phần biệt lập được và hãy cho biết đó là những thành phần gì? c, Xác định chủ ngữ, vị ngữ ở câu 1. Đây là câu đơn hay câu ghép? Tổ hợp từ ngữ “Ngoài cửa sổ bấy giờ” đảm nhận thành phần ngữ pháp gì trong câu? Câu 2:(3đ) Trình bày ngắn gọn cảm nhận của em về đoạn thơ sau bằng một đoạn văn: “Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng” (“Bếp lửa” – Bằng Việt – Ngữ văn 9 tập I – Trang114) Câu 3:(4đ) Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai trong phần chuyện: “Về đến nhà ông Hai nằm vật ra giường, mấy đứa trẻ hôm nay thấy bố có vẻ khác, len lét đưa nhau ra đầu nhà chơi sậm chơi sụi với nhau. Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ giàn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu … Ông lão nắm chặt hai tay lại mà rít lên: - Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này. Ông lão bổng ngừng lại, ngờ ngợ như lời mình không được đúng lắm. Chả nhẽ cái bọn ở làng lại đốn đến thế được. Ông kiểm điểm từng người trong óc. Không mà, họ toàn là những người có tinh thần cả mà. Họ đã ở lại làng, quyết tâm một sống một chết với giặc, có đời nào lại cam tâm làm điều nhục nhã ấy!... Nhưng sao lại nãy ra cái tin như vậy được? Mà thằng chánh Bệu thì đích thực là người làng không sai rồi. Không có lửa làm sao có khói? Ai người ta hơi đâu bịa tạc ra những chuyện ấy làm gì. Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian! Rồi đây biết làm ăn, buôn bán ra sao? Ai người ta chứa. Ai người ta buôn bán mấy. Suốt cả cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước… Lại còn bao nhiêu người làng, tan tác mỗi người một phương nữa, không biết họ đã rõ cái cơ sự này chưa?...” (“Làng” – Kim Lân – Ngữ văn 9 – Tập I – Trang 166)
(Cán bộ làm nhiệm vụ coi thi không giải thích gì thêm) Bài làm Câu 1: a, Đoạn trích trên trích trong truyện ngắn “Bến Quê” của nhà văn Nguyễn Minh Châu. b, Trong đoạn trích có hai thành phần biệt lập gồm: - Thành phần phụ chú: cái giống hoa ngay khi mới nở, màu sắc đã nhợt nhạt. - Thành phần tình thái: Hẳn có lẽ c, Ngoài cửa sổ bấy giờ những bông hoa bằng lăng đã thưa thớt Trạng ngữ Chủ ngữ Vị ngữ - cái giống hoa ngay khi mới nở, màu sắc đã nhợt nhạt Phụ chú Đây là câu đơn. Câu 2: Có thể nói rằng đây là một đoạn thơ rất độc đáo trong bài thơ “Bếp lửa” nổi tiếng của nhà thơ Bằng Việt. Chỉ từ ba câu thơ ngắn gọn nhưng tác giả đã khéo léo tách riêng chúng ra để trở thành một khổ thơ độc lập và từ đó tạo nên một điểm nhấn hết sức thú vị. Những lời thơ giản dị ấy này của ông đã thể hiện được tất cả tình cảm chân thành, xúc động của một đứa con xa xứ nhớ về quê hương nguồn cội mà cụ thể là về hình ảnh người bà kính yêu cũng như cái bếp lửa đơn sơ nhưng kỳ diệu của bà. Hình tượng bếp lửa đã được thi vị hóa rất tinh tế qua đó giúp nhà thơ khẳng định vẻ đẹp rất đáng ngưỡng mộ của hình tượng người bà. Tất cả những cái đẹp đơn sơ, mộc mạc mà đầy ắp nghĩa tình này vẫn luôn in đậm trong tâm trí của nhân vật trữ tình người cháu. Dù giờ đây, sống tận nơi chân trời viễn xứ nhưng mọi kỷ niệm về những năm tháng tuổi thơ sống bên bà với anh vẫn nóng hổi tính thời sự như mọi việc mới xảy ra ngày hôm qua … Trong một hoàn cảnh ngặt ngèo của cảnh nhà neo đơn giữa chiến tranh giặc giã, khó khăn là không thể nào kể xiết nhưng cái bếp lửa đơn sơ dưới mái lều tranh của hai bà cháu vẫn sáng chiều đỏ lửa. Điệp ngữ “Rồi” ở câu thơ thứ nhất đã cho thấy một sức sống hết sức kiên cường bền bỉ trong công việc thầm lặng ấy của người bà sớm hôm tần tảo. Bếp lửa còn là sự sống, niềm tin và hy vọng cũng đang còn. Đó cũng chính là biểu tượng cho sức sống của cả một dân tộc anh hùng. Trong cái bức tranh cuộc sống kiên cường, bất khuất như thế bà chính là một người nhóm lửa hết sức tuyệt vời. Còn ở hai câu thơ còn lại của đoạn thơ không phải ngẫu nhiên mà hình ảnh bếp lửa đã được tác giả chuyển hóa thành hình ảnh ngọn lửa. Đó vừa là một ẩn dụ vừa là một điệp ngữ rất giàu tính sáng tạo. Sở dĩ cái bếp lửa nghèo của hai bà cháu vẫn cứ sáng chiều được đỏ lửa thách thức với tất cả là bởi vì nó luôn được thắp sáng với một nguồn năng lượng không bao giờ vơi cạn. Bà không chỉ là người nhóm lửa mà còn là người giữ lửa và là người truyền lửa. Bởi vì cái bếp lửa của bà đâu chỉ được nhen lên bởi củi đuốc thông thường. Nó còn được nhen lên bởi cái ngọn lửa kỳ diệu “lòng bà luôn ủ sẵn” luôn cháy sáng trong trái tim của bà. Đây là một cách nói ẩn dụ vô cùng tinh tế của nhà thơ. Bà chính là sự tượng trưng đầy đủ nhất cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam truyền thống. Những phẩm chất đảm đang, tháo vát cần cù chịu thương chịu khó cũng như tình yêu thương cháu vô bờ bến đã giữ cho bếp lửa của hai bà cháu vẫn tồn tại trước bao nhiêu gian khổ, thử thách, khó khăn. Cái đẹp rất đời thường ấy khi cháy lên trong “niềm tin dai dẳng”
