Data Loading...

Thương Cả Cho Đời Bạc Flipbook PDF

Nguyễn Huy Thiệp


102 Views
32 Downloads
FLIP PDF 1.37MB

DOWNLOAD FLIP

REPORT DMCA

Nguyễn Huy Thiệp

Thương Cả Cho Đời Bạc

vietmessenger.com

1

TÂM HỒN MẸ Khi Đăng hai tuổi mẹ nó chết đột ngột vì sốt xuất huyết. Vì thế, hình ảnh của nó về một người mẹ rất mơ hồ. Nó ở với ông bà ngoại. Bố nó đã đi lấy vợ khác, chỉ thỉnh thoảng mới đến thăm nó. Đăng hình dung mẹ theo cách nghĩ riêng của nó. Nó hay xét nét sự quan tâm săn sóc của những người xung quanh nó bằng cách đặt ra câu hỏi : nếu là mẹ sẽ thế nào? Chẳng hạn, lúc tắm bà ngoại kỳ cọ kỹ quá, nó nghĩ ngay rằng nếu là mẹ thì không làm thế. Mẹ chỉ gội đầu và kỳ cọ những chỗ chủ yếu, còn ở chỗ khác thì mẹ để cho nó làm lấy ăn cơm cũng vậy, nếu là mẹ thì không làm như ông ngoại. Ông ngoại không hiểu nó không thích lạp xường, đáng lẽ đừng ép thì đằng này ông lại ép, nổi giận và cuối cùng ông chén luôn miếng lạp xường. Nó không tiếc miếng lạp xường, nó chỉ tủi thân vì ông không hiểu nó. Bây giờ khi lên bảy, Đăng hiểu không ai có thể cư xử săn sóc cho nó như là mẹ được. Thường mọi người làm quá yêu cầu hoặc cư xử với nó không thật đến nơi đến chốn. Cả hai cách ấy đều buồn. Nó là đứa bé nhạy cảm, nhạy cảm quá mức, điều ấy thật không tốt. Tuy thế, nó không biết khắc phục thế nào. Đến bảy tuổi, Đăng chỉ quanh quẩn trong nhà. Nó ở với toàn người lớn. Người lớn không hiểu nó. Nó luôn cảm thấy tủi thân. Tóm lại là không thể bằng mẹ. Mẹ thì khác, dĩ nhiên rồi. Mẹ là hình ảnh tuyệt diệu, nó không hình dung là sẽ thế nào, nhưng rõ ràng nó cảm nhận được. Trong số bạn bè ít ỏi của Đăng có Thu. Thu bảy tuổi, có bố mẹ, có cả em nữa. ở trong hoàn cảnh như thế nên ý nghĩ và tình cảm của Thu khác nó.

2

Thu hồn nhiên và khá tự do. Nó có thể đi chơi mà chẳng cần phải định giờ về. Nó khác Đăng. Đăng bị một loạt qui định kìm giữ. Ông bà ngoại Đăng luôn luôn căng thẳng trong trách nhiệm với đứa cháu mình. Từ việc chơi với Thu, điều này thật vô hại mà ông bà cũng đe nẹt, cấm đoán nó. Thu có đôi tai hồng và đôi mắt đen nháy. Không hiểu sao Đăng rất thích được ve vuất đôi tai hồng ấy và nhìn sâu vào đôi mắt đen nháy ấy. Mày nhìn như nuốt tao ấy. Mày tìm cái gì ở đấy Đăng bối rối. ừ, nếu là mẹ thì chắc cũng có đôi mắt như vậy. Không thể khác được. - Không, tao không tìm gì cả. - Nó đánh trống lảng. - Này, mày có hay khóc không? - Thỉnh thoảng. Phải có cái gì mới khóc chứ. Ai lại tự nhiên đi khóc bao giờ? Thế mà thỉnh thoảng tao lại tự nhiên khóc đấy - Đăng nói. Nó cố ngẫm nghĩ xem có lần nào nó tự nhiên khóc không? - Đấy là hồn của mẹ mày. - Thu nghiêm trang nói. Nó đã nghe đến chuyện người ta gọi hồn. - Hồn mẹ mày về bảo : "Này Đăng, con khóc đi, khóc đi cho vơi nỗi buồn... " - Nỗi buồn là gì? - Đăng hỏi. - Không biết, nhưng nó cũng giống như đánh mất cái gì. Hôm qua tao đánh mất cái cặp tóc, thế là tao buồn. Tao đánh mất thì tao không buồn. - Đăng kiên quyết. - ông ngoại tao bảo : "ở đời người ta đánh mất nhiều thứ lắm. Người mất của cải, người mất tâm hồn... "

3

- Tâm hồn là gì? - Nó ở đây này - Đăng chỉ vào bụng. - Trong bụng người ta toàn cứt. - Thu thở dài. - Mẹ tao bảo thế. Nếu thế thì kinh quá nhỉ ? - Đấy là mẹ mày nói bậy nói bạ thế thôi. - Đăng an ủi. Tâm hồn nó giống như dây đàn ấy, ông ngoại tao bảo thế, khi có ngọn gió thổi đến thì nó rung lên khe khẽ : a-a-a-a... Tâm hồn mà kê u a-a thì hay thật. - Thu cười như nắc nẻ. Nó nhắm tịt mắt lại và nhại : a-a-a-a... - Mày chắng hiểu gì cả. - Đăng bực dọc. - Mày không có tâm hồn. Mày giống mẹ mày ấy. Mẹ mày chỉ thích tiền thôi. - Có thế thật. - Thu công nhận. - Có thể mẹ tao không có tâm hồn thật dấy! Chẳng cần ! Mà có tâm hồn làm gì. Khi gió thổi đến nó lại kêu a-a thì kinh lắm. - Thu lại cười nắc nẻ. Đăng nhíu lông mày lại. Nó không thích Thu trêu nó. Nó bảo : - Mày cười như thế là đủ rồi đấy. Con gái hay cười là vô duyên lắm... - Vô duyên thì làm quái gì? - Vô duyên thì ế chồng đấy. - Thằng quỷ ạ. Mày như cụ non ấy! - Thu phát cáu, từ trong tiềm thức mơ hồ của nó, bản tính tự nhiên giục nó tìm cách trả thù bằng cách cố ý soi mói độc ác.

4

- Mày là thằng mồ côi. Mày cay nghiệt lắm! Đăng sững lại, mặt nó tái đi. Thu chọc mũi kim vào nơi nó đau nhất. Nước mắt nó trào ra, đôi môi run rẩy, tái dại. Thần sắc của nó biến đổi khiến Thu hoảng sợ. - Này này, tao đùa đấy... Hơi tí đã khóc. Thôi, thôi, nếu như mày muốn thì tao sẽ có tâm hồn. - Thu bối rối, nó bắt đầu phịa ra câu chuyện tưởng tượng để dỗ' bạn. - Đúng thế đấy, tối qua tao nghe thấy ở đâu đây vang lên âm thanh rất khẽ : u-u-u- u. Tao không hiểu tiếng gì... Từa tựa như gió thổi ngoài đầu hồi... Có thể đấy là tiếng tâm hồn của tao chăng? Đăng lắng nghe và nhậ n ra vẻ bối rối của bạn. Nó biết Thu phịa. Nó cảm thấy bị xúc phạm. Nó khóc to lên. Thu cũng òa khóc theo. Nghe thấy tiếng khóc, bà ngoại Đăng chạy xuống. Bà giận dữ nhìn Thu. Bà giang tay tát thẳng vào cái má trắng nhợt của đứa bé. Đăng hé mắt nhìn và không hiểu sao các vết đỏ trên má Thu làm nó nhớ đến năm cánh hoa mà có lần nó vẽ bằng bút dạ. °°° Vào lớp một, Đăng và Thu ngồi cùng một bàn. Với sự tiếp nhận thế giới xung quanh, Đăng luôn luôn cảm thấy thua kém Thu nhiều mặt. Thu dễ hòa hợp với bè bạn hơn. Nhận thức bài học cũng vậy Thu nhận thức nhanh hơn. Vô hình chung, Đăng cảm thấy có sự lệ thuộc nào đấy vào bạn. Một cách không tự giác, Thu như chỗ dựa cho Đăng về mặt tinh thần. Thu đứng ra bảo vệ cho Đăng trước các địch thủ trong lớp, nó nhắc nhở Đăng trong việc chuẩn bị bài vở. Cho đến lúc nào đó, Thu còn như lạm dụng vai trò của nó với Đăng. Bạn bè trong lớp đã chế

5

giễu chúng: - Cái Thu là mẹ, Thằng Đăng là con! Cái gì thằng Đăng cũng đều hỏi mẹ ! Những lời như thế đầu tiên làm Đăng phẫn nộ. Sau đó quen đi, một phần cũng do bản tính thụ động. Dần dà trong ý thức, Đăng có sự nể vì đặc biệt đối với Thu, sự nể vì đáng lẽ dùng cho người lớn. Thu rất tự hào về vai trò của nó đối với bạn. Nó nói với Đăng: - Tao là mẹ mày ! Thật đấy! Chúng nó nói không sai đâu ! Đăng cười bối rối, nó không tin Thu có thể trở thành mẹ. Tuy thế, nó không bác lại. Thật ra, nó cần có mẹ. Ông ngoại nó nói : "Mỗi người đàn bà đều có thiên tính người mẹ". Thu có thể thành mẹ được không? ít lâu sau xảy ra chuyện này: Lần ấy, cô giáo tổ chức cho lớp học cắm trại ở mãi ngoại thành.. Đăng và Thu bị lạc. Trời tối nhanh. ở cánh đồng, những bụi cây lúp xúp cứ sẫm dần và ánh lân tinh dưới cánh nhừng con đom đóm nhấp nháy. Thu khóc, nó ân hận vì tự nó nảy ý kiến đi xa. - Im đi. - Thằng Đăng cáu. - Khóc cũng chẳng ăn thua. Nó thở dài, - Tao đói quá ! Mày có cái gì ăn không? - Chẳng có, - Thu trả lời. - Tao cũng thấy đói. - Nếu là mẹ thì phải chuẩn bị đầy đủ cho một chuyến đi. Chí ít cũng là lương thực... - Đăng giễu cợt, nó cố ý nói rất độc ác. - Mày chẳng có trách nhiệm gì với tao cả. Lại khóc nữa. Mày là một bà mẹ tồi.

6

Thu nín khóc, nó lục lọi túi áo rồi đắc thắng: - Có cái kẹo ! Đúng rồi, tối qua dì Hải tao cho tao cái kẹo và tao quên mất. - Nó giành được chủ động nên bình tĩnh lại. - Thực ra không phải tao quên, tao chuẩn bị rồi tao cố ý quên đi. Đăng ngờ vực. Nó bóc cái kẹo cắn thử. Đúng kẹo thực, mà kẹo chanh. Có thể Thu là mẹ thật chăng? Mẹ bao giờ cũng tìm ra được một cái gì trong những hoàn cảnh khắc nghiệt. Nó cắn một nửa, một nửa đưa cho Thu và nó vừa dùng đâu lưỡi lăn lăn nửa cái kẹo trong miệng vừa suy nghĩ. Nếu có lửa. - Nó bắt đầu trò đùa theo cách của nó, cũng là một thể nghiệm theo cách của nó. - Nếu mày là mẹ thì mày thử nghĩ xem sao? Thu bối rối. Không thể lật túi để tìm bật lửa. Vận may chỉ đến có một lần thôi, dưới hình thức cái kẹo... Nó nhíu mắt suy nghĩ. - Cứ đi đi. Sẽ có lửa đấy, tao sẽ tìm ra lửa. Đăng cười buồn rầu, nó nói một cách nghi hoặc : - Nếu mày tìm được lửa thì mày là mẹ thật. - Nó bật cười. - Và tìm ra lửa thì tao sẽ nghĩ ra cách để cho người ta tìm thấy chúng mình. Chúng vừa nói chuyện vừa đi men theo bờ ruộng. Chúng đi vào một khoảng đất trống có những nấm đất tròn u ám, lạnh lẽo. Đấy là bãi tha ma. Cái Thu chợt nhớ, năm ngoái nó đi theo dì Hải về quê tảo mộ bà nó. Cũng bãi tha ma thế này. Người ta đốt hương sau khi đắp mộ và vứt diêm đi. Đăng thì thào:

7

- Mày có sợ không... ? Tao sợ... - Đừng sợ. - Thu nói khẽ, giọng nó lạc đi. - Tao với mày đi tìm ở cái mả mới kia kìa. ở đấy sẽ có lửa đấy. Chúng đến hên một cái mộ mới đắp. Hoa tươi đầy ắp quanh mộ, những chân hương mới cắm đầy. - Đây rồi ! - Thu kêu lên. Nó đã tìm thấy một bao diêm cũ, trong bao có chừng hơn một chục que. Phấn khởi làm cho hai đứa quên cả sợ hãi. Đăng thán phục : - Mày tài thật! Sao mày lại nghĩ có diêm ở đấy? Thu cười. Bây giờ nó là mẹ rồi. Mẹ thì được quyền giấu con những điều bí mật. Nó bảo: - Mày không biết đâu. - Nó hãnh diện nói. - Vì tao là mẹ. Đăng vơ củi rác, nó ủ bao diêm vào áo cho hết hơi ẩm rồi châm lửa đốt. Khoang nửa giờ sau cô giáo tìm ra hai đứa. °°° Chuyện của trẻ con thì người lớn không nên cắt nghĩa vì lôgic của trẻ con là lôgic huyền thoại không tiền khoáng hậu. Người lớn bị thực tế khắc nghiệt làm mất đi sự mong manh của lôgic huyền thoại, thay vào là thứ lôgic xám xịt, rạch ròi. Ông bà ngoại Đăng thương chiều nó. Nó là của quý. Những thói hư tật xấu của nó thường bị ông bà nó đổ

8

lỗi cho Thu. Tính lông bông ương bướng, thói giễu cợt, sự lười nhác, thậm chí cả việc chậm hiểu của đầu óc nó cũng do bạn nó. Đăng biết ông bà ngoại nó nhầm. Càng lớn lên nó càng bướng bỉnh, càng cô đơn và càng nhạy cảm hơn về thân phận côi cút của mình. Một bữa, Đăng đánh vỡ tan ông Phúc trong bộ Tam Đa bằng sứ. Bà ngoại tiếc của mắng nó : - Đồ hậu đậu. Tất cả là từ cái con mẹ Thu nhãi ranh của mày. Đăng trào nước mắt, nó uất ức, tủi cực. Nó trốn xuống bếp ngồi trong bóng tối và tức tưởi khóc. Trên nhà bà ngoại của Đăng vẫn đang điên cuồng gào thét. Có tiếng tầu điện sầm sập chạy nhanh ngoài phố. Bỗng ý nghĩ về cái chết bật ra rất nhanh trong Đăng. Đúng rồi ! Ngã xuống dưới đường ray! Cái khối sắt đồ sộ lướt qua và thế là hết. Chẳng phải làm gì, chẳng phải nghĩ ngợi. Mười phút nữa sẽ có chuyến tầu đi qua. Điều cần nhất là báo cho Thu. Nó là bạn tốt. Nó cắt nghĩa được cái chết. Ông Phúc trong bộ Tam Đa bằng sứ có nghĩa lý gì ? Phúc-Lộc -Thọ có nghĩa lý gì ? Đăng len lén mở cửa rồi chạy ra đường. Cái tầu điện cách ba trăm mét. Thu đứng ở vệ đường. - Mày sao thế? - Thu ngơ ngác. Đăng chấp chói. Mặt nó tái đi không còn thần sắc. Cái tầu điện lướt qua. - Tròi ơi - Thu đẩy Đăng ra rồi ngã vật xuống. Nó ngất đi. °°° Đăng không chết, vì do Thu đẩy ngã. Còn Thu lại bị tàu điện cán gẫy nát chân. Người ta đưa cả hai đứa đi viện. Đăng sốt cao, suốt đêm cứ vật vã nói mê liên hồi :

9

- Mẹ... mẹ... mẹ... mẹ... Tiếng "mẹ" của nó như tiếng gió thổi ở ngoài đầu hồi. Trong giấc mơ, Đăng thấy Thu với nó đứng ở trên cao. ở đấy nhìn xuống thấy người bé xíu, những chiếc ô tô cũng bé xíu. Gió lồng lộng, Thu cười nắc nẻ, hàm răng trắ ng bóng. Thu bảo : - Này Đăng, tao sẽ đi trên khoảng không bằng đôi chân này. - Nó chìa đôi chân trần ra trước mặt Đăng. - Đi như bay ấy, như trong chuyện cổ... Nói xong, Thu đi thật. Nó bước vào khoảng trống không, hai tay bơi rẽ không khí. Đăng áp người vào hàng lan can, cảm gi ác cô đơn côi cút làm nó ớn lạnh. Nó gọi Thu : - Đợi với! Đợi tao đi với ! Hãy bảo tao đi như thế với- Hãy bảo tao đi như thế với! Thu bay lướt đi, nó bảo : Mày không đi được thế đâu ! Hiểu không? Vì tao là mẹ. Đăng giật mình dậy. Giấc mơ qua đi. Nó mở mắt ra nhìn kỹ căn phòng bệnh viện. Cạnh Đăng, ông bà ngoại nó đang chăm chú nhìn. Nó bỗng rùng mình vì thấy mắt của hai người trong suốt. Đăng nhìn ra ngoài cửa sổ. Trời xanh ngăn ngắt. Trên sợi dây thép phơi áo, có ngọn gió nào rung khẽ. ở đấy vọng lại những tiếng thì thào, thính tai lắm mới nghe thấy được : U...u... u... u...

10

HUYỀN THOẠI PHỐ PHƯỜNG Sinh nhật con gái, bà Thiều làm cơm đãi khách. Dự hôm ấy có hai bà buôn vàng dưới phố, hai ông công chức cùng Sở ông Thiều và dăm thanh niên bè bạn của Thoa. Bà Thiều mặc bộ đồ xoa mỡ gà, trẻ đến mười tuổi. Thoa mặc quần bò, áo phông đỏ, trông lộng lẫy và khá đài các. Vẻ đẹp của cô, theo ý bà mẹ, là do "sức sống tinh thần" mang lại. Điều này đáng ngờ, bởi Thoa mới hai mươi tuổi, thi trượt đại học, rèn luyện trí tuệ chủ yếu thông qua giáo trình của lớp Anh văn buổi tối. Tuy nhiên, chính vẻ trẻ trung, cách đánh hông và cử chỉ tuyệt khéo khi nhăn mũi của cô quả rất ưa nhìn. Câu chuyện xung quanh bàn ăn là thú vị. Bà Thiều gợi lại kỉ niệm của thuở hàn vi. Đây là cách làm sang quen thuộc của người thành đạt. Bài học rút ra ở trường hợp ấy bao giờ cũng là ý chí muôn năm. Khách khứa đều hiểu việc biến đổi một bà bán bún ốc thành nhà triệu phú buôn vàng đâu chỉ đơn thuần là sự vận động ý chí? Nhưng gì thì gì, bởi thức ăn ngon, tất cả những lời chối tai đều nuốt trôi được. Chuyện đang sôi nổi thì cửa rộng mở và bỗng một người đàn ông huỳnh huỵch bước vào. Bà Thiều reo lên mừng rỡ: - Cậu Phúc! Phòng khách linh hoạt hẳn lên. Phúc là em ruột bà Thiều, làm việc ở Xưởng phim truyện. Ông dáng thấp đậm, râu tóc để rất nghệ sĩ. Bó chặt trong bộ quần áo màu ghi cộc tay ba túi trông rất khỏe. - Xin lỗi vì cậu đến muộn... - Phúc vỗ vai cô cháu gái. Cậu mắc việc bận. Cậu đi với một người bạn. Anh ấy đang đứng ngoài đường... - Sao lại thế" - Bà Thiều gắt

11

yêu. - Cậu quen cái thói rẻ người từ bao giờ thế? Bạn bè của cậu cũng là bạn bè của chị. Nhà ta xưa nay gia phong giản dị... Cậu gọi anh ấy vào đi. - Thôi được... Nếu chị đồng ý em sẽ ra mời! - Phúc lại huỳnh huỵch bước ra và chỉ loáng cái dắt vào một người thanh niên còn trẻ. Cậu Hạnh... - Phúc giới thiệu, - làm việc ở Vụ... Thoa chăm chú nhìn. Người này trạc ba mươi tuổi, đôi mắt sáng rực, khóe mép mím lại trông hơi nghiệt ngã. Y mặc bộ đồ bảo hộ lao động. Bộ trang phục ấy giữa phòng khách này trông hơi chướng mắt. - Vào đây cháu... - Bà Thiều xích ghế lại mời. - Hôm nay sinh nhật em Thoa. Trước lạ sau quen... Khách khứa đều là người nhà người cửa... Hạnh cười bẽn lẽn . Y đi bắt tay lần lượt mọi người với vẻ bối rốí rồi quay lại chỗ ghế ngồi. Bà Thiều hơi ngả sang y để tiếp thức ăn, giống như một thứ cây cao bóng cả độ lượng ngả xuốlg mặt đất tầm thường. Bữa ăn có Phúc thú vị hẳn lên. Phúc kể chuyện khéo, ông biết nhiều gìai thoại ngộ nghĩnh của giới văn nghệ. Trong một bữa ăn phong lưu, thật chẳng có món gì đáng gia giảm hợp vị hơn là món ấy. Giới này, theo con mắt nghiêm khắc của các vị công chức cùng sở ông Thiều, là bọn người lông bông và vô tích sự, đầu óc rặt những tư tưởng rối ren, nhưng theo con mắt trẻ trung của đám thanh niên thì lại là những thần tượng rất đáng khâm phục. Bà Thiều có vẻ tự hào vể cậu em trai. Bà nói: - Cậu ấy - chỉ ông Phúc - có chí lắm! ăn nhằm gì! - ông Phúc phản đối. - ở trong cuộc đời em thất bại rồi! Có chí phải kể lớp trẻ bây giờ. Như cậu Hạnh này, - ông Phúc vỗ vai người bạn của mình. - Mới ba mươi tuổi mà đã khẳng định tài năng. Chỉ tự học thôi mà đỗ được bằng đại học!

12

- Anh nói thế thôi... Tài năng mà nghèo thì buồn ghê lắm. Nếu đã tài năng thì phải thực giàu! - Hạnh nhìn bà Thiều tìm sự đồng tình. - Cháu nói như thế có phải không cô? - Cô không biết rõ! - Bà Thiều bối rối vì ánh mắt nhìn khá bạo dạn của người trẻ tuổi. - Các anh các chị bây giờ khác xưa nhiều lắm! - Cậu ấy chỉ mơ được thành triệu phú! - ông Phúc mỉm cười. Đây là một ước mơ tốt! - Một vị công chức khẳng định như đinh đóng cột. - Thế anh đã làm cách gì để thành giàu có? - Thoa hỏi chen vào. Chưa có cách gì! - Hạnh cười ngượng nghịu. - Cuộc đời đầy những bất ngờ. Tôi chờ thần may mắn đến... - Ê hê... - ông Phúc cười lớn. - Cậu hãy chịu khó mua xổ số đi! Hai cú độc đắc là thành triệu phú! - Rồi chợt nghĩ ra, ông rút ở túi áo ngực ra hai chiếc vé xổ số. Ông trịnh trọng nói. - Nhân danh định mệnh... Tôi có hai vé xổ số vừa mua... Hôm nay sinh nhật cháu Thoa, cậu xin tặng cháu một vé. Hoan hô những cô thiếu nữ ở tuổi hai mươi! Còn một vé, - ông đút vào túi áo ngực của Hạnh, - tôi xin tặng cậu. Hoan hô những tài năng trẻ còn đang nhú mầm! - Rõ rởm! - Hai công chức đưa mắt nháy nhau. - Ông ấy đến là hồn nhiên! - Hai bà buôn vàng khúc khích. Còn mấy thanh niên bè bạn của Thoa thì vừa ghen tị lại vừa khó chịu. Tỏ ra bất cần, họ tấn công vào món nộm mực một cách điềm đạm. °°°

13

Sau tiệc ăn, bọn trẻ kéo nhau lên gác mở nhạc tưng bừng. Hai ông công chức vội vã xin về, bởi công việc nhà nước bao giờ cũng đều quan trọng và thiếu thì giờ. Hai bà buôn vàng ngồi lại bàn với bà Thiều việc đi lễ chùa. Ông Phúc lim dim ngủ (ông có tật, hễ đã cơm no rượu say là mắt díu lại). Hạnh ngồi với nhóm các bà. Được sự bảo trợ của em bà chủ, y đã trở nên thân thuộc đối với gia đình. Hạnh chăm chú nghe câu chuyện, thỉnh thoảng lại chen vào vài câu đưa đẩy. Sinh ở nông thôn, y ít có dịp tiếp xúc với giới thượng lưu thành thị. Hạnh nhìn cuộc sống của bọn người giàu có với nhiều khao khát thèm muốn. Hạnh nghèo, y sợ những sự thiếu thốn. Chao ôi, nếu y có một căn nhà với đủ tiện nghi! Nếu y có tiền! Y không phải lo đến chuyện sinh hoạt. Y sẽ làm việc, sẽ sáng tạo, có thể y thành một người xuất chúng. Hiện giờ, Hạnh ở nhờ nhà một ông chú họ xa lắc tận mãi ven thành. Chỗ ở của Hạnh chỉ kê vừa cái giường một, tất cả sách vở cộng với nồi niêu xoong chảo nhét dưới gầm giường. Hàng tháng, Hạnh trả cho ông chú họ một khoản tiền nhà. Khoản tiền này cứ tăng lên bất chấp cố gắng cải thiện tình cảm ruột rà mà y cố công vun đắp. Ông chú họ (vốn đạp xích lô) xử thế với y khá là giản dị theo tinh thần câu ngạn ngữ "đã quen, phải lèn cho đau". Hạnh sống cô đơn. Cuộc sống thành phố với bao lạc thú gây nên nhiều mơ ước. Nhưng Hạnh biết rõ những lạc thú ấy chứa đầy cạm bẫy. Vốn hay quan sát, y đã chứng kiến ở thành phố này các "hoạ sĩ" trẻ, các "thi sĩ" trẻ, các nhà "bác học“ tràn đầy hứa hẹn đã bị cà phê, thuốc lá và những cám dỗ tình ái đánh gục thế nào. Một số không bị, những lạc thú ấy quyến rũ thì lại sa vào cơm áo gạo tiền và bị bao nhiêu lo lắng đời thường đánh qụy. Hạnh không sợ những điều ấy. Từ tuổi mười tám, Hạnh đã xây dựng cho mình nếp sống khắc kỷ đặc biệt. Hạnh không hút thuốc, không uống rượu, không phí phạm tiền nong vào các trò cao hứng, ngông cuồng. Dưới

14

một bề ngoài bì nh thản và ít cởi mở, Hạnh dấu trong lòng một tham vọng lớn và trí tưởng tượng hừng hực bốc lửa. Hạnh hiểu giàu có mới là điều kiện để thành đạt. Không có đồng tiền, sự nghiệp lập thân chỉ là chuyện hão. Dè xẻn, tiết kiệm từng đồng hào một - đấy là điều Hạnh luôn phải nhắc mình. Mấy bà buôn vàng đã hoạch định xong cho chuyến đi lễ ngày rằm. Nào là hương hoa, xin sớ, đặt oản, tiền xích lô, tiền công đức... Sơ sơ, Hạnh nhẩm chi phí lên tới chục nghìn. Còn nữa... - Bà Thiều bỗng chợt nghĩ ra. - Phải lấy cái vé xổ số cậu Phúc cho con bé Thoa mang đi xin lộc! - Bà chị phải xếp vào đấy bảy trăm nghìn tiền âm phủ! Một bà mặc áo phin nõn mỉm cười. Chứ cứ nghe em cầu thánh đổi tiền âm phủ thành tiền dương thế là xong! Thánh thần bây giờ cũng sòng phẳng lắm. Em xin đánh cược thế nào cũng trúngl - Thật nhá! - Bà Thiều thú vị. - Cô cược là trúng chứ gì? Cô dám đánh cược một chỉ vàng không? - Đối với người khác thì em không dám, nhưng với bà chị thì em phải chiều! - Bà khách cười nịnh rồi rút cái nhẫn ở ngón tay út đặt lên mặt tráp. - Được rồi! - Bà Thiều bắt tay bà khách dứt khoát. - Thế nhưng tôi không có nhẫn một chỉ vàng đâu! - Rồi sực nhớ ra, bà Thiểu đứng dậy gọi với lên nhà. - Thoa ơi! Xuớng dưới này, con! Thoa ở trên gác băng xuống. Mùi nước hoa thơm nồng quện mùi mồ hôi. Gớm! - Bà Thiều nhăn mặt, - nhảy nhót thế nào mà sống với áo ướt đầm đìa thế, con đưa cái nhẫn một chỉ của con ra đây cho mẹ! Cô Duyên cược là cái vé xổ số của con thế nào cũng trúng giải bảy trăm nghìn. Không trúng thì mẹ con mình cũng được chỉ vàng lộc của cô Duyên... Thoa giơ bàn tay ra phía trước mặt rồi bỗng giật mình:

15

- Thôi chết! Cái nhẫn của con vẫn đeo ở đây mà rơi đâu mất! Buổi sáng ngủ dậy còn thấy cơ mà? - Cha bố cô! - Bà Thiểu chồm dậy. - Chỉ toàn ăn tàn phá hại! Có đi tìm ngay không bà lại cho một trận bây giờ! Mọi người rối rít. Ông Phúc tỉnh ngủ. Thoa lục lọi tung cả tủ quần áo. Bà Thiều rền rẫm: - Con với cái! Từ Tết đến giờ phá hại năm sáu chục nghìn! Nợ ơi là nợ! Bố mày đang ở nước ngoài chứ nếu ông ấy ở nhà thì ông ấy giết! Các vị khách nữ thấy chủ bối rối muốn lảng ra về.. Bà Thiều níu lại: - Cô Duyên... Cứ để nhẫn lại đây. Tôi bù tiền mặt cũng được chứ gì? - Được thôi... - Bà khách tỏ ra dễ dãi. - Nếu chị trúng giải chị nhớ chia ìộc cho em là được. Chị nhớ chồng bảy trăm nghìn đồng âm phủ đấy nhé! - Được rồi... - Bà Thiều cố nặn ra một nụ cười. Bà xin lỗi khách rồi tiễn họ ra ngoài cửa. Quay vào nhà, bà tát một cái bất ngờ làm cô con gái ngã lạng. Thoa bật lên khóc nức nở.... Hạnh đứng lặng im. Ông Phúc vừa lục lọi tung cả đống quần áo vừa can bà chị:. - Chị nên bình tĩnh mới được, còn bạn bè nó trên gác kia kìa... Thoa này, cháu thử nhớ lại xem có tháo cái nhẫn rồi để đâu không?. - Có lẽ... - Thoa hơi nhăn trán suy nghĩ. - Có khi lúc cháu làm gà rồi rơi ngoài rãnh... Mọi người kéo nhau xuống bếp, Hạnh cũng đi theo.. Y bỗng bị lây tâm trạng lo lắng của mọi người .