của bà đã trở nên lung linh một sắc màu huyền thoại. Bà tin vì sự chiến thắng tất yếu của cách mạng, tin vì tương lai tươi sáng của cháu. Đây chính là lý do để bà âm thầm chịu đựng, âm thầm hy sinh. Cái bếp lửa ấy của bà vì thế đã không chỉ nuôi sống cháu mà còn nuôi dưỡng cả tâm hồn của cháu trong những ngày ấu thơ, nâng đỡ niềm tin cho cháu trước những năm tháng dài rộng của cuộc đời. Để rồi giờ đây, mỗi lần nghĩ về bà, nhớ đến bà thì trong sâu thẳm nỗi lòng đứa cháu xa xứ ấy vẫn luôn trỗi dậy những tình cảm yêu thương, kính trọng, biết ơn và khâm phục vô cùng. Câu 3: Nói đến Kim Lân là chúng ta nghĩ ngay đến một cây bút đặc biệt sở trường về truyện ngắn. Ông có một vốn hiểu biết vô cùng sâu sắc về cuộc sống của nông thôn và người nông dân. Tất cả những năng lực thế mạnh ấy đã được thể hiện một cách rất tập trung trong truyện ngắn “Làng”. Tuy nhiên, nổi bật trong đó phần chuyện kể về những diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai ở trên vẫn để lại cho chúng ta những ấn tượng sâu sắc hơn cả.. Trước đó, chúng ta biết rằng con người ông Hai đã trải qua một thời khắc rất tồi tệ. Khi ông lão đang ngất ngây bởi những lời khoe về làng mà đặc biệt là vừa ở phòng thông tin tuyên truyền của huyện bước ra mọi thứ đã khiến “Ruột gan ông lão như múa cả lên” với một bầu tâm trạng đầy phấn khích thì đùng một cái người ta báo cho ông một cái tin như sét đánh ngang tai: làng Chợ Dầu theo giặc. Đây là một điều hết sức oái ăm mà ông chưa bao giờ nghĩ đến. Vì không chuẩn bị tinh thần để đón nhận cho nên ông lão đã bị sốc rất nặng. Nó khiến cho ông lão rơi vào một tình trạng sụp đổ hết sức tội nghiệp. Phải gắng gượng lắm ông mới có thể tách mình khỏi đám đông những người bà tản cư để cúi gằm mặt xuống mà trốn chạy như một kẻ tội đồ. Trong phần chuyện cụ thể này năng lực sở trường am hiểu tâm lý nhân vật của nhà văn Kim Lân đã được phát huy một cách triệt để. Nhà văn đã dường như thấu tận chân tơ kẻ tóc những giằng xé nội tâm dữ dội của con người ông Hai khi ông lão tội nghiệp này đang chới với trong một bi kịch khủng khiếp về mặt tinh thần. “Về đến nhà ông Hai nằm vật ra giường” như một kẻ mất hồn. Bộ dạng đó đã lập tức tạo nên những hiệu ứng dây chuyền. Mấy đứa trẻ con nhà ông đã không dám sấn sổ chạy đến bên ông vòi quà như mọi bữa. Chúng chỉ “len lét đưa nhau ra đầu nhà chơi sậm chơi sụi với nhau”. Ông Hai không phải là không biết điều này. “Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ giàn ra.”. Ông đau đớn nghĩ rằng: “Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu …”. Những dằn vặt, day dứt đầy cay đắng, tủi nhục ấy của nhân vật đã được tác giả câu chuyện thể hiện qua những lời độc thoại nội tâm đầy xúc động. Để rồi, bao nhiêu uất hận vì chuyện mấy đứa trẻ con nhà mình phải gánh chịu những hệ lụy rất trớ trêu kia ông Hai đã trút cả xuống đầu những người dân làng Chợ Dầu. Lời chửi đổng không thể kiềm chế của ông đã được nhà văn mô tả bằng một lời độc thoại rất ấn tương. “Ông lão nắm chặt hai tay lại mà rít lên: - Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này.” So về mức độ thì sự cay nghiệt trong lời đay
nghiến này của ông Hai cũng không kém là bao so với lời chửi ngoa ngoắt của người đàn bà tản cư trước đó. Nhưng có điều. Tâm trạng của ông Hai lúc này lại đầy mâu thuẩn. Đó là một diễn biến tâm lý rất tinh tế mà nhà văn đã phát hiện được. Ông lão vừa dứt xong cái lời chửi mang tính cạn tàu ráo máng tưởng như đã ân đoạn nghĩa tuyệt với nhau kia thì ngay liền đó lại đã “ngờ ngợ như lời mình không được đúng lắm. Chả nhẽ cái bọn ở làng lại đốn đến thế được.”. Ông cảm thấy hối hận trong lòng vì có vẻ như đã nghĩ oan cho họ. Để rồi ông đã “kiểm điểm từng người trong óc.”- những người mà ông đã hiểu họ như lòng bàn tay. Với ông những con người ấy luôn là biểu tượng cho niềm kiêu hãnh về làng Chợ Dầu. Mọi sự kiểm điểm dù rất cặn kẽ đều cho ông cùng một đáp số “Không mà, họ toàn là những người có tinh thần cả mà. Họ đã ở lại làng, quyết tâm một sống một chết với giặc, có đời nào lại cam tâm làm điều nhục nhã ấy!...” Tuy nhiên, thật tội nghiệp cho ông lão. Mâu thuẩn này chưa kịp giải quyết thì mâu thuẩn kia lại xuất hiện. Nó khiến cho cái đầu của ông như muốn vỡ tung. Bởi vì khi niềm tin của ông dành cho những người dân làng Chợ Dầu chưa kịp đứng vững thì nó lại đã bị lung lay dữ dội bởi những chứng cớ rành rành mà ông không thể nào lý giải. “Nhưng sao lại nãy ra cái tin như vậy được? Mà thằng chánh Bệu thì đích thực là người làng không sai rồi. Không có lửa làm sao có khói? Ai người ta hơi đâu bịa tạc ra những chuyện ấy làm gì.” Với ông, dưới gầm trời này làm gì có một thằng chánh Bệu thứ hai để mà hy vọng về một sự nhầm lẫn. Vì không thể dứt ra được những ám ảnh ấy ông lão đã cay đắng nghĩ rằng cái chuyện động trời làng của ông theo giặc đã là một sự thật mười mươi. Những giằng xé nội tâm rất đau đớn đó đã đưa ông lão đến một ngõ cụt đấy bế tắc. “Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian!”. Trước mắt ông lão là một bóng đêm không lối thoát “Rồi đây biết làm ăn, buôn bán ra sao? Ai người ta chứa. Ai người ta buôn bán mấy.” Ông lão đã chẳng thể tìm thấy bất kỳ một chút ánh sáng nào dù nhỏ được thắp lên phía cuối đường hầm. Bởi vì ngay chính ông cũng hoàn toàn đồng tình với chuyện “Suốt cả cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước…” và rồi, không chỉ dằn vặt với riêng mình ông còn nghĩ cho bao nhiêu con người khác của làng Chợ Dầu nữa. Họ đã “tan tác mỗi người một phương” và “không biết họ đã rõ cái cơ sự này chưa?...” Có thể thấy rằng, với phần chuyện trên nhà văn Kim Lân đã gần như hóa thân tuyệt đối vào nhân vật với một sự am hiểu vô cùng tinh tế. Các kiểu lời thoại độc thoại nội tâm và độc thoại được ông khai thác sử dụng rất uyển chuyển để tạo nên một cách kể chuyện hết sức xúc động. Thông tin chuyện làng Chợ Dầu theo giặc trong câu chuyện dĩ nhiên rốt cục phải là một sự hiểu nhầm nhưng cụ thể ở đây tác giả đã dùng nó để kiểm chứng tấm lòng của nhân vật một cách rất thành công. Những nỗi đau đớn quặn thắt của ông Hai với những diễn biến tâm trạng nói trên chính là một minh chứng đầy tính thuyết phục khẳng định tình yêu sâu nặng mà người nông dân chất phác này đã dành trọn cho làng Chợ Dầu thân yêu.