16

Thiều lật úp rổ đựng lông gà. Thoa mếu máo khóc. Ông Phúc cầm chiếc que đun gẩy gẩ những con thủy tức ở ránh nước bẩn. Hạnh bảo: - Anh tìm như thế không được! - y xắn tay áo rồi đưa tay mò dọc theo cái rãnh đầy bùn, lõng thõng nước bẩn, thậm chí còn có cả cục phân người. Dễ đến mười phút. Bỗng Hạnh reo lên mừng rỡ: - Đây rồi! - Hạnh giơ cái nhẫn vừa mò được lên cao. Bà Thiều bỗng cười sằng sặc. Thoa mừng đến méo cả miệng. Cô nhìn người khách trẻ trung với sự hàm ơn cảm động. Từ phút ấy, Hạnh đã trở nên hoàn toàn tin cậy đối với gia đình. Tiễn Hạnh ra về, bà Thiều dặn đi dặn lại: - Thế nào hôm rằm cũng đến ăn cơm với cô, cháu nhé! °°° Hạnh nằm trằn trọc, y cố gắng ngủ mà không ngủ được. Chuyến đi lễ rằm cùng với mẹ con bà Thiều để lại một ấn tượng mạnh. "Mẹ kiếp... - Hạnh nghĩ. - Bọn người này họ coi đồng tiền như rác. Mỗi kỳ sóc vọng tiêu pha đến mấy chục nghìn... ". Hạnh nghĩ đến số tiền ít ỏi mà mình phải gắng chi tiêu dè xẻn hàng ngày mà rối cả lòng. Thường thường, chỉ những khỉ nào thật đắc ý lắm hoặc thật mệt mỏi y mới dám ăn một bát cháo lòng. Món ăn bình dân này hợp với túi tiền. Hạnh ăn một cách cầu kỳ. Rắc hạt tiêu thật đậm, cho thêm một ít ớt bột lên trên. ăn nhẩn nha, tận hưởng cái thú của từng miếng một. Mỗi miếng có mỗi vị riêng. Miếng dạ dày thú ở vị sừn sựt khi nhai. Miếng lòng non ngọt. Miếng gan bùi. Miếng dồi đậm. Nếu vớ được miếng cổ hũ thì thật tuyệt vời Để ăn bát cháo, Hạnh phải cúp đi một khoản chi tiêu nào đấy, thí dụ một tuần phải bớt đi một món ăn mặn. Đấy là luật Hạnh đề ra

17

nghiêm khắc với mình. Y tin ở sự cơ chỉ. Tiết kiệm! Tiết kiệm một cách ngặt nghèo - đấy là tất cả sức mạnh mà Hạnh có được. Hôm nay, riêng tiền xích lô của hai mẹ con bà Thiều cũng dến bạc nghìn. Chỉ riêng khoản chi phí ấy cũng gấp ba lần số tiền mà Hạnh kiếm được trong tháng. Hạnh khẽ thở dài, y không xác định được ngay tình cảm của mình đối với bà Thiều cũng như đối với cô con gái. Cả hai mẹ con, Hạnh thấv rõ ràng biểu hiện của thứ căn bệnh của bọn người giàu: bệnh buồn chán. Tình trạng no đủ ngồi rồi đẻ ra bệnh ấy. Cả hai mẹ con đều thấy dấu hiệu của thứ tì vết hư hỏng đạo lý, thứ tì vết mơ hồ; có thể cảm thấy mà khó diễn đạt thành lời. Nó ở ánh mắt, nụ cười, ở ngay trong cách trang phục của họ. A ha! Hạnh tự nhủ, y rất có thể nhồi vào hai tâm hồn ấy một ngọn lửa nhỏ cho nó bùng lên. Hạnh có sức lực, y thừa tài năng để làm việc ấy. Biết đâu điều ấy mang lại cho y những cơ hội tốt. ở họ, họ có khả năng trả giá bạc nghìn để mua lấy một niềm vui hoặc một phép lạ. Hạnh cười gằn: Cuộc sống ở thành phố này thiếu gì phép lạ?" Hạnh đưa tay, vớ lấy quyển sách đầu giường. Từ trong quyển sảch rơi ra chiếc vé xổ số ông Phúc cho y hôm trước. Hạnh giật mình. Tất cả nghi lễ xoay quanh chiếc vé xổ số mẹ con bà Thiều mang đi xin lộc hôm nay sống dậy trong y. Chiếc vé của Hạnh bất hạnh chừng nào. Cũng là chiếc vé cùng một xê ri, hoàn toàn giống nhau vể mặt hình thức, nhưng chiếc vé kia lại được một sự bảo trợ vô hình. Bà Thiều đã đưa chiếc vé đi lễ gần một chục chùa, cuối cùng chiếc vé cùng cả bọc tiền âm phủ được đặt lên tay tượng thần đồng đen trong đền Trấn Vũ. Hạnh thấy ớn lạnh. Mùi hương trầm thơm, không khí lạnh lẽo trang nghiêm trong đền thờ thánh gây nên cảm giác thiêng liêng. Bảy trăm nghìn! Trời ơi, cả một số tiển lớn lao kinh

18

khủng. Cả một cơ nghiệp, cả một gia tài. Đấy là sự nghiệp! Đấy là hạnh phúc mà y mong muốn!" Nhất định trúng... - Hạnh lẩm bẩm. - Chiếc vé trúng giải độc đắc mất thôi! Một sự thành kính đến thế, những chi phí lớn đến thế... Bao nhiêu lễ vật! Liệu thánh thần nào có thể vô tình?" Hạnh khẽ rên lên, y toát cả mồ hôi trán. Hạnh có cảm giác như sốt. Chiếc vé ấy trúng mất thôi. Hạnh đã nghe thấy các tay cao thủ số đề tiên đoán lần này sẽ đổ 36. Chiếc vé ấy đuôi 36! Chiếc vé của y đuôi 37! Như vậy, chiếc vé của y chỉ sai mỗi hàng đơn vị. Thật là chua xót. Hạnh ngủ thiếp đi, tay nắm chặt chiếc vé bất hạnh. Trong giấc ngủ, cứ chập chờn hình ảnh pho tượng đồng đen cao lớn. Pho tượng đứng lên đi lại, bật cười ha hả. Pho tượng đặt thanh kiếm dài xuống ghế, bàn tay có những móng dài xòe trước mặt y những xấp tiền mới. Hạnh nghe rõ cả âm thanh loạt soạt những tờ giấy bạc... Nửa đêm, Hạnh choàng thức dậy, bỗng một tia chớp lóe lên: - Nếu ta đánh tráo chiếc vé xổ số bất hạnh của ta với chiếc vé kia thì sẽ thế nào? °°° Bà Thiều nằm trên đi văng, mặc bộ đồ xoa mỏng dính, mắt ngó trông quầy bán đồ mỹ phẩm nữ trang. Chiếc quầy hàng nhỏ thừa sức nuôi sống hai mẹ con bà. Căn nhà tĩnh lặng, nghe rõ tiếng kêu ro ro của chiếc tủ lạnh để ở góc nhà. Bà Thiều lơ đãng lật một tập ảnh khỏa thân nước ngoài. Cách giải trí này bà vẫn ngang nhiên phô ra với khách để chứng minh rằng đầu óc của bà tự do tân tiến và ghét thói đạo dức giả cổ hủ lỗi thời. Có tiếng gõ cửa. Bà Thiều nhỏm dậy nhìn ra. - Ai đấy?

19

- Hạnh đây... - Tiếng ho húng hắng có vẻ bồn chồn. Bà Thiều mở của. Hạnh mặc bộ đồ khá diện bước vào. Như thể tiện tay, y cài chốt cửa ra vào. - Đi đâu mà bảnh thế cháu? - Nhớ cô quá! - Hạnh cười cầu tài. ánh mắt ve vuốt người đàn bà. - Cô có một sức thu hút mọi người đến khiếp! Em Thoa có nhà không cô? Em nó đi học tiếng Anh. Ngoài giờ buổi tối, ban ngày thỉnh thoảng nó đi học nhóm. Hạnh nhếch mép cười. Y đã từng biết các nhóm học này. Các cô các cậu thanh niên nhà giàu hoàn toàn có thể học tập ở đấy khá nhiều tri thức, dĩ nhiên - trừ ngoại ngữ. Hạnh hỏi: - Cô đi lễ chùa về có mệt không cô? Chẳng mệt tí nào! - Bà Thiều vui vẻ. - Cứ đi lễ chùa là cô lại khỏe như vâm mới lạ. Thần thánh cũng linh thiêng thật! Ngay cả đường đi chùa Hương cheo leo là thế mà năm nào cô cũng đi đấy nhé. Cứ ngậm ít sâm, vừa đi vừa nam mô niệm Phật phù hộ độ trì... - Phật sẽ phù hộ cô thôi... - Hạnh cười khe khẽ, y đang suy nghĩ rất lung. Thần kinh y căng như sợi giây đàn, những sợi gân xanh hai bên thái dương giần giật. Chiều nay mở số, Hạnh không thể nào chần chừ được nữa. Hạnh đoán chắc chiếc vé ấy trúng. Đây là cơ hội giúp mình thoát khỏi cảnh nghèo. "Dứt khoát... - Hạnh nghĩ. Ta phải lập tức trở thành tình nhân của mụ dù bằng mọi giá. Thời giờ thật chật chội quá. Cần đổi bằng được chiếc vé lập tức bây giờ... " - Cô độc đáo lắm! - Hạnh thả mồi câu. - Những người phụ nữ độc đáo bây giờ rất hiếm! Thế cô độc đáo chỗ nào? - Bà Thiều thú vị và khép vạt áo ra phía dằng trước.

20

- Cô độc đáo trên toàn cơ thể. - Hạnh nói và giọng bỗng dưng đổi khác, đôi mắt xoáy vào bờ vai tròn lẳn của người đàn bà, hai bên cơ hàm tự dưng cứng lại. - Trông cô hấp dẫn như một thiếu nữ đương thì. Bà Thiều hơi thoáng hốt hoảng. Điều này giống như linh cảm của con gà mái bị con gà trống ngổ ngáo săn đuổi. Tuy nhiên, ý thích mơn trớn và thích phiêu lưu háo hức sống dậy trong lòng bà. Dục vọng trỗi lên thành một động tác bất cẩn: chiếc khuy bấm nơi ngực áo tuột ra. Hạnh chồm hẳn dậy và xô người đàn bà ngã xuống đi văng. Bà Thiều rên rỉ. ý thức phẩm giá khiến bà có những cử chỉ chống cự yếu ớt. Bà Thiều nhắm mắt, hoàn toàn mất vẻ tự chủ. Hạnh thở khò khè, y hỏi bằng một giọng nói gần như van lơn. - Chiếc vé xổ số đâu rồi? Bà Thiều khựng lại, bà không hiểu ngay được câu hỏi ấy.. - Chiếc vé xổ số đâu rồi? - Hạnh hơi quát lên, giọng đanh lại như tiếng klm loại va đập vào nhau. Phải đến mấy phút bà Thiều mới hiểu ra được câu hỏi của Hạnh và hiểu ra được tình thế bi kịch của bà. - Con Thoa để trong chiếc ví xách tay của nó! Bà Thiều nói như nghẹn ngào và nỗi xấu hổ ê chề choán lấy người bà khi bà thấy Hạnh rời khỏi đi văng, đứng lên thẫn thờ như người mất trí. Vừa may lúc ấy, ngoài cửa vang lên tiếng gọi và tiếng đập cửa dồn dập của Thoa. Thoa ngơ ngác, ngạc nhiên khi cửa mở ra thấy bà mẹ mình nước mắt ròng ròng đang rúm người lại trên chiếc đi văng. Cửa sập ngay sau lưng cô và Hạnh đứng chắn ngay cạnh, nét mặt lạnh lùng, đôi mắt của y như hai cục lửa:

21

- Đừng có gào lên! - Hạnh quát khe khẽ. - Cô lấy chiếc vé xổ số trong ví xách tay ra đây! Thoa run bắn người, cô nhìn bà Thiều, nhìn Hạnh bằng một đôi mắt thất thần, hốt hoảng. Bà Thiều nói nghẹn ngào: - Con lấy chiếc vé ra đưa cho nó! Thoa run bần bật, cô hấp tấp mở cái ví xách tay. Chiếc vé xổ số của cô rơi ngay xuống đất. Hạnh chồm nhặt lấy, nhét chiếc vé xổ số ấy vào người rồi thong thả lấy chiếc vé của mình ném vào người bà Thiều. Mọi việc diễn ra chỉ trong nháy mắt. Hạnh sửa quần áo rồi luồn ra ngoài không nói năng gì. Thoa khóc nức nở rồi ngã vật ra như một thân cây mảnh dẻ vừa bị đốn khỏi mặt đất. Bà Thiều đứng dậy lấy quần áo mặc vào người rồi quát tướng lên: - Khóc cái gì? Cha bố cô! Có im đi ngay không bà lại cho cái tát bây giờ! Lặng im một lát rồi nhận thấy mình vô lý, bà bỗng kéo cô con gái đang lả người đi, mềm nhũn vào lòng bà, rồi nói với giọng tỉnh táo không ngờ: - Cứ sống đi con, rồi con sẽ hiểu cuộc đời. Khốn nạn! Khốn nạn vô cùng! Con phải biết rằng chính mẹ của con cũng là một con đàn bà khốn nạn!