Đề 3: KỲ THI HỌC SINH GIỎI TỈNH LỚP 9 THCS TỈNH NGHỆ AN NĂM HỌC 2011 – 2012
MÔN : NGỮ VĂN - BẢNG A
Thời gian 120 phút không kể thời gian giao nhận đề Đề chính thức Câu 1(8,0 điểm) : “Hãy cảm ơn ngọn đèn vì ánh sáng của nó, nhưng chớ quên người cầm đèn đang kiên nhẫn đứng trong đêm” ( R.Ta – gor ). Trình bày suy nghĩ của em về vấn đề trên. Câu 2(12 điểm): “Tác phẩm vừa là kết tinh của tâm hồn người sáng tác, vừa là sợi dây truyền cho mọi người sự sống mà nghệ sỹ mang trong lòng”. (“Tiếng nói của văn nghệ” – Nguyễn Đình Thi – Ngữ văn 9 – tập 2) Hãy làm rõ điều đó trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của nhà thơ Thanh Hải (Ngữ văn 9 – tập 2). Bài làm: Câu 1: Câu nói“Hãy cảm ơn ngọn đèn vì ánh sáng của nó, nhưng chớ quên người cầm đèn đang kiên nhẫn đứng trong đêm” của R.Ta – gor xứng đáng được liệt vào kho tàng những câu danh ngôn bất hủ của nhân loại. Là bởi, ở đó một triết lý nhân văn sâu sắc chứa đựng ý nghĩa giáo dục lớn lao về sự tri ân đối với cuộc đời đã được đại thi hào nổi tiếng này cô đúc trong một cách nói hết sức ấn tượng. Ánh sáng của ngọn đèn giúp soi rõ mọi vật, tỏa sáng bóng đêm. Đó là một điều giản dị nhưng rất thiết thực trong cuộc sống, không ai là không nhận thấy. Nếu không có những ngọn đèn như thế thì sẽ luôn có một nửa thế giới của nhân loại sẽ bị ám ảnh bởi những bóng đêm khủng khiếp. Con người sẽ khó khăn biết bao khi đối diện với đêm tối. Tuy nhiên, để có được cái ánh sáng kỳ diệu ấy thì không những cần tới người làm ra ngọn đèn mà còn phải cần tới người cầm đèn đang kiên nhẫn đứng trong đêm. Hai mặt của một vấn đề ấy có một mối quan hệ rất biện chứng với nhau. Bởi thế, xét theo nghĩa đen, câu nói này của R.Ta – gor, khuyên nhủ chúng ta không chỉ phải biết hàm ơn ngọn đèn vì nó đã mang lại ánh sáng mà còn phải nhận biết để đặc biệt tri ân những công sức của những con người thầm lặng cầm đèn soi cho chúng ta trong đêm tối. Mượn hình ảnh ánh sáng ngọn đèn và người cầm đèn như thế, tác giả của câu danh ngôn này đã đề cập một vấn đề nhân văn rất sâu sắc. Trong khi hình ảnh ngọn đèn và ánh sáng của nó tượng trưng cho những thành quả tốt đẹp mà cuộc đời mang lại thì hình ảnh người cầm đèn lại tượng trưng cho những đóng góp, những hy sinh thầm lặng. Cách nói của Ta – gor được thể hiện bằng một nghệ thuật đòn bẩy hết sức độc đáo. Vấn đề “Hãy cảm ơn ngọn đèn vì ánh sáng của nó” là một nét đẹp ứng xử ân nghĩa mang tính nền tảng của đạo lý làm người, không ai là không thấm thía. Tuy nhiên, trong khi phần lớn chúng ta đã có ý thức dành cho những công lao to lớn những sự tri ân đúng mực thì lại vô tình hoặc thậm chí là cố ý lãng quên đi những
đóng góp thầm lặng . Tất cả công sức làm nên những thành quả như ngọn đèn và ánh sáng của nó không phải bao giờ cũng được chúng ta ghi nhận một cách thấu đáo. Người tạo ra những thành quả to lớn cho cuộc đời được mọi người tôn trọng, ngưỡng mộ, tri ân là điều hoàn toàn xứng đáng. Nhưng bên cạnh đó, đại thi hào Ta – gor với tinh thần nhân văn đẹp đẽ của mình còn đặc biệt lưu ý chúng ta phải biết nâng niu, trân trọng những đóng góp âm thầm, bền bỉ mà nếu không có một cái nhìn tinh tế và cao thượng thì không dễ gì chúng ta có thể nhận thấy. Vế sau trong câu danh ngôn này của ông “Người cầm đèn đang kiên nhẫn đứng trong đêm” chính là cách nói rất hình ảnh về những sự đóng góp như thế. Câu nói của Ta – gor gồm hai vế tương hỗ cho nhau để cùng bàn về lẽ sống tri ân. Nhưng có thể nhận thấy ở vế trước của câu nói này dường như chỉ đơn thuần là đạo lý uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây. Chúng ta không thể phủ nhận tính giáo dục của nó, nhưng dù sao đó cũng chỉ là một quan niệm nhân sinh khá phổ biến. Nếu chỉ nói như vậy thì chúng ta không thấy có sự khác biệt giữa thiên tài Ta – gor với những người bình thường khác. Tuy nhiên, đại thi hào đã thể hiện được vị thế của mình bằng cách nói ở vế sau của câu danh ngôn. Đây là mấu chốt của vấn đề làm nên điểm sáng trong tinh thần nhân văn cao cả của một cây bút từng vinh dự được nhận giải thưởng Nô – ben văn học. Ông đã thể hiện sự đặc biệt nâng niu, trân trọng biết bao đối với những công lao thầm lặng. Soi vào trong thực tiễn cuộc đời chúng ta mới thấy hết ý nghĩa nhân văn to lớn mà Ta – gor đúc kết. Mỗi một góc nhỏ thôi trong thành quả chung mà chúng ta đang ngày ngày được hưởng thụ không phải bổng dưng mà có. Nhìn rộng ra thì đó chính là hệ quả được tích lũy của không biết bao nhiêu công sức của bao người trong nhiều thế hệ. Việc chúng ta cần biết để tri ân cuộc đời là một chuẩn mực của ứng xử. Tính đúng đắn của vấn đề này đã thuộc về phạm trù nhân bản cho nên bất kỳ ai cũng thừa nhận. Sinh thời, chính Bác Hồ kính yêu cũng đã từng căn dặn các cháu thiếu niên nhi đồng rằng “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải có công giữ nước”. Suy cho cùng đây chính là thái độ trân trọng những thành quả của bao thế hệ cha ông. Giữ gìn và phát huy vẻ đẹp của những thành quả đó không chỉ là chúng ta đang xây dựng cuộc sống bền vững của chính mình mà còn là cách để chúng ta trả món nợ ân nghĩa, thiêng liêng, sâu nặng của cuộc đời. Nhưng để thể hiện sự mang ơn đối với những người đã tạo ra thành quả mà nếu chúng ta chỉ mới “Cảm ơn ngọn đèn vì ánh sáng của nó” rõ ràng là hoàn toàn chưa đủ. Khi đi trong đêm tối, được ánh sáng của ngọn đèn soi tỏ, ta hiểu ra vấn đề mà biết ơn ngọn đèn âu cũng là lẽ thường tình. Đây chắc chắn là điều chúng ta phải làm vì đó là cái mặt nổi của vấn đề và cũng là phần quan trọng nhất của lối sống tri ân. Nhưng Ta – gor còn muốn khuyên chúng ta phải hoàn thiện hơn cách ứng xử này bằng cách không bao giờ được quên “Người cầm đèn đang kiên nhẫn đứng trong đêm”. Đây chính là một góc khuất của lối sống tri ân mà chúng ta không phải bao giờ cũng dễ dàng nhận thấy. Đôi khi chỉ do thiếu một cái nhìn nhân ái mà chúng ta đã trở thành kẻ vô ơn, bội bạc lúc nào không hay. Trên sân khấu, một diễn viên tài ba nào đó đã vừa trình diễn xuất sắc một ca khúc của mình. Đó là một ca khúc đã tạo nên sự rung động mãnh liệt đối với hàng triệu triệu trái tim. Chúng ta đã tung hô diễn viên nọ như một