ĐOẠN KẾT Buổi chiều hôm ấy, xổ số đặc biệt giải bảy trăm nghìn rơi vào con số 20437, đúng vào chiếc vé xổ số của Hạnh ném trả bà Thiều... Nghe nói Hạnh đã phát điên. Ông chú họ

22

vốn đạp xích lô đã phải đưa y đi viện tâm thần. Bà Thiều trúng giải xổ số. Bà mất một chỉ vàng cho cô Duyên. Cuối năm ấy, chồng bà cùng cậu con trai du học nước ngoài về nước. Thoa đã lấy chồng, chồng cô làm việc ở Xưởng phim truyện củng với ông Phúc. Trong một thời gian, ở trong thành phố lưu truyền một bài đồng dao mà rất ít người hiểu được xuất xứ: Xổ số đặc biệt Giải bảy trăm nghìn Món quà phẩm hạnh Lộc của thần linh Số trời may mắn Đâu đến chú mình Đỏ đen nhân thế Hữu sự hữu tình...

23

GIỌT MÁU I "Ðem truyện trăm năm giở lại bàn" (Trần Tế Xương) Nữa đầu thế kỷ trước, ở Kẻ Noi, huyện Từ Liêm, có ông Phạm Ngọc Liên là bậc đại phú. Ông Liên xây nhà trên miếng đất đầu làng. Miếng đất này bằng phẳng, rộng ba sào hai thước. Có người đi qua bảo rằng: "Ðất này đẹp, hình bút, phát về văn học. Ðã phát về văn học thì nước cạn, tàu ráo, hiếm con trai". Ông Liên nghe xong, níu áo người đó bảo: "Tôi bình sinh là dân cày cuốc, mong con cháu sau này có ít chữ nghĩa mở mặt với đời. Hiếm con cháu cũng được, miễn là có đức, thiên ha, nể trọng". Người đó cười: "Chữ nghĩa có ăn được không?". Ông Liên bảo: "Không ăn được". Người đó bảo: "Thế đa mang chữ nghĩa làm gì?". Ông Liên bảo: "Gì thì gì, nó vẫn hơn cày cuốc". Người đó bảo: "Nhiều chữ nghĩa thì có đức à?". Ông Liên bảo: "Phải". Người đó cả cười, hỏi gì cũng không nói nữa rồi phất áo đi. Ông Liên giận, bảo: "Ðồ cuồng". Khánh thành nhà, ông Liên mổ hai lợn, một bò, làm lễ tế trời đất, bày la liệt chín mươi mâm cổ. Dinh cơ quả đồ sộ, giữa là nhà thờ ba gian, trạm trổ long, ly, quy, phượng. Nhà tiền tế năm gian, cửa bức bàn, cột tròn, gỗ xoan rừng. Hai nhà ngang hai bên, sân gạch Bát Tràng, bình phong, bể nước, lại xây tường cao ba mét xung quanh, trên cắm mảnh sành. mảnh thủy tinh. Vữa là vôi cát trộn mật, đặc quánh.

24

Ông Liên ngồi giữa sân. bảo cả họ: "Lấy ngày 12 tháng Giêng làm ngày giỗ tổ. Họ Phạm xưa nay trong làng không kém họ Ðỗ, họ Phan, họ Hoàng. Chỉ hiềm họ Phạm làm ruộng, buôn bán, chưa có ai học hành đỗ đạt. Thiên hạ coi mình là thô lậu. Tức lắm". Ông Liên gọi năm con trai đến, bảo: "Con cháu chúng mày thằng nào đỗ Thám Hoa, Bảng Nhãn, tao cho ăn tự cả cơ ngơi này, lại cho tất cả của gia bảo. Cốt làm sao thiên hạ phải học cái đức họ Phạm nhà này". Ông Liên sống đến 80 tuổi. Ông có ba vợ, năm con trai, sáu con gái. Khi ông bệnh nặng, con trưởng là Phạm Ngọc Gia làm nghề mổ thịt lợn, túc trực bên giường gần một tháng trời, mắt sâu hoắm, râu mọc tua tủa. Bên giường ông Liên lúc nào cũng có chuối, cam, thịt giò, ngồn ngộn không thiếu thứ gì. Ông Gia hỏi: "Cha thèm ăn gì không?". Ông Liên bảo thèm ăn cơm rau muống chấm tương với cà. Ông Gia nấu cơm gạo tám vào nồi đất, đánh giấm canh bằng lá chua me, bày đỉa rau với chén tương Bần, tự tay bưng lên cho cha. Ông Liên chỉ húp được một thìa canh rồi xua đi. Ông Gia òa khóc. Ông Liên bảo: "Chẳng ra gì. Chữ mới cần". Nói xong tắt thở. Lúc ấy là giờ Tỵ, ngày 24 tháng Chạp, năm Canh Tí (1840). Ông Gia bỏ tiền làm ma rất trọng thể. Sau ba ngày làm lễ thành phục, tuần ba mươi nhăm ngày rước linh lên chùa, tuần bốn mươn chín, một trăm ngày thảy đều tươm tất. Dân làng ai cũng khen ngợi là người có hiếu. Sau đám ma, ông Gia cho sửa lại bàn thờ, xây thêm một gian nữa. Còn toàn bộ cơ ngơi từ đó đến nay vẫn y nguyên. Thời gian có làm cho nó cũ kỹ, múc nát, hư hỏng đi một vài bộ phận nhưng về cơ bản vẫn không thay đổi.

25

II Ông Gia có một đứa cháu đích tôn là Phạm Ngọc Chiểu tuấn tú lạ thường. Chiểu từ bé đã sáng dạ. Năm tám tuổi, có lần ông Gia cho cháu ra Kẻ Chợ thăm phố phường. Thằng bé về, hí hoáy lấy cát, lấy đất sét xây một khu nhà có tường bao, lại lấy lông gà nhuộm phẩm xanh làm cây, hệt như một cái sa bàn. Trên sa bàn nặn những con rùa đội bia rất sinh động. Ông Gia vỗ tay hỏi: " Cháu nặn gì đấy?". Thằng Chiểu cười, lộ hàm răng sún: "Ðây là Văn Miếu". Ông Gia giật mình nghĩ: "Trời cho họ Phạm phát đường học vấn ở đứa bé này chắc?". Hôm sau ông Gia ra phản thịt nhà mình ở chợ Kẻ Noi lấy cái thủ lợn nặng sáu cân hai, lại bảo con dâu thổi một mâm xôi gấc, luộc thủ lợn đặt lên. đội sang nhà Ðồ Ngoạn. Ðồ Ngoạn mắt toét, đỗ tú tài năm Mậu Thìn (1868) là người thật thà, nhà nghèo lắm. Thấy ông Gia đội xôi thịt đến, Ðồ Ngoạn giật mình, chạy ra vái hai vái. Ông Gia đặt mâm xôi thịt xuống chân, bảo: "Không dám. Tôi sang rước thày về dạy chữ cho thằng Chiểu đây". Ðồ Ngoạn rước khách vào nhà, mời ngồi, vái lấy vái để: "Không giấu gì bác, tôi thiển học lắm. Tôi gõ đầu trẻ cũng là trò bịt mắt thiên hạ kiếm gạo. Thực ra nhà tôi là nhà nhốt trẻ để chúng đừng lêu lổng, ngã xuống ao, bắt ve sầu, khỏi chó cắn thôi. Bác rước tôi về, sợ thất chí của bác". Ông Gia vừa bực mình, vừa buồn cười, bảo: "Ông nói thế, tôi cũng không ép. Thân phụ tôi mất đi chỉ dặn làm sao cho con cháu học thành tài, cướp cái cờ tiến sĩ về dựng ở sân từ đường". Ðồ Ngoạn rùng mình: "Bác ơi, chữ nghĩa nó ghê gớm lắm. Nó là ma đấy. Yếu bóng vía là nó ám mình, nó làm đau đớn thê thảm mới thôi". Lại ngồi thừ người không nói năng gì. Vợ Ðồ Ngoạn mặc váy đụp, ra lạy ông Gia hai lạy rồi bảo chồng: "Lũ trẻ đói quá, ông xin phép bác Cả

26

đây ra châm Mả Phường rỡ ít khoai lang, lấy rễ về luộc cho chúng ăn". Ông Gia hỏi: "Khoai trồng bao giờ mà thím đã rỡ?". Vợ Ðồ Ngoạn bảo: "Em trồng cuối tháng Hai". Ông Gia nhẩm tính: "Mới được năm mươi ngày, ăn thế nào được mà ăn?" Vợ Ðồ Ngoạn bảo: "Nhà em hết gạo tám ngày rồi". Ông Gia thở dài: "Thím bỏ xôi thịt ra cho các cháu ăn. Dọn mâm ra cho tôi với ông đồ uống rượu". Nói rồi rút trong cạp quần ra cút rượu ngâm tắc kè. Vợ Ðồ Ngoạn bưng xôi thịt xuống bếp, dọn hai mâm. Ông Gia và Ðồ Ngoạn ngồi trong nhà uống rượu. Ngoài sân, tám đứa con của Ðồ Ngoạn ngồi xúm xít xung quanh mẹ, chờ chia phần. Ðồ Ngoạn bảo: "Tôi nghe ở Kẻ Lũ có ông Bình Chi, trước là tri phủ Sơn Nam, bị cách chức, về ngồi dạy học, ông này kiến thức uyên thâm mà cốt cách thanh cao lắm. Học được ông Bình Chi thì cờ tiến sĩ về tay họ Phạm là cái chắc". Ông Gia gật đầu. Ăn uống xong, xách cái mâm đồng về, bụng bảo dạ: "Phải đi Kẻ Lũ". t bữa sau, chọn được ngày tốt, ông Gia dẫn Chiểu tìm đường sang Kẻ Lũ đến nhà ông Bình Chi. Nhà ông Bình Chi ven sông Tô Lịch, cơ ngơi cũng khá. Khi ông Gia đến, ông Bình Chi đang ngồi bình văn với đám học trò. Có khoảng chục đứa con trai ngồi xếp bằng tròn trên chiếu, đều trạc tuổi mười sáu, đứa nào trông cũng thông minh, nhanh nhẹn. Trước mặt mỗi đứa có một quyển văn đóng bằng giấy dó, lại có nghiên mực để ngay bên cạnh. Ông Bình Chi cho học trò nghỉ, ra sân chơi. Chiểu thích lắm, đứng dựa cột xem. Ông Bình Chi rước ông Gia vào nhà, hỏi nguyện vọng. Ông Gia tự giới thiệu, một diều bẩm, hai điều bẩm, cung kính lắm. Ông Bình Chi hỏi mục đích học hành của Chiểu. Ông Gia chẳng biết trả lời ra sao, chỉ nói: "Tôi thấy văn chương có cái gì từa tựa lẽ phải. Muốn cho cháu học thầy vì thế". Ông Bình Chi bảo:

27

"Văn chương có nhiều thứ lắm. Có thức văn chương hành nghề kiếm sống. Có thứ văn chương sửa mình. Có thứ văn chương trốn đời, trốn việc. Lại có thứ văn chương làm loạn". Ông Gia bảo: "Tôi hiểu rồi. Tôi là nghề đồ tể, tôi biết. Cũng như có thịt mông, thịt thủ, thịt sấn, thịt dọi, Nhưng cũng là thịt cả thôi". Ông Bình Chi bảo: "Ðúng đấy. Thế ông định cho cháu học thứ văn chương nào?". Ông Gia bảo: "Tôi suy rằng thịt dọi là thứ vừa phải, nhiều người mua, chẳng bao giờ ế. Vậy có thứ văn chương nào tương tự như thế không, chỉ vừa phải, nhiều người theo thì cho cháu học". Ông Bình Chi bảo: "Tôi hiểu rồi. Ðấy là thứ văn chương học để làm quan". Ông Gia vỗ tay reo: "Phải". Nói xong, gọi Chiểu vào, bảo lạy ba lạy, lấy ra một xấp lụa Hà Ðông, năm xâu tiền đồng, xin ông Bình Chi thâu nạp học trò. Ăn cơm xong, ông Gia dặn dò cháu rồi về. Chiểu chạy theo, khóc gọi ông: "Ông ơi, cháu chẳng học đâu. Học phải xa nhà, mất ông, mất cha mẹ thì học làm gì?" Ông Gia gạt nước mắt, bỏ đi như chạy. Ông Bình Chi dỗ Chiểu vào nhà. Thằng bé mơ hồ hiểu rằng học đòi văn chương là nó bước vào một cõi mà ở đấy, nó không thể nương tựa vào bất cứ cái gì, ngoài bản thân nó.

III Hàng tháng, ông Gia sang Kẻ Lủ hai lần vào ngày mồng Một, ngày 16 mang tiền, gạo, nuôi cháu ăn học. Chiểu học rất tấn tới, mười tuổi đọc được Tứ Thư, Ngũ Kinh, mười hai tuổi giảng được sách, các sách "phá đề", "phá thừa", "khởi giảng", "đề tỉ", "trung tỉ" trong kinh nghĩa đều thông thạo. Ông Bình Chi bảo: "Thằng này học như thần, tựa

28

như miếng đất khô, đổ nước đến đâu là thấm". Ông Gia thích lắm, bảo: "Họ nhà này mấy đời nay một chữ cắn đôi không biết, chỉ biết cày ải, gieo mạ, pha thịt lợn. Thằng này rồi mang vinh hạnh cho cả họ đây". Bởi vậy, Chiểu được chiều chuộng không thiếu thứ gì. Ông Bình Chi có cô con gái tên là Diêu, trạc tuổi Chiểu, hai đứa vẫn chơi thân với nhau, quyến luyến lắm. Chiểu bảo: "Lớn lên, tao lấy mày làm vợ cả". Diêu đỏ bừng mặt, không nói năng gì. Một lần, Chiểu ra đồng chơi, lê la đất cát với trẻ chăn trâu, hạ bộ bị tầm hỏi, dương vật sưng to. Ðầu tiên chỉ thấy khó chịu, không ngồi học được, ông Bình Chi hỏi thế nào cũng không nói, sâu tấy lên, rất đau. Diêu lấy mộảt cọng rơm, đo bằng chiều dài dương vật của Chiểu, gấp ba lại, xòe ra, lấy dao chặt cọng rơm, rồi bảo rửa sạch bằng nước muối. Thế là khỏi, Chiểu cám ơn lắm. Năm Mậu Tý (1888), Chiểu đỗ tú tài. Ông Gia làm cỗ khao cả làng. Cỗ to lắm, bảy bát, bảy đĩa. Bảy bát là một bát măng, một bát miếng, một bát khoai sọ, hai bát bóng thả, hai bát đậu nhồi. Bảy đĩa là một đĩa thịt gà, một đĩa ngỗng quay, một đĩa thịt lơn, một đĩa giả hạnh nhân, một đĩa nem chạo, một đĩa nộm, một đĩa dưa ghém. Ông Bình Chi sang dự, cứ nức nở khen cơ ngơi đẹp. Ðến năm sau, ông Gia mất. Khoảng thời gian này trường thi dời xuống Nam Ðịnh, nên Chiểu phải xuống đấy thi. Ông Gia chết mắt mở trừng trừng, vuốt thế nào cũng không nhắm. Có người bảo: "Cụ chờ tin cậu Chiểu". Sau phải lấy đủa cả hơ nóng, day ở trên mắt một lúc mới cụp mi xuống. nhà không dám báo tin cho Chiểu vì sợ Chiểu hỏng thi. Bấy giờ trời mưa phùn, đường phố nhớp nháp, Chiểu trọ học trong nhà một cô đầu ở phố Hàng Thao Nam Ðịnh, suốt ngày văn ôn võ luyện. Cô đầu tên là Thắm, dạy Chiểu đủ các ngón chơi. Kỳ thi ấy, Chiểu đỗ

29

thứ ba nhưng bị đổ bệnh tiêm la, dương vật lúc nào cũng cương đỏ, hạ bộ nhức nhối. Chịu xong tang ông nội, Chiểu được bổ làm tri huyện Tiên Du. Tiên Du là huyện lớn, thóc gạo nhiều, con gái ở Bịu, Lim hát quan họ rất hay, làm quan ở đấy thật sướng như trời. Chiểu làm quan, nhớ lời thầy học mình dặn rằng: "Làm quan chỉ là nghề kiếm sống, không kiếm được là dại", vì vậy ra sức đục khoét. Sân công đường để một cái cùm gỗ nghiến, trên có một cối đá lỗ rất to chặn lên, có người bị cùm nát cả mắt cá chân, về mưng mủ, vết thương có dòi, lên cơn uốn ván mười ngày thì chết. Dân sợ lắm. Trong huyện ba năm không xảy ra kiện cáo, trộm cướp, có tiếng là yên bình, công sứ Bắc Ninh mấy lần mời Chiểu lên ăn tiệc. Chiểu có hai vợ. Bà Diêu thấy chồng mình làm nhiều việc thất đức, lo sợ lắm, lại thấy cả mình, cả bà hai đều chẳng sinh nở được mụn con trai nào, đẻ toàn con gái thì đêm ngày cầu Trời khấn Phật, nhà thờ tổ ở Kẻ Noi không lúc nào ngớt khói hương. Mang bệnh, Chiểu người khó chịu, tính nết thất thường nên nha lại rất sợ. Một hôm, có người bạn học tên là Äm Sắc ở Từ Sơn lên chơi, tạ ơn vì một vụ kiện tranh ruộng đất, Chiểu đã xử cho Äm Sắc được kiện. Äm Sắc bê vào hai nồi gạo nếp, hai nồi gạo tẻ, một nồi đỗ xanh, năm cặp vịt bầu. Chiểu liếc mắt nhìn qua lễ vật rồi bảo: "Bác thật phí tâm". Äm Sắc bảo: "Có gì đâu. Toàn là của nhà lá vườn". Chiểu giữ Äm Sắc ở lại ăn cơm. Khi ăn cơm, Äm Sắc cứ thấy Chiểu đứng ngồi không yên, mới hỏi: "Bác bị nhọt hạch à?". Chiểu bảo: "Tôi bị bệnh hoa liễu". Äm Sắc bảo: "Tôi quen lang Vòng chữa bệnh thần tình lắm". Chiểu bảo: "Tôi không tin bọn lang vườn, toàn nhảm nhí, nghe họ vừa mất tiền, bệnh lại không khỏi". Äm Sắc bảo: "Lang Vòng kỳ lạ lắm. Có ông Ðồ

30

Thống bị cảm gió, người co lại như con tôm, thuốc thang thế nào cũng không khỏi. Người nhà võng đến lang Vòng. Lang Vòng mời ngồi, không ngồi được, bảo đứng, không đứng được. Lang Vòng đập bàn quát: "Cái lão này, già rồi còn dê cụ, ăn uống vô độ, chơi bời nhiều. Lại cư xử thất đức mới hóa thế này". Ðồ Thống tím mặt, nghĩ mình suốt đời tằn tịu, có biết thế nào là thịt ngon, gái đẹp đâu, bị vu như thế thì uất không nói được. Lang Vòng bất ngờ đứng dậy đạp cho một cái. Ðồ Thống ngã lăn ra, nghe "cục" một cái giữa sống lưng, thế là khỏi bệnh. Bấy giờ mới biết Lang Vòng chữa mẹo, cứ thế phục xuống lạy như tế sao!". Äm Sắc lại kể: " dưới Phố Nối có một cô cổ ngoẹo sang bên. Mang đến Lang Vòng, lang bảo quây cót lại, bắt cởi truồng ra, rồi nhìn vào cái gương nhỏ để trước mặt. Bất ngờ, lang Vòng xô cót bước vào. Cô kia hốt hoảng, ngồi thụp ngay xuống, quay cổ lại nhìn. Thế là khỏi bệnh". Chiểu cười: "Các truyện bác kể đều chỉ chữa bệnh gió máy, như tôi là bệnh gió trăng thì chữa thế nào?". Äm Sắc bảo: "Bác đừng lo, lang Vòng chữa được bách bệnh". Chiểu gật đầu, bảo người nhà sắm lễ vật rồi cùng ấm Sắc đi đến nhà lang Vòng. Nhà lang Vòng ở Diềm, nghe tri huyện Tiên Du đến, lang Vòng cho trải chiếu hoa từ ngõ vào thềm. Chiểu sai lính lệ đưa lễ vật vào, rất hậu. Lang Vòng pha trà mời. Chiểu liếc mắt thấy lang Vòng còn trẻ nhưng tóc bạc phơ, mắt sáng, tai như tai Phật, biết là người có tướng lạ, trong bụng mừng lắm. Khi kể bệnh, Chiểu không dấu diếm tí gì. Lang Vòng bắt mạch, bảo: "Bệnh này có bốn cấp, cấp một thì quy đầu có khe nứt, nước trắng rỉ ra, rất khắm, tiểu tiện thấy buốt, chữa hai tháng là khỏi. Cấp hai thì quy đầu lở loét, người sốt, gáy nóng, ăn không thấy ngon, buồn chân buồn tay, lúc nào cũng bứt rứt, chữa ba tháng là khỏi. Cấp ba là quy đầu mưng mủ, tiểu tiện ra máu, xuất tinh ngày vài lần, không đi đứng được, chữa ba năm thì khỏi, nhưng

31

chữa được cũng khó. Cấp bốn là tay bắt chuồn chuồn, mắt đờ dại, vết lở loét ăn lên bụng, xuống chân, đến cấp này thì đi đóng ván". Chiểu rùng mình, hỏi: "Thầy nói vậy, thế như tôi ở cấp nào?". Lang Vòng bảo: "Cấp hai". Chiểu thở phào. Lang Vòng bảo: "Cấp một, cấp hai cũng bình thường thôi, quan lớn đừng lo". Chữa khỏi bệnh, Chiểu tính tình cũng có dịu đi đôi chút. Năm ấy cho mở hội Lim rất to, mời lang Vòng về làm thượng khách. Sau hôm giã hội, Chiểu thấy trời về chiều rất đẹp mới sai lính bày tiệc ra sân công đường uống rượu. Dân không ai dám đi qua con đường trước cửa huyện lỵ. Chiểu ngồi ngất ngưởng, sau lưng có hai lính lệ cầm quạt phe phẩy. Chiểu bảo: "Ta là người có học đầu tiên của họ Phạm đây. Chỉ tiếc làm quan xa nhà, chưa làm gì được cho quê cha, đất tổ". Lúc ấy, bỗng nhiên có cái kiệu đi qua trước cổng, Chiểu tức mình, mắng: "Thằng nào láo, qua dinh quan huyện mà không xuống kiệu. Chúng mày ra xem nó là ai lôi cổ vào đây". Lính chạy ra giữ kiệu lại. Hóa ra là cố đạo Tây. Chiểu đang say, sai lính nọc ra đánh ba chục roi. Cố đạo Tây bị đánh, tức lắm. Sau vụ ấy, Chiểu bị thất sủng, cách chức về vườn. Lúc bấy giờ bốn mươi hai tuổi.

IV Cố đạo Tây bị Chiểu đánh tên là Jean Puginier rất có thế lực. Ðường công danh của Chiểu thế là đứt gánh giữa đường, Chiểu về nhà, bất đắc chí, suốt ngày nằm phục trong ngôi từ đường ở Kẻ Noi. Dân làng kháo Chiểu có chân trong nhóm văn thân chống Pháp, tri huyện Tiên Du là tướng của ông Ðề Nắm, Ðề Thám trên Yên Thế. Lại

32

đồn Chiểu làm quan thanh liêm, không ăn cánh với triều đình bấy giờ đang vọng ngoại tộc, do đó mới bị bãi chức. Một đồn mười, mười đồn trăm, tên tuổi Chiểu trong vùng bỗng thành danh giá. Chiểu không nói năng gì, nghiễm nhiên coi việc đánh cố đạo Tây là cử chỉ nghĩa khí nhất trong đời làm quan. Bấy giờ ở Kẻ Noi người ta đứng ra quyên góp tiền bạc để xây đường gạch, Chiểu nghĩ mình chưa làm được gì cho thôn xóm, bèn trích một số tiền lớn ra sửa đình và xây toàn bộ cổng làng. Bởi thế người ta nói đến Chiểu như nói đến bậc thánh nhân. Bấy giờ cánh văn thân và hào lý trong vùng đều trọng nể Chiểu. Chiểu ngồi buồn, thỉnh thoảng lại giở bộ thẻ ngà ra coi, thở dài mãi. Bà Diêu thấy mình không có con trai, rủ Chiểu đi chùa Hương cầu tự. Chiểu nghe lời. Nhằm ngày mồng 1 tháng Hai, hai người dậy từ ga gáy, cơm nước xong, khăn áo ra đi. Qua Hà Ðông, bà Diêu mua năm chục oản, vàng, hương, sớ cầu tự, rồi ra thuê xe ngựa đi. Hôm ấy trời mưa phùn, gió rét lắm. Chủ xe ngựa trạc năm mươi tuổi, trán thấp, tướng mạo bần tiện, mặc cả với bà Diêu hệt như một mụ hàng tôm. Qua Vân Ðình, thấy nhiều người cũng đi chùa Hương, các bà già mắc áo tứ thân, khoác áo tơi, đi thành đoàn, có đoàn đến ba chục vị. Lại có mấy công tử đội khăn xếp, mặc quần ống sớ cũng đi thành nhóm. Lên bờ đê, mưa phùn lất phất, gió thổi mạnh, đoàn người cứ chúi về phía trước hệt như những toán linh hồn lang thang trong tích chèo cổ. Qua một quán rượu ven đường, Chiểu bảo dừng xe lại. Chiểu vào quán, gọi rượu, thịt chó. Bà Diêu ngăn chồng bảo đi chùa Hương đừng ăn tạp. Chiểu cười: "Xưa nay vẫn nói Phật ở tâm, ai nói Phật ở bụng? Thịt chó Vân Ðình nổi tiếng, không ăn là dại". Bà Diêu không biếu nói sao, giở cơm nắm ra ăn.

33

Chủ quán bê ra một đĩa thịt chó luộc, mỗi đĩa dồi hấp, một đĩa nhựa mận, một đĩa chả nướng, một bát xáo xương, một bát tiết canh, một ve rượu trắng. Chiểu ăn uống nhồm nhoàm, hệt như một gã trương tuần. Bà Diêu ăn xong, mua một cặp bánh chưng mang cho người đánh xe ngựa rồi ngồi trong xe đợi chồng. Chiểu đang ăn, thấy một người đội khăn xếp, mặc áo the, cầm ô lục soạn đi vào. Người đó nhìn thấy Chiểu, vội bó ô, chắp tay vái. Chiểu cầm đũa chỉ người đó hỏi: "Ông cần gì tôi?". Người đó bảo: "Quan bác không nhận ra em à? Em là Hàn Soạn, trước ở Tiên Du, quan bác có lần cứu em khỏi tội". Chiều "à" một tiếng rồi mời ngồi. Hàn Soạn bảo: "Hồi đó có bọn trộm ở Cẩm Sơn bị lính huyện bắt, chúng vu cho em cầm đầu chúng nó. Quan bác khám nhà, thấy có đồ ăn trộm nhưng lờ đi cho". Chiểu bảo: "Phải rồi. Sau ông lễ tạ một chục nồi thóc với bộ đỉnh đồng". Hàn Soạn gật đầu. Hàn huyên một lúc. Hàn Soạn hỏi: "Quan bác đi chùa Hương cầu gì?". Chiểu bảo: "Cầu tự". Hàn Soạn cười: "m thấy bà chị trong xe ngựa rồi. Bà chị cũng đã luống tuổi, có cầu tự thì Phật cũng cho nhưng mà cho ép. Trong chùa Hương có ni cô Huệ Liên là con gái tuần phủ Ninh Bình, xinh đẹp mà nết na lắm. Chán đời không thấy ai đáng mặt nên mới cắt tóc đi tu được nữa năm nay. Trong nửa năm, phép thiền chưa thấm được đâu. Quan bác nên cầu duyên rồi hãy cầu tự". Chiểu là người mê gái, nghe thấy vậy thích lắm, hỏi rằng: "Thế cầu duyên thì phải thế nào?". Hoàn Soạn không trả lời, mắt nhìn vào ve rượu. Chiểu biết ý, gọi thêm một suất ăn nữa. Hàn Soạn ăn uống xong, bảo Chiểu: "Em vốn có quen ni cô Huệ Liên. Nàng cốt cách thanh cao, rất mê truyện anh hùng nghĩa khí. Trước nàng nghe truyện Hàm Nghi ra chiếu Cần Vương, cũng đã định cắt tóc cải trang đi theo.