vị thánh sống. Dĩ nhiên, với tài năng kiệt xuất của mình, anh ta xứng đáng được tôn trọng và ngưỡng mộ. Có thể hiểu rằng món quà tuyệt vời mà anh ta vừa mang lại cho chúng ta chính là ngọn đèn và ánh sáng của nó. Đó là những thành quả đẹp đẽ và đáng quý biết bao trong cuộc đời này. Nhưng, chỉ biết ơn con người anh ta không thôi sẽ là chưa đủ. Để có được cái ánh hào quang như vậy trên sân khấu còn phải kể đến công sức của bao nhiêu con người thầm lặng khác. Chưa kể xa hơn là cha mẹ anh ta đã sinh thành, các thầy cô giáo của anh ta đã dưỡng dục thì gần hơn cũng có thể kể tới những nhạc sĩ, nhạc công, những nhân viên kỹ thuật, nghệ sĩ hóa trang vv... Họ chính là“Người cầm đèn đang kiên nhẫn đứng trong đêm.” Không biết ghi nhận sự đóng góp của những con người này sau những thành công thì sẽ là một khiếm khuyết trầm trọng. Tuy nhiên, để đem được cái tinh thần nhân văn ấy ứng dụng trong cuộc sống cũng không phải là chuyện dễ dàng. Lý thuyết là một chuyện còn thực hiện lại là chuyện khác. Hãy tưởng tượng là chúng ta đang đi trên một con đường quốc lộ phong quang, rộng rãi và hiện đại. Cùng lắm chúng ta chỉ biết thầm cảm ơn những người đã làm nên con đường ấy chứ mấy ai biết nghĩ thêm rằng: đóng góp vào việc làm đẹp con đường ta đi còn có những người như chị lao công “Đêm đêm quét rác”. Để ghi nhận công lao của những con người bình dị như chị lao công ấy rõ ràng là cần ở chúng ta một sự mở lòng. Câu nói trên của R. Ta – gor chính là muốn chúng ta phải luôn thực sự thấm thía điều này. Đó là một vẻ đẹp nhân văn cao thượng đến từ trái tim của một nghệ sĩ lớn . Nhắc nhở về lối sống ân nghĩa là điều không hề mới nhưng đối với đạo làm người đó vẫn luôn là một “Gươm báu răn mình”. Càng đọc, càng suy ngẫm về câu danh ngôn trên của Ta – gor chúng ta được nâng cao hơn về nhận thức của mình. Tri ân cuộc đời nói chung mà đặc biệt là tri ân những công lao thầm lặng, bền bỉ nói riêng chính là một bài học làm người vẫn luôn sống mãi với thời gian. Câu 2: Đối với những người cầm bút thì trong chặng đường sáng tạo gian khổ và vinh quang của mình , mỗi đứa con tinh thần của họ ra đời đều chính là một thành tựu nghệ thuật mang đầy tâm huyết. Tác phẩm là nơi được lựa chọn để người nghệ sỹ thực hiện sứ mệnh gửi bức thông điệp mà mình ấp ủ đến với cuộc đời. Đúng như nhà văn Nguyễn Đình Thi, trong văn bản “Tiếng nói của văn nghệ” đã khẳng định“Tác phẩm vừa là kết tinh của tâm hồn người sáng tác, vừa là sợi dây truyền cho mọi người sự sống mà nghệ sỹ mang trong lòng”. Chỉ cần tìm hiểu một trong những tác phẩm văn học tiêu biểu là bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của nhà thơ Thanh Hải để minh họa chúng ta cũng sẽ thấy rõ điều này. Trước hết cần phải thấy rằng nhận định nói trên của Nguyễn Đình Thi là hết sức xác đáng.Với việc sử dụng điệp ngữ vừa là trong hai vế câu của nhận định này ông đã cô đúc được những giá trị đồng thời của tác phẩm văn chương trong một cách nói rất ấn tượng. Đó thực sự là một am hiểu sâu sắc, uyên bác của một con người đã có bề dày lăn lộn với sự nghiệp sáng tác cũng như lý luận, phê bình và nghiên cứu văn học. Ông đã nâng tầm cho chúng ta cách cảm thụ, đánh giá tác phẩm có thêm chiều sâu của tư duy lý luận. Sở dĩ ông nói Tác phẩm vừa là kết tinh của tâm hồn người sáng tác bởi vì đó là đứa con tinh thần của nhà văn, là nơi nhà văn gửi gắm những tình cảm sâu sắc nhất,
những cảm xúc, khát vọng chân thành, mãnh liệt nhất về con người và cuộc đời. Thiếu đi điều này thì ngọn bút của người nghệ sỹ không thể thăng hoa và anh ta vì thế sẽ bất lực trên mọi hành trình sáng tạo. Chúng ta hãy đặc biệt chú ý chữ dùng kết tinh trong cách nói của Nguyễn Đình Thi. Rằng tác phẩm văn chương không thể là một sản phẩm hời hợt, nhạt nhẽo của tâm hồn mà phải là tiếng nói đến từ những tầng cảm xúc chân thành, mãnh liệt. Bao nhiêu xúc động, bao nhiêu tình yêu cũng như nỗi đau đời hết sức nhạy cảm trong tâm hồn người nghệ sỹ mới chính là bấy nhiêu chất men thực sự của sáng tạo nghệ thuật. Đó là những nhãn quan đặc biệt vốn dĩ là tiềm năng thiên bẩm của người cầm bút. Tuy nhiên, điều này chỉ áp dụng đối với những nhà văn, nhà thơ đích thực với những tác phẩm chân chính đã được khẳng định giá trị thông qua sự sàng lọc kỹ lưỡng của thời gian. Đối với những tác phẩm chỉ chạy theo thói xun xoe, nịnh bợ hay lòe bịp mị dân hoặc là vì những dục vọng tầm thường thì không được tính đến ở đây. Cái sự kết tinh của tâm hồn ấy cũng lắm gian nan chứ không phải là một trò đùa của cảm xúc. Anh có đến với cuộc sống bằng một cái nhìn chăm chú với tất cả sự nâng niu, trân trọng thì đến lượt mình cuộc sống mới có thể ban tặng cho anh cái nguồn cảm hứng vô tận của sáng tạo. Chính Hữu là một nhà thơ quân đội. Sự nghiệp sáng tác của ông gắn liền với mảng đề tài chiến tranh và người lính. Tuy vậy, trong buổi đầu viết về họ nhà thơ đâu đã ngay lập tức có được thành công. Trong bài thơ “Ngày về” được ông viết năm 1946, vẫn còn đó những câu thơ kiểu như “Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm – Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa”. Nghe qua thì thật hào hùng lẫm liệt nhưng ngẫm kỹ thì đó đâu phải là hình ảnh chân thực của người lính trong buổi đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ và thiếu thốn lúc bấy giờ. Những giày vạn dặm, bụi trường chinh hay áo hào hoa có một cái gì đó thật khiên cưỡng , giống như hình ảnh của một thời đại hiệp sĩ đã lùi xa trong quá khứ. Phải đợi đến khi Chính Hữu trở thành người lính của trung đoàn Thủ đô anh hùng, được sống thực sự cuộc sống của người lính thì lúc bấy giờ thơ của ông viết về họ mới trở nên mộc mạc và chân thực. Hình ảnh “Áo anh rách vai – Quần tôi có vài mảnh vá – Miệng cười buốt giá – Chân không giày” mới chính là bức chân dung sống động nhất của người lính lúc bấy giờ. Xin