34

Cha nàng biết chuyện, giận lắm, nọc ra đánh. Sau này, vị hôn phu theo ông Ðề Thám, chết ở Phúc Yên, vì vậy mới phẫn chí đi tu. Việc quan bác đánh cố đạo Tây cả nước đều biết, ai cũng cảm phục. Nếu bác ngỏ ý thì việc tất thành". Chiểu mừng lắm, nghĩ một lúc rồi bảo: "Chuyện này khó. Kéo gái ra khỏi buồng khuê thì ta làm nhiều lần rồi, không sợ, nhưng kéo gái ra khỏi buồng Phật thì chịu, chưa làm bao giờ". Hàn Soạn cười: "Việc này có năm bước. Em quen hòa thượng trụ trì ở chùa Thiên Trù là nơi ni cô Huệ Liên ở đó. Ðến đấy, quan bác giả đò đau bụng rồi bảo bà chị cứ đi vào chùa Trong trước, quan bác đưa biếu hòa thượng một lạng vàng, nếu hòa thượng không nhận thì thôi, coi như hỏng việc. Nếu hòa thượng nhận, thế là được một bước. Ðêm đó hòa thượng cho quan bác nghỉ ngơi trong trai phòng, quan bác đưa cho em một lạng vàng để em lo gác bên ngoài, hòa thượng mời cơm chay, có ni cô hầu rượu. Quan bác ép ni cô uống một cốc rượu có pha thuốc mê, nếu ni cô không uống thì thôi, coi như hỏng việc. Nếu ni cô uống, thế là được hai bước. Dọn mâm xong, ni cô say thuốc, hòa thượng quay đi, quan bác bế ni cô lên giường, thế là được ba bước. Quan bác cởi y phục nhà chùa của ni cô ra, muốn làm gì thì làm, thế là bốn bước. Sáng hôm sau, ni cô tỉnh lại, hòa thượng với em vào, chửi mắng quan bác với ni cô làm nhục cửa thiền, bắt quan bác phải ký văn tự nhận ni cô về, quan bác nộp vào hòm công đức một lạng vàng xá tội, thế là năm bước". Chiểu cười: "Ðược, nhưng ông anh nói nhanh quá, thế là mấy lạng vàng?". Hàn Soạn bảo: "Ba lạng". Chiểu nghĩ ngợi: "Ba lạng thì ta có thể mua được sáu bà vợ". Hàn Soạn bảo: "Tùy quan bác, nhưng ni cô Huệ Liên thì chỉ có một". Chiểu bảo: "Ông nói phải". Nói xong, trả tiền rượu, dẫn Hàn Soạn ra xe. Bà Diêu hỏi: "Ai đấy?". Chiểu bảo: "Bạn tôi". Hàn Soạn chào bà Diêu rất cung kính rồi

35

ngồi nép vào một góc xe, cái ô đặt lên đùi, mắt nhìn thẳng, cả chặng đường không nói năng gì.

V Ðến bến Ðục vừa đúng giờ Ngọ. Người đi hội rất đông. Thuyền thúng đỗ chụm lại dưới suối Yến đến vài chục cái. Bà Diêu thuê một đò nhỏ có sáu chỗ ngồi, cả lượt đi lượt về màgiá chỉ tương đương với năm đấu gạo. Lái đò là một cô gái rất xinh, mau mồm miệng. Ðò lướt đi trên suối êm như ru, phong cảnh hữu tình. Mái chèo đong đưa rẽ sang hai bên những cây rong và cây lau nước. Và con chuồn chuồn kim, chuồn chuồn nước bay theo đậu cả bên sạp đò. Vào chùa Trình, bà Diêu dâng sớ. Chiểu đứng đằng sau, lầm rầm khấn: "Nếu Phật cho ni cô Huệ Liên, xin hậu tạ một bữa tiệc chay thật hậu". Hàn Soạn thông thạo vùng này, đi đến đâu kể sự tích dến đấy, bà Diêu rất khâm phục. Thuyền đi ngược, thuyền đi xuôi, ai cũng chào nhau thật lễ độ.. Ði trên suối, con người như thoát tục, tự nhiên thấy cảm động, mới thấy mình sống ở đời thật bụi bặm. Ðến bến Ðá, lái đò neo lại ngồi chờ. Hàn Soạn đi trước, bà Diêu và Chiểu đi theo. Xung quanh Thiên Trù chật ních người, khói hương ngào ngạt. Người bán hàng ngồi la liệt. Những hàng cơm và lều trọ dựng sơ sài bằng tre nứa nhưng sạch sẽ. Hàn Soạn dẫn Chiểu và bà Diêu vào chào hòa thượng trụ trì. Hòa thượng béo tốt, hồng hào, lông mày như vẽ, đôi mắt lờ đờ trông như mắt cá, không đoán được đấy là hiền hay ác, kiến thức nông hay sâu. Bà Diêu dâng lễ vật. Chiểu thấy hòa thượng gật đầu, thâu lễ vật rất thạo và nhanh, bèn nghĩ bụng: "Việc chắc thành". Ngồi

36

một lát, nói dăm câu chuyện bâng quơ, thấy ni cô Huệ Liên bước ra chào, Chiểu liếc mắt, ngẫm lời Hàn Soạn nói quả không sai, bụng mừng lắm. Cúng vái xong, Chiểu kêu đau bụng. Bà Diêu là người thật thà, không biết đấy là mưu của Hàn Soạn, cứ cuống quýt lên, Chiểu và Hàn Soạn dỗ mãi, bà Diêu mới để đồ đạc lại rồi vào chùa Trong một mình, vừa đi vừa áy náy không yên. Chiểu ở lại, cứ y kế Hàn Soạn mà làm. Thương thay cho ni cô Huệ Liên, muốn đi tu để quên sự đời mà không trót được. Huệ Liên tên thật là Ðỗ Thị Ninh, về làm vợ ba của Chiểu thì một năm sau sinh con trai đặt tên là Phạm Ngọc Phong.

VI Phạm Ngọc Phong được mười sáu tuổi thì mất cả cha lẫn mẹ. Hôm ấy là ngày tiệc làng 11 tháng Tư. Chiểu ra đình lễ, về nhà thấy người ngây ngất mới vào buồng nằm. Buổi chiều thấy gây gấy sốt, ăn có nữa bát cơm rồi bỏ mứa. Bà Diêu sai cô Ninh đi hái lá hương nhu, lá bưởi, lá tre về nấu nước xông. Chiểu không nghe. Sẵn nước nóng, cô Ninh mang đi tắm. Nữa đêm, thấy vợ ba thơm tho, Chiểu nổi máu phong tình. Sau cuộc mây mưa, người Chiểu cứ lịm đi, đến sáng thì mất. Cô Ninh sợ quá, khóc ầm lên. Bà Diêu giận lắm, mắng rằng: "Ðồ con đĩ. Tu không trót. Bây giờ lại giết chồng". Cô Ninh tủi phận, nghĩ mình bị lừa về làm vợ ba chẳng khác con ở, làm đủ việc nhà, ngủ với chồng cũng phải giấu giếm, bây giờ mang tiếng oan giết chồng, thế là đi tắt qua đê ra sông tự vẫn. ™ nhà đang

37

nhập quan Chiểu thì đám chài ở sông vào báo vớt được xác cô ba. Bà Diêu đập đầu xuống đất than rằng: "Con dâm phụ thật là tiền oan nghiệp chướng". Hai đám tang một lúc, áo quan chàng đi trước, áo quan nàng theo sau. Chuyện này ầm ĩ cả vùng, ba chục năm sau người ta còn kể. Cánh hương lý trong làng thấy cơ hội làm tiền được, đòi khám nghiệm tử thi, coi cô Ninh chết do bức tử. Bà Diêu phải lo lót, bán đi năm mẫu ruộng mới yên chuyện. Sau lần ấy, bà Diêu ốm nặng, thành người lẫn lộn, dở khôn dở dại. Phong lớn lên, học chữ quốc ngữ. Tính nết Phong lông bông, ương ngạnh. Phong được ăn tự cả cơ ngơi hơn chục mẫu ruộng nhưng không thiết, tất cả giao cho chị gái quản lý. Chị Phong tên là Cẩm, con bà hai, ở vậy không lấy chồng, tính nết nhu mì, hiền thục. Phong ra Hà Nội học, thỉnh thoảng mới về nhà. Một hôm, Phong dẫn về một người đàn bà hơn Phong đến chục tuổi, người cao lớn, đen đúa, răng vàng, bụng chửa khệ nệ. Phong bảo bà Cẩm: "Ðây là cô Lan, sinh viên trường thuốc, cháu của ông Tân Dân làm báo ngoài Hà Nội. Chúng em ăn ở với nhau được một năm rồi". Bà Cẩm tái mặt, ngồi im không biết nói sao. Cô Lan cúi đầu, mặt đỏ như gấc, tay mân mê tà áo may bằng thứ vải lụa Bombay, cổ khoét rộng, lộ một chuỗi dây chuyền bằng vàng. Bà Cẩm hỏi: "Thế cậu mợ tính sao?". Phong bảo: "Cô Lan ở nhà. Em ra Hà Nội hùn vốn làm báo". Bà Cẩm bảo: "Cậu ơi, nhà ta xưa nay làm ruộng, mổ thịt lợn. Tôi nghiệm những người bỏ quê ra ngoài múa may đều không ra gì. Cái chí của cậu, tôi là đàn bà không biết nói sao, chỉ khuyên cậu nên chừng mực thôi". Phong thọc hai tay vào túi áo vét, mỉm cười: "Merci". Bà Cẩm ngơ ra không hiểu em trai nói gì. Ðến bữa, cô Lan xơi có nữa bát cơm, ngồi gẩy gẩy từng hạt một. Có món canh khế nấu thịt nạc rất

38

ngon, bà Cẩm chan vào bát ép ăn. Phong giãy nảy: "Chết, nhà em kiêng ăn hành". Bà Cẩm đỏ bừng mặt. Cơm xong, Phong phải ra chợ Kẻ Noi mua hai chiếc bánh dày cặp chả cho vợ ăn. Cô Lan ở nhà một tuần đầu không ra khỏi buồng, chỉ toàn nằm đọc sách. Bà Cẩm sợ Phong, cứ nín nhịn không nói năng gì. Một hôm cô Lan hỏi bà Cẩm: "Nhà ta có bao nhiêu ruộng?". Bà Cẩm bảo: "Hơn chục mẫu. Cậu Phong bán đi tám mẫu mang tiền ra Hà Nội làm ăn. Nhà bây giờ còn ba mẫu. Lại còn một phản thịt lợn ở chợ Kẻ Noi". Cô Lan hỏi: "Phản thịt ai trông?". Bà Cẩm bảo: "Tôi thuê ông Bỉnh là người trong họ. Vốn mình bỏ ra, còn lãi chia đôi". Cô Lan bảo: "Từ mai tôi trông coi phản thịt". Hôm sau ra chợ xem xét, bụng mang dạ chửa nhưng cắt đắt việc đâu vào đấy, tiền nong rạch ròi, bà Cẩm với ông Bỉnh hãi lắm. Ông Bỉnh không dám ăn bớt một xu. Bà Diêu ngày càng yếu, lẫn lộn, cứ quanh quẫn trong buồng, ỉa đái ngay chỗ nằm. Phong bảo: "Sao con mẹ này sống dai thế?". Cô Lan bảo: "Cho liều thuốc chuột là yên". Phong bảo: "Không cần, cứ để đói vài ngày". Nói xong quay ra bảo bà Cẩm: "Từ hôm nay đừng cho mẹ Cả ăn nữa, tám mươi hai tuổi rồi, sống làm quái gì?". Bà Cẩm sợ hãi: "Cậu ơi, cậu nghĩ lại đi, phải để phúc đức cho con cháu chứ?". Phong trừng mắt, bảo: "Con ác tặc này nó giết mẹ tôi chị có biết không?". Bà Cẩm cứ kêu khổ. Phong khóa cửa lại rồi cất chìa khóa vào túi áo vét. Bà Diêu bị nhốt trong buồng, đói khát lắm, bốc cả phân ăn. Mỗi ngày một lần, Phong mở cửa khóa xem đã chết chưa. Ðến hơn nữa tháng, bà Diêu vẫn sống nhăn răng. Phong phát hoảng, bảo vợ: "Con mẹ này là phù thủy chắc? Hay nó luyện được thuốc trường sinh?". Cô Lan đến xem, thấy có một hạt cơm rơi ở dưới chân giường, cười nhạt bảo rằng: "Mẹ Cả anh còn sống lâu lắm. Khéo

39

nó còn sống để chôn anh với tôi cơ đấy". Lại hỏi Phong: "Chìa khóa để đâu?". Phong chỉ vào áo vét treo ở tường. Cô Lan bảo: "Thảo nào. Anh đưa đây để tôi phá phép của con phù thủy này cho". Nói rồi cầm chìa khóa cho vào cái ví xách tay. Khoảng nữa đêm, cô Lan bấu Phong dậy. Cái áo vét Phong treo ở sập gụ gian ngoài. Dưới bóng trăng mờ mờ, thấy một bóng đen đang lần sờ túi áo. Cô Lan cầm tay thước gỗ lim quật thẳng vào đầu bóng đen, chỉ nghe "ối" một tiếng rồi ngã vật xuống. Phong thắp đèn lên thấy bà Cẩm máu me đầm đìa trên trán. Cô Lan bảo: "Khổ quá, tôi cứ tưởng trộm". Phong gắt bà Cẩm: "Chị lần ra đây làm gì?". Bà Cẩm rên hừ hừ, mặt úp vào bát cơm nguội đầy máu trên sập gụ. Ba ngày sau, bà Diêu mất. Phong làm ma tử tế, đặt tên hiệu là Ðoan Thuận. Còn bà Cẩm, vai trò quản lý lu mờ đi. Cô Lan đứng ra điều hành toàn bộ công việc. Ðứa con gái cô Lan đẻ đặt tên là Huệ. Cô Lan thuê một người vú để trông nom nó. Con bé lớn lên, kháu khỉnh, nhưng mẹ nó không thích nó. Việc nuôi dạy nó được giao hoàn toàn cho người vú và bà Cẩm.