lấy thêm một ví dụ khác. Nhà thơ Hoàng Cầm đã viết bài thơ “Bên kia sông Đuống” trong hoàn cảnh nào? Nếu không phải là đang ở bên này bờ sông, nghe tin bên kia sông Đuống quê hương Kinh Bắc của ông đang bị giặc bắn phá tơi bời, Hoàng Cầm đã thức trắng đêm viết liền một mạch bài thơ nổi tiếng này. Đó là những dẫn chứng hùng hồn khẳng định rằng những tác phẩm văn học thực sự có giá trị bao giờ cũng đến từ những nỗi xúc động vô cùng sâu sắc, mãnh liệt và đúng là đã kết tinh của tâm hồn người sáng tác. Mảnh đất sống của tác phẩm chính là những rung động chân thành của nhà văn bắt nguồn từ hơi thở ấm nóng của cuộc đời. Tuy nhiên, đó chỉ mới là một nửa của vấn đề, nhà văn Nguyễn Đình Thi trong nhận định của mình còn nói tác phẩm văn học vừa là sợi dây truyền cho mọi người sự sống mà nghệ sỹ mang trong lòng. Đây chính là chức năng cầu nối đặc trưng giữa nhà văn và bạn đọc thông qua sợi dây tác phẩm. Khi nhà văn nung nấu, chưng cất được một điều gì đó thật lớn lao, mới mẻ từ cuộc sống anh ta sẽ gọt đẽo một cách công phu
để biến nó thành một ý nghĩa nhân văn và gửi vào tác phẩm, từ tác phẩm mang đến với cuộc đời. Cái chặng hành trình ấy là một vòng quay hoàn hảo của sáng tạo và tái tạo. Cái đời sống trong tác phẩm tất nhiên là bắt nguồn từ đời sống của thế giới hiện thực. Tuy nhiên, nếu như cái đẹp trong cuộc sống chỉ mới là hình ảnh của một viên ngọc thô thì nhà văn khi đưa vào tác phẩm đã mài giũa, gọt đẽo để sao cho nó có thể trở thành một viên ngọc toàn bích. Chính nhờ cái quyền năng vô tận ấy của sáng tạo từ ngòi bút của nhà văn cho nên cái đẹp trong tác phẩm mới luôn trở thành một nguồn hấp dẫn rất lớn. Chúng ta, phàm là người Việt Nam, có ai mà không cảm thấy rất đỗi thân thuộc với những lũy tre làng. Nhưng, đã có ai trong chúng ta cảm nhận thấy những cây tre bình dị kia cất lên được những giai điệu của cuộc sống? Vậy mà khi đọc những câu thơ này của Nguyễn Duy “Lưng trần phơi nắng, phơi sương – Có manh áo cộc tre nhường cho con ” thử hỏi có ai có thể cầm được lòng mình? ... Chính Bielinnki cũng đã từng nói rằng:“Bất cứ thi sĩ nào cũng không thể trở thành vĩ đại nếu họ chỉ do ở mình và miêu tả mình – dù đó là miêu tả những nỗi đau hay niềm hạnh phúc. Bất cứ thi sĩ vĩ đại nào, sở dĩ họ vĩ đại là vì những đau khổ và hạnh phúc của họ bắt nguồn từ hoẳng sâu thẳm của lịch sử xã hội, bởi vì họ là khí quan của xã hội, của thời đại và của nhân loại. Sự nhạy cảm của tác giả sẽ là cây chìa khóa tạo nên sự đánh động, thức tỉnh những sự đồng điệu ở tâm hồn người đọc. Cần phải nói thêm trong nhận định của Nguyễn Đình Thi, ông đã chú trọng tới cái gọi là sự sống mà nghệ sỹ mang trong lòng. Điều đó khẳng định những tác động tích cực của tác phẩm văn học vào cuộc sống. Một khi sợi dây truyền của nó chính là bằng những xúc động mãnh liệt của tâm hồn thì người đọc sẽ được soi tỏ bằng những quan điểm nhân văn tích cực và chính họ sẽ biết cách điều chỉnh hành vi trong cuộc sống của mình mà hướng tới cái cách sống đẹp hơn. Tác phẩm văn học cũng như một cách nói khác của Nguyễn Đình Thi trong văn bản “Tiếng nói của văn nghệ” rằng không chỉ trỏ cho ta con đường đi mà chỉ vào bên trong đốt lửa lên trong lòng chúng ta khiến chúng ta có sự tiếp cận với cuộc đời một cách tích cực hơn. Đối với hoàn cảnh của nhà thơ Thanh Hải khi làm bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” thì đó là một trường hợp rất đặc biệt khiến chúng ta vô cùng xúc động. Không thể ngờ rằng trong những thời khắc cuối cùng của cuộc đời trên giường bệnh mà ông vẫn có thể làm nên một dòng cảm xúc trữ tình trong sáng, tin yêu phơi phới một tinh thần lạc quan và nổi bật một khát vọng hòa nhập, cống hiến đẹp đẽ đến là vậy. Bài thơ trước hết là sự kết tinh, chắt lọc của tâm hồn thơ Thanh Hải với cách nói nhỏ nhẹ, khiêm nhường nhưng có sức lay động, làm xao xuyến lòng người. Để rồi, từ những cảm xúc trong sáng ấy của mình tiếng lòng của ông đã tạo nên những dư ba trong tâm hồn hàng triệu triệu độc giả mọi thời đại. Mở đầu bài thơ này, khi viết về cái đẹp của mùa xuân, nhà thơ không đi trên những lối mòn quen thuộc đã trở nên sáo rỗng với những chim én liệng, hoa Mai, hoa Đào chúm chím nở hay mưa bụi rơi rơi ... Nhà thơ đã chăm chú quan sát, chăm chú lắng nghe để rồi phát hiện, nâng niu trân trọng những cái đẹp thật đơn sơ, bình dị để đưa vào những vần thơ của mình. Đó dù chỉ là một bông hoa lục bình tím biếc mọc giữa dòng sông xanh hay chỉ là âm vang trong trẻo của một tiếng chim chiền chiện nhưng bức tranh mùa xuân mà nhà thơ mang lại vẫn có đủ sức làm lay động lòng
người. Cái đẹp đó rõ ràng là đã kết tinh từ một tâm hồn dung dị, luôn luôn tha thiết gắn bó và khao khát hòa nhập với cuộc đời. Nằm trên giường bệnh nhưng Thanh Hải vẫn thể hiện được mối giao hòa rất đẹp giữa tâm hồn mình với cuộc đời chung. Ông vẫn cảm nhận được ngoài kia là không khí thời đại, là tinh thần cách mạng đang vô cùng hối hả khẩn trương với lộc giắt đầy quanh lưng trên vành lá ngụy trang của người ra trận và lộc cũng đang trải dài trên nương mạ của người ra đồng. Cả dân tộc đang rất phấn khởi, tin tưởng trên con đường hàn gắn vết thương chiến tranh và từng bước dựng xây cuộc đời mới. Nhà thơ vì thế đã cảm nhận được đất nước như vì sao – cứ đi lên phía trước với một niềm tin vô cùng tươi sáng . Từ cái đẹp của mùa xuân đất trời tạo vật cũng như từ cái đẹp của mùa xuân cuộc đời, mùa xuân thời đại như thế nhà thơ đã cảm thấy trỗi dậy trong lòng mình biết bao thôi thúc, giục giã. Ông chân thành tha thiết bày tỏ ước nguyện được đóng góp một chút tôi nhỏ bé của mình trước cái chung đang bừng bừng khí thế ấy. Đó là một niềm khao khát đẹp đẽ được nhà thơ phô ra tận đáy lòng mình. Ông muốn làm một con chim hót để hòa vào muôn ngàn tiếng chim của cuộc đời, muốn làm một nhành hoa nở để hòa vào cái vườn hoa trăm hồng ngàn tía của đất nước và muốn làm một nốt trầm xao xuyến để góp mình vào trong bản hòa ca rộn ràng của thời đại. Những ước nguyện ấy đều khiêm nhường, bình dị nhưng đều giống như những ngọn lửa của niềm say mê cháy sáng đến hết mình. Cái mùa xuân nho nhỏ đáng yêu trong sự sống của nhà thơ được ông thành tâm dâng cho cuộc đời bằng tất cả sự tin yêu và tự nguyện. Dù đó là lúc tuổi hai mươi trẻ trung tràn đầy nhiệt huyết hay dù đó là khi tóc bạc tuổi già bóng xế. Trái tim nhỏ bé trong lồng ngực nhà thơ còn đập thì vẫn còn đó cái khát vọng lớn lao được cống hiến những gì tinh túy nhất của bản thân cho cuộc đời. Bài thơ đặt ra một vấn đề trang trọng về lý tưởng sống nhưng Thanh Hải đã không hề hô hào mang tính khẩu hiệu. Ông đã chứng tỏ nó bằng một hiện thực rất cảm động của chính cuộc đời mình. Bằng chứng là trong những tháng ngày vật lộn với tử sinh trên giường bệnh nhưng ông đã không hề buông xuôi, bỏ cuộc. Trái lại, ông đã tận dụng chút ít thời gian còn lại của cuộc đời để làm nên khúc ca “Mùa xuân nho nhỏ”. Đó thực sự là một đóng góp đầy hữu ích mà chúng ta phải ghi nhận. Bài thơ giản dị như tiếng lòng của Thanh Hải và cũng chính là món quà đẹp đẽ mà ông gửi lại cho đời trước lúc đi xa. Nổ lực phi thường ấy của nhà thơ càng cho thấy rằng nếu không để cho tâm hồn của mình gắn bó thiết tha với cuộc đời thì làm sao ông có thể làm nên một khúc ca đầy những vẻ đẹp trong sáng tin yêu như thế trong một hoàn cảnh đặc biệt của mình . Từ mùa xuân nho nhỏ của mình, Thanh Hải đã truyền vào trái tim độc giả một nhiệt huyết thật sự say mê của cuộc sống. Không phải là những bài học luân lý khô cứng mang tính giáo điều sách vở mà nhà thơ đã mang đến cho chúng ta một tiếng nói của tâm hồn. Chổ giao nhau giữa tác phẩm với độc giả chính là những tri âm, tri kỉ, những đồng điệu của cảm xúc. Chính vì lẽ đó mà nó có sức mạnh hơn bất kỳ một bài thuyết giảng nào. Từ những hình ảnh dòng sông xanh, bông hoa tím, tiếng chim chiền chiện mà nhà thơ đã liệt kê rất chọn lọc ở phần đầu của bài thơ như càng khiến chúng
ta biết nâng niu, trân trọng hơn những cái đẹp đơn sơ trong cuộc sống của mình. Đó cũng giống như cái hình ảnh của một bãi bồi bên kia sông Hồng đã trở thành một niềm thao thức thiết tha, cháy bỏng của nhân vật Nhĩ trong truyện ngắn “Bến Quê” của nhà văn Nguyễn Minh Châu hay cũng giống như tiếng gà cục tác, ổ trướng hồng tuổi thơ trong bài thơ “Tiếng gà trưa” của nhà thơ Xuân Quỳnh. Những hình ảnh cuộc đời mộc mạc ấy nếu ta biết trân trọng, yêu thương gắn bó thì đó sẽ mãi mãi là những mảnh tâm hồn đẹp đẽ và sẽ cùng ta đi suốt cuộc đời. Từ hình ảnh của mùa xuân đất nước, mùa xuân thời đại với những chồi tơ, lộc biếc trên vành lá ngụy trang của người ra trận cũng như trên nương mạ của người ra đồng được Thanh Hải nói đến trong bài thơ đã đốt lửa lên trong lòng chúng ta tình yêu và niềm tin vào con đường đi tươi sáng trong sự nghiệp cách mạng lớn lao của dân tộc. Nó khiến chúng ta càng thêm gắn bó hơn với chính cuộc đời này. Nhưng có lẽ bức thông điệp đáng chú ý nhất trong “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải chính là quan điểm sống cống hiến vô cùng cao đẹp của nhà thơ. Điều này đã tạo nên những tác động hết sức tích cực trong suy nghĩ cũng như hành động của chúng ta. Sẽ không quá khi nói rằng những lời thơ mở lòng kia của một một nhà thơ trước lúc đi xa đã soi tỏ cho chúng ta một cách nhập thế khi đang băn khoăn tìm kiếm lẽ yêu đời. “Mùa xuân nho nhỏ” vì thế đã tạo nên một sự cộng hưởng giữa nhà thơ với độc giả. Tiếng lòng của Thanh Hải đã trở thành tiếng hát của muôn nhà, tiếng hát của lý tưởng sống cao đẹp. Cái tôi riêng của người nghệ sỹ rất chân thành, thiết tha ấy đã hòa vào cái ta chung của cuộc đời làm thức dậy trong mỗi con người mà đặc biệt là những con người trẻ tuổi ý thức về một lẽ sống đẹp. Rằng, không có gì đáng trân trọng hơn của một đời người khi chúng ta biết thành tâm cống hiến những gì đẹp nhất của chính bản thân cho dân tộc, cho đất nước, cho thời đại. Văn học chính là một bờ bến vô cùng của nghệ thuật ngôn từ. Nghệ sỹ chính là người khơi nguồn cho những sáng tạo đó. Đến lượt mình độc giả vừa là người tiếp nhận lại vừa là người đồng sáng tạo. Chổ giao thoa kỳ diệu ấy giữa tác phẩm với thế giới bạn đọc đã khiến cho dù trải qua bao nhiêu thăng trầm dâu bể, bao nhiêu biến thiên thay đổi của cuộc đời nhưng những áng văn lạ, những vần thơ hay vẫn luôn có một sức hấp dẫn đặc biệt. Ta đến với tác phẩm văn học như là để soi mình trong tấm gương lớn của cuộc đời để từng bước hoàn thiện mình hơn. Đề 4: Câu 1: Phân tích vẻ đẹp của nhân vật Thúy Vân trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” – trích “Truyện Kiều” – Nguyễn Du – Ngữ Văn 9 – Tập I. Câu 2: Cảm nhận của em về đoạn thơ sau: “Năm giặc đốt làng cháy tàn, cháy rụi Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi Đỡ đần bà dựng dậy túp lều tranh Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh: “Bố ở chiến khu bố còn việc bố Mày có viết thư chớ kể này kể nọ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên”” Bài làm: Câu 1: Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” trong kiệt tác “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du xưa nay vẫn được người đời tán tụng là đã đạt đến