VII Ông Tân Dân tên thật là Nguyễn Anh Thường. Trong làng báo, làng văn, ông khá nổi tiếng. Người ta cũng có trách ông là hay la liếm, ăn tham như mõ, nhưng việc đó không can hệ gì. Ông Tân Dân bảo Phong: "Văn chương phải bất chấp hết. Ngập trong bùn, sục tung lên, thoát thành bướm và hoa, đấy là chí thánh". Phong chỉ gật đầu. Ông

40

Tân Dân và Phong hùn vốn làm ăn, nói là làm báo, nhưng thực chỉ buôn giấy. Một hôm, ông Tân Dân bảo Phong: "Tôi vừa xin được giấy phép buôn muối. Chú ra tay đi. Chú xuống Phát Diệm, ở đấy có cha Tất là người tôi quen. Việc lấy hàng cha Tất lo. Ta lên miền núi bán. Tôi đi Sơn La, tìm lão tri châu Cầm Vĩnh An bàn bạc". Phong gật đầu. Phong đến Phát Diệm, tìm đến nhà thờ đá. Ðấy là một khu đất rộng đến vài ba mẫu gồm cả một hệ thống vừa công viên, vừa lăng tẩm, vừa nhà thờ, vừa trường dòng, xây cất rất công phu. Phía trước có một hồ bán nguyệt rộng, nước trong văn vắt, nhìn rõ cả những con cá bơi lội tung tăng. Lại có cả những núi đá giả đặt tượng Ðức Mẹ và Chúa Giêsu trắng toát. Phong đứng nhìn, lòng rất thán phục, bèn ngh thầm: "Mẹ khỉ, cả nước mình có lẽ chỉ có công trình này được gọi là công trình kiến trúc của muôn đời. Ðạo Thiên Chúa là thứ đạo gì ghê gớm vậy?" Quanh quẫn một lúc, thấy có người bõ già đi ra dẫn Phong đi vào. Cha Tất còn trẻ, trắng trẻo, trán cao, có đôi mắt rất hóm. Ðọc xong thư của ông Tân Dân, cha Tất mời Phong ngồi, đoạn vẫy tay ra phía đằng sau. Có một thiếu niên mặc áo chùng đen bưng trà ra mời. Lại thấy hai thiếu niên cũng mặc áo chùng đen đứng sau lưng hầu quạt. Phong uống nước, thấy trà thơm lừng. Phong hỏi: "Thưa cha, việc chúng con nhờ cậy liệu có thành không?" Cha Tất nhỏ nhẹ: "Kinh Thánh nói:'Có ai trong anh em, khi con mình xin bánh lại cho nó hòn đá không?'. Con cứ yên tâm, cứ ở đây nghỉ rồi đâu vào đấy". Phong xin phép ra ngoài nhà trọ, Cha Tất bằng lòng. Phong nằm trên gác nhà trọ, trời mưa tí tách. Kè kè một túi tiền nên Phong không dám đi đâu. Chủ quán trọ suốt ngày cứ ngồi ủ rũ trước hiên nhà trông ra ngoài đường. Phong buồn quá, hết đứng lại ngồi, giở đi giở lại cuốn

41

truyện Trê Cóc in trên giấy bản, đọc đi đọc lại. Phong không biết nhà này có bao nhiêu người mà chẳng có ai đi ra đi vào gì cả. Một hôm, Phong đánh liều hỏi chủ quán: " đây có con điếm nào xinh không?". Chủ quán gật đầu. Phong bảo: "Gọi cho tôi một đứa". Chủ quán hỏi: "Ông thích loại còn tân hay đã mất tân?". Phong vỗ đùi đánh đét: "Còn tân thì nói gì nữa?". Chú quán đứng dậy, đi xuống nhà ngang, lát sau dẫn lên đứa con gái trạc mười lăm tuổi. Chủ quán bảo: "Ðây là con gái tôi". Phong uống nước, suýt nữa thì nghẹn. Ðứa con gái mới lớn, chưa biết gì về chuyện hoa nguyệt, Phong cũng thương thương nhưng rồi tặc lưỡi: "Băn khoăn làm gì, tất cả rồi sẽ qua đi". Phong kéo nó lên gác, con bé vừa đi vừa làm dấu, miệng kêu tên chúa. Ðược vài ngày, ông bõ già đến gặp Phong bảo: "Chuyện của cậu cha Tất lo xong rồi. Cậu về Hà Nội mà nhận hàng". Phong cầm giấy tờ, giao tiền cho ông bõ già, cứ thầm phục tay cha cố trẻ măng mà làm việc đâu vào đấy. Phong về Hà Nội, tìm đến nhà ông Tân Dân. Ðây là lần đầu tiên Phong đến nhà riêng của lão. Phong bấm chuông gọi, một con chó Tây lao ra. Một người bồi đi sau gọi: "lu lu". Con chó cụp đuôi đi vào. Người bồi hỏi: "Ông cần gì?". Phong bảo: "Tôi là Phong". Nói rồi đưa danh thiếp rạ Người bồi bảo: "Ông Tân Dân đi Sơn La chưa về, nhưng có thư gửi ông để ở trong nhà. Mời ông vào gặp bà chủ". Phong đi theo người bồi vào nhà, thấy nhà cửa, đồ đặc sang trọng, bài trí rất có gu. Phong nghĩ thầm: "Lão này đểu. Thế mà cứ giả nghèo giả khổ. Lúc nào cũng vay tiền mình". Ngồi một lát, thấy có tiếng dép loẹt quẹt rồi một thiếu phụ trạc ba mươ tuổi đi ra. Phong đứng dậy chào, thấy thiếu phụ đẹp rất đài các. Thiếu phụ bảo: "Chào ông Phong. Tôi là Thiều Hoa. Ông nhà tôi có thư gửi ông". Hai người cùng ngồi, nói dăm câu chuyện bâng quơ, đại để

42

như chuyện thời tiết, giá cả. Phong thấy Thiều Hoa lịch lãm, trong lòng thích lắm. Thiều Hoa khép vạt áo bảo: "Ông đọc thư đi". Nói xong mỉm cười. Phong cầm thư bảo: "Xin lỗi bà". Thư viết: "Kính gửi ông Phong, bạn armour của tôi. Tôi đi Sơn La từ hôm 16 tháng Junons. Việc bán hàng cho Cầm Vĩnh An đã đâu vào đấy, chỉ chờ hàng lên là lấy tiền. Phiền ông lo giúp việc đưa hàng lên sớm ngày nào hay ngày ấy. Nếu cần thì ông lấy mấy tên người nhà cu/a tôi đi theo. Với trí mẫn tiệp và sự tháo vát của ông, tôi tin vạn sự như ý. Bệnh thấp khớp khiến tôi không về lo việc cùng ông được. Mong gặp ông ở Sơn La. Chúc ông với gia quyến bình an. Rất kính trọng ông. Ký tên: Tân Dân". Phong đọc thư xong, cười nhạt. Thiều Hoa hỏi: "Thưa ông Phong, ông thấy công việc ra sao?". Phong bảo: "Thưa bà, xin bà đừng bận tâm, chồng bà là một thiên tài". Thiều Hoa đỏ mặt: "Ông quá khen, nhiều khi tôi thấy nhà tôi ích kỷ ghê gớm". Phong cười: "Ðấy cũng là một tính cách thiên tài". Thiều Hoa bảo: "Nhà tôi rất khen ông". Phong hỏi: "Thưa bà, về mặt nào?". Thiều Hoa bảo: "Nhà tôi bảo ông là một gentleman". Phong bảo: "Thư a bà, tôi muốn mời bà một bữa cơm nhạt ở phố Hàng Buồm. Nếu bà từ chối thì tôi không xứng với lời khen ấy". Thiều Hoa lưỡng lự rồi gật đầu. Phong về nhà ( Phong có một nhà riêng ngoài phố) nghĩ ngợi: "Lão Tân Dân đểu thật, vốn mình bỏ ra, bao nhiêu công việc vất vả cũng mình, lão ấy chỉ ngồi hưởng. Ðược, xem lão ấy hưởng những gì". Bèn đứng dậy, gọi xe tay bảo đưa đến Hàng Buồm đặt tiệc. Ðến hiệu cao lâu, Phong gọi lão hoa kiều Vương Bình đến bảo: "Ngộ làm cho tôi một bữa ăn đặc biệt hai người. Cho nhiều thuốc kích dục vào". Vương Bình gật đầu.

43

Buổi chiều, Phong đến đón Thiều Hoa. Hai người ăn uống vui vẻ, đầu tiên giữ ý, về sau thuốc ngấm, cứ kề vai nhau lơi lả. Phong dìu Thiều Hoa vào buồng. Lão Vương Bình đóng cửa ngồi canh. Sau lần ấy, họ còn đi lại với nhau vài lần nữa. Thiều Hoa gặp Phong trẻ trung, thật như đại hạn gặp mưa rào. Hai người thề thốt sẽ sống với nhau. Ðến ngày hẹn, Phong ra bến sông Cái nhận hàng rồi đi Sơn La.

VIII Ðoàn xe ngựa thồ muối đi hơn nữa tháng mới đến Sơn La. Nhà Cầm Vĩnh An ở dốc Bản Mạt, nhà quan mà cũng chẳng khác gì nhà những người Thái khác, được cái to hơn, gỗ tốt hơn. Ông Tân Dân giới thiệu Cầm Vĩnh An với Phong, An chẳng tỏ vẻ gì ra mặt. Phong liếc nhìn, thấy An tướng ngũ đoản, da dẻ hồng hào, mi mắt sùm sụp, điệu bộ chậm chạp, có vẻ như người suy nghĩ chậm. Phong gầy rộc đi sau chuyến đi vất vả. Thấy ông Tân Dân ngày nào cũng ba bữa rượu rồi vác súng đi săn, ngồi tán nhảm, thì bực lắm. Ông Tân Dân bảo: "Tôi biết chú vất vả, chuyến này thì chú công đầu". Phong chẳng nói năng gì, lát sau hỏi xin Cầm Vĩnh An ít rượu mật gấu để bóp chân tay. An hỏi: "Có bao nhiêu muối?". Phong bảo: "Tám tấn". Ông Tân Dân giãy nãy: "Chết, ta thỏa thuận với nhau những hai mươi tấn cơ mà". An bảo: "Người Kinh các ông nói một đằng làm một nẻo?". Phong bảo: "Tôi giao đợt đầu tám tấn, giao đến đâu lấy tiền đến đấy, sao bảo nói một đằng làm một nẻo?". An bảo: "Ông Tân Dân đã lấy tiền cả hai mươi tấn". Ông Tân Dân bảo: "Tôi lấy tiền trước, trích

44

phần lãi để mua thuốc phiện mang về Hà Nội". Phong bảo: "Tôi chẳng chơi. Nhà nước cấm buôn thuốc phiện, khéo mà tù. Ông chỉ nên lấy số lãi của ông mà mua thôi". Ông Tân Dân bảo: "Gay thật, tôi trót mua rồi thì sao?". Phong bảo: "Không sao cả, ông ghi cho tôi cái văn tự nợ, có quan tri châu ở đây đứng làm chứng". An bảo: "Phải". Ông Tân Dân tái mặt. Buổi chiều hôm ấy oi bức. Ông Tân Dân phải hoàn lại số tiền mười hai tấn muối chưa lấy cho Cầm Vĩnh An rồi ghi văn tự nợ với Phong. Phong bắt ghi rõ thời hạn trả tiền là một tháng, nếu không thì gán nhà riêng. Thuốc phiện trót mua rồi, ông Tân Dân cực chẳng đã phải chịu. Sáng hôm sau, ông Tân Dân vội vã thu xếp về xuôi, bảo Phong cùng đi với mình. Phong bảo: "Ông đi trước đi. Tôi phải ở lại ít ngày mới hoàn sức được". Cầm Vĩnh An bày tiệc tiễn đưa. Phong kêu mệt nằm trong buồn ngủ. Ông Tân Dân đi rồi, Phong nhỏm dậy, lấy ra hai chục vuông vải đen, ba chục vuông vải đỏ nói với Cầm Vĩnh An: "Tôi được hân hạnh biết quan tri châu. Hôm qua còn mệt dâng quà biếu bất tiện, hôm nay mới có cơ hội". An gật đầu. Phong lại nói: "Số muối ước định với quan tri châu là hai mươi tấn, việc này không làm đơm sai, ba ngày nữa số muốn còn lại sẽ lên đến nơi". An cũng gật đầu. Phong lại nói: "Khi muối đến nơi, chỉ lấy tiền mười tấn, còn hai tấn xin biếu để nhà ăn dần". An cũng gật đầu. Phong lại nói: "Tôi làm ăn với ông Tân Dân nhưng coi như kẻ thù. Ông Tân Dân mang thuốc phiện là việc không hay, xin quan tri châu nên báo với nhà chức trách". An cũng gật đầu. Hôm sau, Cầm Vĩnh An cưỡi ngựa đi sớm. Buổi chiều An về bảo Phong: "Ông Tân Dân đi đến Yên Châu thì bị tóm rồi". Hai người cùng cười. An lấy ra một túi bạc trắng bảo Phong: "Ðây là tiền thưởng". Phong bảo: "Quan tri châu

45

chia làm ba phần. Một phần để phụ nữ trong nhà sắm quần áo mới". An bảo: "Nhà tôi nhiều đàn bà lắm". Phong bảo:"Thế thì chia bốn". Ngày hôm sau, đoàn ngựa thồ chở số muối còn lại đến nơi, Phong ra xem xét, thấy không thất thoát gì, mừng lắm, thưởng hậu hĩnh cho bọn phu áp tải. Cầm Vĩnh An hài lòng, tiễn Phong ra về bằng một bữa tiệc rất to, thịt một con trâu. Trong bữa tiệc, An nèo Phong ăn món nậm pịa ( giống như phèo trâu ). Phong ăn nhưng ngậm trong mồm rồi ra đầu quản nhổ toẹt xuống sàn.

IX Về Hà Nội, Phong báo cho Thiều Hoa biết việc ông Tân Dân bị bắt. Thiều Hoa hỏi: "Liệu tù bao nhiêu năm?". Phong bảo: "Cầm Vĩnh An hứa không dưới mười năm". Thiều Hoa bảo: "Ra tù chết là vừa". Phong về Kẻ Noi bàn với cô Lan việc cưới Thiều Hoa. Cô Lan tức lắm, nhưng biết Phong nhẫn tâm, lắm thủ đoạn, nếu có gây sự thì chỉ thiệt mình, vì vậy đành nín nhịn. Ðám cưới Phong với Thiều Hoa rất long trọng. Phóng bán cơ ngơi của ông Tân Dân, sau khi ông Tân Dân bị tuyên án vỡ nợ và bị xử mười năm tù. Thiều Hoa có một đứa con với ông Tân Dân, thằng bé tên là Hạnh, đầu to tướng, có tật ở chân, đi đứng cứ nhảy như con cào cào. Bấy giờ cô Lan đẻ thêm một đứa con gái nữa, đặt tên là Cúc. Còn Huệ, Phong đưa ra Hà Nội ở, sau này lấy chồng tên là Ðiềm. Ðiềm là họa sĩ chuyên vẽ minh họa cho tờ báo mà Phong hùn vốn. Cha mẹ Ðiềm làm nghề bán tạp hóa.