trình độ nghệ thuật đỉnh cao trong việc giới thiệu vẻ đẹp tột đỉnh nhân gian của những giai nhân tuyệt thế. Nhân vật Thúy Vân dù chỉ được miêu tả trong bốn câu thơ hết sức ngắn gọn và cũng chỉ là được xây dựng với mục đích làm một điểm tựa để làm nổi bật bức chân dung Thúy Kiều thông qua nghệ thuật đòn bẩy nhưng dù vậy cái đẹp của người con gái này hiện lên dưới ngòi bút của thiên tài Nguyễn Du vẫn để lại cho người đọc những ấn tượng vô cùng sâu sắc. Có thể thấy rằng nhân vật Thúy Vân là một trong số rất nhiều hình tượng của tác phẩm “Truyện Kiều” được tác giả Nguyễn Du xây dựng bằng bút pháp ước lệ cổ điển. Tuy nhiên, điều đáng nói là nhà thơ đã không hề phụ thuộc vào các yếu tố nghệ thuật vốn dĩ công thức, khô cứng đó mà ông vẫn luôn biết cách buộc chúng cất lên những tiếng nói phục vụ cho dụng ý nghệ thuật của mình. Bốn câu thơ nói về Thúy Vân chính là một trong những thành công như thế: “Vân xem trang trọng khác vời Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang Hoa cười ngọc thốt đoan trang Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da” Nét chung của bút pháp ước lệ là miêu tả chủ yếu dựa vào gợi chứ không phải tả. Và, trên tinh thần như thế người đọc có thể liên tưởng tới cái đẹp của nàng Vân là sang trọng, quý phái, dịu dàng, đoan trang, phúc hậu. Nàng có một khuôn mặt ngời ngợi như ánh trăng, miệng cười tươi như hoa, tiếng nói trong như ngọc, mây phải chấp nhận thua vẻ đẹp bồng bềnh của mái tóc, tuyết phải chịu nhường sự nõn nà của làn da. Đó quả thực là một cái đẹp hoa nhường nguyệt thẹn làm bất lực mọi ngôn ngữ hội họa - một cái đẹp có một không hai trên cõi đời này. Có người cho rằng chữ ngài trong vế câu thơ nét ngài nở nang là ngôn ngữ địa phương của miền Trung trung bộ (ngài có nghĩa là người). Giả thuyết này cho rằng ở đây đại thi hào Nguyễn Du muốn nói Thúy Vân có một nét người nở nang khỏe mạnh. Tuy nhiên, quan điểm này là không có nhiều cơ sở thuyết phục. Bởi vì nếu vẻ đẹp của Thúy Vân mà thiên về sự khỏe mạnh và có đôi chút cơ bắp như những thôn nữ thì nàng sẽ mất đi cái dáng dấp thanh tú, cao quý của một cô gái sống trong cảnh “Êm đềm trướng rũ màn che – Tường đông ong bướm đi về mặc ai”. Có lẽ, chúng ta nên hiểu chữ ngài ở đây là ý trong thành ngữ mày ngài mắt phượng. Rằng trên khuôn mặt cao quý của nàng Vân được điểm xuyết một nét mày ngài rất đắc địa càng tôn lên vẻ đẹp mê hồn của nàng. Cũng bàn về nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ chúng ta lại sẽ thấy tác giả của kiệt tác “Truyện Kiều” đã cao tay như thế nào khi dùng cái chữ “thốt”. “Thốt” ở đây cố nhiên nghĩa là nói nhưng còn hàm thêm cả nghĩa kiệm lời. Tiếng nói của nàng Vân thỏ thẻ giọng oanh vàng trong như ngọc khiến ai cũng muốn nghe mà nàng lại còn rất ít nói nữa cho nên mỗi lời của nàng lại càng đặc biệt có giá trị. Đó là chưa kể việc nếu nhà thơ vô tình dùng chữ nói thay vì dùng chữ thốt như ông đã làm thì không biết chừng câu thơ “Hoa cười ngọc thốt đoan trang” lại dễ khiến người ta liên tưởng tới thành ngữ cười cười nói nói. Hóa ra vì thế nàng Vân lại là một cô gái vô duyên. Nhưng, như chúng ta đã thấy cái lỗi sơ đẳng như vậy không thể xảy ra đối với một người có bút lực thâm hậu như đại thi hào Nguyễn Du. Chỉ cần khai thác một chữ thốt
ấy thôi cũng đủ để chúng ta phải bái phục trước cái tài hoa, cái lịch lãm, cái uyên bác hơn người của ông chứ không cần phải minh họa thêm những tuyệt kỹ về ngôn ngữ khác trong toàn bộ kiệt tác “Truyện Kiều”. Nàng Vân đẹp – một cái đẹp mà chẳng ai có thể gọi tên được một cách chính xác, rõ ràng nhưng ai cũng có thể liên tưởng tới nàng là một giai nhân tuyệt thế. Đó là một cái đẹp kỳ diệu được đại thi hào nhào nặn ra từ chỉ trên các chất liệu ước lệ. Nhưng, không dừng lại ở đó. Qua cách nói của câu thơ Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da, ông còn chủ ý nhấn mạnh rằng người con gái này có được một lợi thế trời ban đó là cái đẹp của nàng luôn có sự hòa hợp với những cái đẹp khác. Bản thân cái đẹp ấy nó đã dự báo cho nàng một tương lai êm đềm, bình ổn không có những bão giông, sóng gió. Đây là điều mà cái đẹp “sắc sảo mặn mà” của cô chị Thúy Kiều đã không có được. Hình ảnh Thúy Vân suy cho cùng đứng trong đoạn trích này chính là một vế so sánh cực kỳ có sức đối trọng mà tác giả Nguyễn Du đã xây dựng để từ đó làm nổi bật bức chân dung của nhân vật Thúy Kiều thông qua nghệ thuật đòn bẩy. Tất cả những gì mà ông nói về nàng Vân cũng chính là những sự chuẩn bị mang tính dọn đường trước khi nhà thơ miêu tả về nhân vật chính của mình. Tuy nhiên, có lẽ bằng cái tấm lòng đặc biệt trân trọng, mến phục tài sắc của chị em Thúy Kiều mà dù chỉ là bốn câu thơ ngắn mang tính dọn đường như thế nhưng đó vẫn là những câu thơ vô cùng đáng đọc. Câu 2: Chúng ta biết rằng bài thơ “Bếp lửa” nổi tiếng của nhà thơ Bằng Việt được ông viết trong khi đang học tập và nghiên cứu ở nước ngoài. Đây là một dòng cảm xúc trữ tình chân thành, xúc động của một đứa con xa xứ nhớ về quê hương, nguồn cội mà cụ thể là về người bà kính yêu cùng với cái bếp lửa đơn sơ nhưng kỳ diệu của bà. Tuy nhiên, nổi bật trong đó, đoạn thơ nói về cái dấu ấn của kỹ niệm: “Năm giặc đốt làng cháy tàn, cháy rụi Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi Đỡ đần bà dựng dậy túp lều tranh Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh: “Bố ở chiến khu bố còn việc bố Mày có viết thư chớ kể này kể nọ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên”” vẫn để lại cho người đọc những ấn tượng sâu sắc hơn cả. Không khó để nhận ra bên cạnh phương thức biểu đạt chính của đoạn thơ là biểu cảm thì ở đây nhà thơ đã kết hợp rất tài tình cách nói tự sự. Đó là một cái cột mốc không ai có thể quên trong hành trang của một đời người. Nhân vật trữ tình người cháu dù lúc này đang ở rất xa bà: xa cả thời gian lẫn không gian nhưng vùng sáng hồi ức của anh ta được tái hiện trong đoạn thơ vẫn hết sức chân thành, sống động, bổi hổi bồi hồi y như mọi việc chỉ vừa xảy ra ngày hôm qua. Điều này cho thấy đó phải là một kỷ niệm ăn sâu trong tiềm thức thì chỉ cần một đánh thức thôi nó mới có thể hiện về vẹn nguyên đến là như vậy. Người đọc có cảm giác rằng những gì hiện ra dưới những con chữ của Bằng Việt trong đoạn thơ này giống như những thước
phim được quay một cách chầm chậm và lắng lại trong đó biết bao nỗi niềm bồi hồi của ký ức. Là một người Việt Nam yêu nước hẳn chẳng ai có thể cầm được lòng mình khi đọc những vần thơ nói về sự kiện “Năm giặc đốt làng cháy tàn, cháy rụi”. Có một cái gì đó trỗi dậy trong chúng ta vừa có sự đau xót lại vừa có cả niềm phẫn uất. Cách nói quá “cháy tàn, cháy rụi” cùng với những liệt kê rất có tính chọn lọc về hình ảnh những người dân tội nghiệp “lầm lụi” trở về trong đống hoang tàn đổ nát đã làm nổi bật trước mắt người đọc bức tranh của một làng quê bị bắn phá vô cùng dữ dội. Các từ láy giàu sắc thái biểu cảm như “lầm lụi” “đỡ đần”được chọn lựa và sử dụng một cách tinh tế trong những câu thơ này đã khiến cho ai ai cũng cảm thấy rất đỗi chạnh lòng. Một niềm thương cảm sâu sắc khi nhớ về quá khứ vì thế đã chi phối dòng hồi ức này của nhân vật trữ tình người cháu. Nếu như ở ba câu thơ đã nói ở trên giọng điệu của từng lời thơ có vẻ như đã hơi chùng xuống với một sự trầm lắng, nghẹn ngào thì trong phần còn lại của đoạn thơ tất cả lại bổng bùng lên rất mạnh mẽ. Điều này giống như hai nửa tương phản của một bức tranh với những gam màu đối lập. Nhà thơ Bằng Việt đã mượn điều này để tạo nên một cách nói mang tính nghệ thuật đòn bẩy. Bức tranh quân thù tàn phá quê hương càng khủng khiếp bao nhiêu thì vẻ đẹp của hình tượng người bà sau đó lại càng nổi bật bấy nhiêu. Chẳng ai có thể tin nổi một người đàn bà nhà quê lam lũ, quanh năm suốt tháng quanh quẩn sau lũy tre làng lại có thể có được một nghị lực sống tuyệt vời đến thế. Trước hoàn cảnh của làng quê bị bắn phá tàn hoang, rất dễ khiến nhiều người bi quan, chán nản và hoang mang, lo lắng thì bà vẫn cứ thản nhiên đối diện với nó. Tinh thần của bà vẫn rất “vững lòng” và vẫn có thể dặn cháu một cách “đinh ninh” rằng: “Bố ở chiến khu bố còn việc bố Mày có viết thư chớ kể này kể nọ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên” Cái tư thế hiên ngang ấy của bà được thể hiện qua một lời dặn cháu vô cùng bình dị. Dù giờ đây người cháu đã ở rất xa nhưng anh ta vẫn nhớ như in những lời bà nói. Chính vì lẽ đó cho nên khi tái hiện dòng hồi ức thiết tha sống động của anh nhà thơ Bằng Việt đã chọn duy nhất đoạn thơ này để sử dụng lời dẫn trực tiếp. Một lời nói chân chất ngày nào của bà nhưng hoàn toàn xứng đáng có một chổ đứng không bao giờ bị thay thế trong trái tim người cháu. Là bởi, nó không chỉ bộc lộ cái khí chất hiên ngang, bất khuất mà quan trọng hơn còn là cái ý thức công dân tuyệt đẹp của bà. Vì muốn cho người ở tiền tuyến an tâm chắc tay súng đánh giặc bà đã yêu cầu cháu phải nói dối. Rằng: “chớ kể này kể nọ” và “Cứ bảo nhà vẫn được bình yên”. Đó là một lời nói dối rất cần thiết. Phát hiện ra điều này rõ ràng là nhà thơ đã tạo nên ở hình tượng người bà vẻ đẹp của một hậu phương thu nhỏ. Trong khó khăn gian khổ của đời sống chiến tranh giặc giã nhưng bà đã hòa được mình vào cái tinh thần chung của dân tộc: Tất cả vì tuyến đầu tổ quốc. Bà chính là một chổ dựa tinh thần tuyệt vời cho cháu trong một quãng đời không thể nào quên. Đoạn thơ đã khép lại nhưng dư âm của nó vẫn còn những ám ảnh nhất định trong lòng người. Hẳn là, khi còn đang xa xứ nơi đất khách quê người nhưng khi được
sưởi ấm lòng mình với những dòng hồi ức đẹp đẽ như thế, nhân vật trữ tình của bài thơ chắc chắn sẽ rất khâm phục, ngưỡng mộ và tự hào về người bà của anh. Bởi vì cái đẹp mộc mạc bình dị ấy của bà trong hoàn cảnh điển hình của bài thơ nói chung và đoạn thơ này nói riêng đã trở nên lung linh một sắc màu huyền thoại. Sức truyền cảm của vùng sáng hồi ức này vì thế mãi mãi không bao giờ là vấn đề cần bàn cãi. Đề 5: Con bé Thu (Nhân vật trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng – Ngữ văn 9 – Tâp I) sau khi bị ba đánh đã vùng vằng bỏ sang nhà bà ngoại, trong đêm ở với bà, nghe bà kể chuyện “ba nó đi đánh Tây bị Tây bắn bị thương – bà nhắc lại tội ác của mấy thằng Tây ở đồn đầu vàm cho nó nhớ” thì con bé đã hiểu ra tất cả và “Nghe bà kể nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn” Hãy thay lời bé Thu viết một đoạn văn ngắn bằng lời độc thoại nội tâm nói lên tâm trạng của nhân vật lúc đó. Bài làm. Ba ơi! bây giờ thì con đã hiểu tất cả rồi ba ạ! Mọi thứ xảy ra với ba con ta trong mấy ngày qua với con giống như một cơn ác mộng. Con đã vấp phải một sự sai lầm không thể tha thứ và đã tự làm mất đi những khoảng thời gian lẽ ra sẽ rất hạnh phúc khi được ở bên ba. Nhưng, ba ơi! Con không nhận ba không phải vì con không yêu ba cũng không phải vì con chê ba xấu xí mà vì con cứ ngỡ ba không phải là người ba ruột thị của con. Từ lâu, con đã khắc sâu trong tâm trí hình ảnh của một người ba phải giống hệt người trong bức hình chụp chung với má. Chỉ vì con quá thơ dại nên đã không hiểu hết những trái ngang mà hoàn cảnh éo le của chiến tranh mang lại. Cái vết thẹo trớ trêu trên khuôn mặt của ba là bởi vì ba đi đánh Tây bị Tây bắn bị thương – bà đã nhắc lại tội ác của mấy thằng Tây ở đồn đầu vàm cho con nhớ. Chính vì nó mà đã khiến cho khuôn mặt của ba bị biến dạng. Ba khác quá nhiều với người chụp trong tấm ảnh nên con đã không thể nhận ra và một mực xem ba như một người xa lạ. Tại sao không ai nói với con điều này sớm hơn? Dù tất cả cũng chỉ tại tội ác tày trời của thằng giặc Mỹ xâm lược và cả hai ba con mình đều là những nạn nhân rất tội nghiệp nhưng con vẫn rất day dứt, rất hối hận và tự trách mình. Tại sao con lại không có đủ sự nhạy cảm để biết rằng đó là người ba đích thực của mình cơ chứ. Làm gì có một người xa lạ nào lại có thể hướng về con những tình cảm như ba đã từng thể hiện. Bây giờ thì con mới càng thấm thía những nỗi đau đớn, tủi nhục, hẫng hụt mà ba đã phải trải qua. Còn có nỗi đau nào hơn khi đứa con ruột thịt mười mươi đã vùng bỏ chạy trong lần đầu gặp mặt để rồi ba phải đứng chôn chân như người chết điếng, hai tay buông thõng về phía trước như bị gãy. Thậm chí, trong suốt cả mấy ngày sau đó ba càng cố gắng xích lại gần con bao nhiêu thì con lại càng xa lánh, hắt hủi ba bấy nhiêu. Khi ba bất đắc dĩ phải đánh con vì con dám hất tung cả chén cơm làm cơm bắn tung tóe cả mâm chỉ vì ba đã nhón tay gắp một miếng trứng cá to vàng cho con chắc là ba đã ở vào trạng thái tận cùng của sự đau khổ và tuyệt vọng. Ba ơi! Sự hiểu lầm cho đến tận bây giờ thì con mới thấu suốt nhưng con đã làm nên một cơ sự trời không dung đất không tha. Ngay bây giờ con muốn được trở về bên ba, được sà vào lòng ba. Con sẽ hôn ba thật nhiều mà đặc biệt là vết thẹo. Hãy tha lỗi cho con ba nhé! Con yêu ba hơn bất cứ mọi thứ trên đời!