46

Rằm tháng bảy, Phong đưa Thiều Hoa về Kẻ Noi làm sinh nhật năm mươi tuổi. Phong bàn với cô Lan và Thiều Hoa làm cỗ to mời khách. Hôm ấy trăng sáng, Phong trải chiếu hoa ngồi bên hè nhẩn nha uống nước nụ vãi. Bà Cẩm nằm võng ru con bé Cúc, ru rằng: "Ông giăng kia ông ở trên trời Hỏi ông có biết sự đời cho chăng? Sự đời nhít nhít nhăng nhăng Nghe ra chẳng biết mà răng nực cười. . ." Dưới nhà ngang, cô Lan đứng chỉ bảo những người trong họ đến làm giúp. Bà Cẩm lại ru, Ru rằng: "Cái cô đi đón cơn mưa Tối tăm mù mịt, ai đưa cô về? Cô về thăm quán cùng quê Thăm cha thăm mẹ, cô về thăm ai . . ." Phong bảo: "Mười năm nữa, giời cho ta sống, làm ăn được, ta lên thượng thọ sẽ khao cả làng". Thiều Hoa bảo: "Gớm! Cứ ăn chơi lắm thì liệu có sống được năm năm không?" . Bà Cẩm lại ru. Ru rằng: "Làm giai cho đáng nên giai Phú Xuân cũng trãi, Ðồng Nai cũng từng". Phong hỏi bà Cẩm: "Cái con bé đang vặt lông gà kia tên là gì, con nhà ai?". Bà Cẩm bảo: "Ðấy là cái Chiêm, con ông Mùa". Phong hỏi: "Có phải ông Mùa hồi trước vẫn cõng tôi ra đê xem diều không?" Bà Cẩm bảo: "Phải". Phong hỏi: "Ông Mùa dạo này thế nào?". Bà Cẩm bảo: "Ông Mùa đông con, cơ cực lắm. Ðậu, tháng ba, ốm suýt chết". Phong nói với con rể: "Mày là họa sĩ, mày thấy con bé Chiêm có đáng là hoa hậu của quê tao không?" Ðiềm

47

bảo:"Con thấy bình thường". Phong bảo: "Mày không biết nhìn. Mày chỉ thấy quần áo. Ðấy là vì mày kém từng trải". Ðiềm gật gù: "Con chịu bố". Thiều Hoa bảo: "Hai bố con, chuyện ấy chẳng ai kém ai". Ngày hôm sau, khách ở Hà Nội về hơn ba chục vị. Ô tô đậu kín một đoạn đê. Có các quan chức, nhà văn, nhà báo, nhà buôn. Một số bà vợ cũng đi theo chồng. Lễ vật bày ki;n trên tấm sập gụ kê giữa nhà thờ. Phong ra tận cổng đóng khách. Thiều Hoa lộng lẫy đứng bên. Cô Lan tất bật chỉ bảo công việc bếp núc. Khoảng gần trưa, cánh hương lý trong làng đến chào. Cũng tới hơn hai chục người. Phong mời cả vào trong nhà tiền tế, pháo nổ ầmĩ. Ông Tô Phương, nhà buôn, đứng lên thay mặt quan khách chúc mừng. Võ tay ran lên. Phong bắt tay ông Tô Phương. bảo: "Cám ơn ông, cám ơn chư vị. Ðứng ở nhà mình, xung quanh có vợ con, hàng xóm, bạn bè, uống một cốc rượu cất bằng thứ gạo cấy trên mảnh ruộng nhà mình, thế là sướng, dẫu rằng biết đời cũng là phù du". Mọi người gật đầu. Ăn uống đến hơn ba tiếng mới xong. Sau tiệc mặn là bánh ga-tô, trên đĩa bánh nào cũng có chữ Phạm Ngọc Phong bằng bơ. Mấy ông ký lục trong làng dùng tay nhón bánh bỏ vào mồm, dây bơ ra cả ngón tay, thấy bẩn lại bôi xuống chiếu. Sau tiệc, Phong cho Thiều Hoa ra Hà Nội trước, còn mình ở lại Kẻ Noi nghỉ ba tháng. Thời gian nà Phong đi thăm thú trong làng, thấy có một số nhà giàu mới lên nhưng cũng có nhiều nhà nghèo lắm. Nhìn chung, tất cả là sự lam lũ nhếch nhác bao trùm. Có hôm Phong lên bờ đê hóng mát, nằm dài trên bãi cỏ xanh mà nhìn trời cao, thấy những cánh cò thấp thoáng bay về phía xa.

48

Một hôm, Phong đang ngồi trên đê thì thấy một đám xúm đông xúm đỏ. Ðến gần, thấy ông lão xẩm kéo nhị và đứa bé con đang hát. Phong lắng nghe, thấy lời lẽ mơ hồ nói về nhân, hiếu, lễ, nghĩa. Bên cạnh, có một anh ngồi nặn những con giống tò he xanh đỏ trên mẹt thúng với nắm bột nếp, nặn cả những anh hùng ngày xưa, vị nào cũng quắc thước. Phong thấy cô Chiêm đứng xem, gánh cỏ đằng sau, mắt long lanh sáng, đôi côi cắn chỉ nhay cọng đòng đòng, những giọt mồ hôi đọng ở hai bên thái dương. Ði về, Lan hỏi Phong: "Ông sao buồn thế? Hay là tương tư con bé nào rồi?". Phong bảo: "Tôi thích con bé Chiêm quá". Cô Lan bảo:"Ðể tôi hỏi làm vợ bé cho ông. Con bé chịu khó. Tôi cũng mến nó". Phong bảo: "Tôi đội ơn bà". Cô Lan bảo: "Ơn huệ gì. Ông tuổi Dần, ông đã để ý đến ai thì trước sau gì ông chẳng ăn thịt người ta". Vài ngày saụ cô Lan cho mối đến nhà ông Mùa đánh tiếng. Ông Mùa sợ lắm. Cô Chiêm giãy nảy, dọa đi tự vẫn. Phong thấy không ổn, mắng rằng: "Thân lừa ưa nặng, ông hỏi han tử tế không xong thì cho cả họ nhà mày khốn nạn". Ông Mùa ra sức ép con, họ hàng xúm vào dỗ dành. Cuối cùng cô Chiêm phải chịu. Ðám cưới tổ chức linh đình, cô Chiêm đi về nhà chồng như người mất hồn. Vài năm sau cô Chiêm đẻ ra hai đứa con trai, đứa đầu đặt tên là Phạm Ngọc Phúc, đứa sau đặt tên là Phạm Ngọc Tâm.

X Một thời gian dài, Phong ở Kẻ Noi, công việc ngoài phố giao cho Thiều Hoa và Ðiềm quản lý. Một hôm Thiều Hoa bảo Phong: "Có tay nhà thơ bán tập bản thảo hay hay, tôi định ghi tên cu/a ông rồi cho xuất bản". Phong trừng mắt

49

bảo: "Nhảm nhí! Rõ chuyện đàn bà. Danh hiệu nhà thơ là thứ danh hiệu nỡm người bạc phúc. Thơ chỉ là thứ du dương bất lực. Khi nào nó cui hơn hớn thì chẳng ra gì". Thiều Hoa hỏi: "Thế tôi bảo nó chữa lại rồi ghi tên tôi được không?". Phong bảo: "Ðàn bà không có thơ đâu. Thơ là những tâm sự lớn. Ðàn bà thì tâm sự gì. Thơ phải cao cả. Mỗi tháng các bà hành kinh một lần thì cao cả gì". Thiều Hoa đỏ mặt. Chuyện này bỏ qua, không nói nữa. Một hôm, trên tờ báo mà Phong hùn vốn có bức tranh vẽ một ông bị vợ cắm cái sừng hươu lên đầu, khách đi vào treo mũ lên đấy, khuôn mặt người này trông rất giống Phong. Phong xem báo, dò hỏi xem ai vẽ tranh. Nhân viên trong báo chối quanh, nói là không biết. Phong bựa mình, dọa đuổi cổ viên tri sự. Người này thú thật có kẻ đến đưa tranh cho in, hứa thưởng cho tiền. Phong hỏi: "Chuyện tôi mọc sừng có à?". Người này bảo: "Nghe phong phanh khi ông ở quê, cậu Ðiềm với bà Thiều Hoa thân mật lắm". Phong cười nhạt bảo: "Cám ơn ông. Ông về làm việc đi. Lần sau nhớ phải vì lợi ích của chủ. Không nhớ điều ấy thì đừng làm báo". Người này băn khoăn: "Tôi tưởng báo chí chỉ phụng sự tự do, bình đẳng, bác ái". Phong bảo: "Ông hay đùa nhỉ. Mời ông đi ra, tôi mà cáu lên thì ông ăn cứt". Phong về nhà, vô cớ đập tan cái gương treo tường. Thiều Hoa hỏi: "Ông chán cái mặt ông à?". Phong không trả lời. Thiều Hoa bảo: "Ông mệt rồi, nên nghỉ đi". Phong bảo: "Mai tôi về quê". Hôm sau trời mưa to, bong bóng nước nổi lềnh bềnh trước hiên nha. Phong ngồi gập chiếc thuyền giấy thả theo dòng nước. Bỗng đứng dậy, đòi đi về quê ngay giữa lúc mưa. Thiều Hoa và Ðiềm ngăn lại không được. Phong lấy ô che đầu đi bộ ra đường. Một lúc ô ướt, nước thấm vào người. Phong tức mình vất cả ô đi. Càng ngày

50

mưa càng to, Phong cứ đầu trần đi giữa lòng đường. Một chiếc xích lô đi ngang qua kêu "Úp, ếp!". Phong quay lại, không gọi cổng mà lấy chìa khóa riêng mở cửa vào nhà. Thiều Hoa và Ðiềm đang nằm hú hí với nhau, thấy Phong về, mặt cắt không còn hạt máu. Phong bắt Thiều Hoa ngồi rồi cũng ngồi vào ghế. Ðiềm run như rẽ, đứng ở trước mặt. Phong hỏi: "Hai người ngủ với nhau mấy lần rồi?:. Thiều Hoa bảo: "Thưa, sáu lần". Ðiềm bảo: "Một lần ở vườn hoa Bôn-bo là bảy". Thiều Hoa bảo: "Lần ấy vội vàng thì tính làm gì". Phong bảo: "Bảy lần hay bảy bảy lần? Thằng Ðiềm, tao nuôi dạy mày mà mày trả hiếu thế à? Mày quỳ xuống, liếm chân vợ tao với tao không thì mày chết". Ðiềm quỳ xuống đất, Thiều Hoa rụt chân vào, liếc mắt thấy Phong trừng mắt lại đưa chân ra. Ðiềm đưa tay đỡ chân Thiều Hoa đưa lên ngang miệng rồi bò sang phía chân Phong. Phong đạp chiếc giầy bết bùn vào giữa mặt Ðiềm rồi bảo: "Cút đi". Phong bảo Thiều Hoa: "Thằng hèn như thế mà đi hiến thân cho nó". Nói xong lên gác, nằm lăn ra, úp mặt vào gối mà khóc. Chiều hôm ấy sốt li bì. Thiều Hoa một lòng săn sóc Phong, ngày đêm tận tụy bên cạnh không lúc nào rời. Ðược nữa tháng thì Phong khỏe lại, trở nên ít nói, tính tình thay đổi, cư xử với mọi người hết sức lạnh lùng.

XI Sau đợt ốm, Phong thường ngồi nhà tư lự. Một hôm bà Vân bán hàng khô ở chợ Ðồng Xuân đến thăm, biếu Phong hai cân mứt sen với mấy lạng chè. Phong hỏi:

51

"Chợ búa dạo này thế nào?". Bà Vân bảo: "Thời khó khăn, chúng em làm ăn cơ cực lắm". Phong bảo: " , tiền bạc không biết thương người có tâm". Bà Vân bảo: "Em muốn giật nóng ông bà món tiền, định liều buôn chuyến cành kiến, có người đặt hàng, nhưng em không có đủ tiền". Phong hỏi: "Bà vay bao nhiêu? Bao giờ trả?". Bà Vân bảo: "Vay một tháng, lãi mười phân". Phong bảo: "Dạo này tôi cũng cạn tiền. Thôi được". Rồi thở dài: "Tôi không thích phụ nữ lăn lộn kiếm sống. Phụ nữ phải lành lặn, sạch sẽ". Bà Vân bảo: "Ôi giời, em cũng biết thế, nhưng không lăn lộn thì lấy gì mà ăn. Ông mà cầm quyền thì bọn chúng em được nhờ". Phong bảo: "Chính trị rặt trò mờ ám, bỉ ổi". Bà Vân bảo: "Có bà Tôn Nữ Phương ở Huế ra chơi đang ở nhà em, bà Phương giỏi tướng số, bói toán, để em đưa đến xem hầu ông bà". Hôm sau bà Vân đưa đến một bà già mặc áo dài màu mỡ gà, trên ngực áo có thêu hoa. Bà Vân bảo: "Ðây là bà Phương, người trong hoàng tộc". Phong gọi Thiều Hoa ra tiếp. Bà Phương bảo: "Xem cho ai trước?". Phong bảo: "Xem nhà tôi trước". Bà Phương ngắm nghía Thiều Hoa, bảo: "Bà vén tóc mai lên xem". Lại bảo: "Bà cho tôi xem tai phải". Lại bảo: "Bà đứng lên đi đi lại lại". Nhìn ngắm một lúc rồi nói: "Thưa bà, bà cốt cách sang quý, mông to, đầu nhỏ, đây là tướng bậc mệnh phụ phu nhân, từ bé đến lớn không vất vả gì, đi đâu cũng được mọi người yêu kính. Bà hai đời chồng. Miệng cười tươi thắm là chuyện thị phi có nhiều. Nhưng dù có tội vẫn được chồng tha. Trên trán có vệt u tối, nhân trung méo xệch, tháng này đại hạn, sợ rằng khó toàn tính mạng". Thiều Hoa giật mình, mặt tái đi, vội hỏi: "Liệu có cách nào giải hạn được không?". Bà Phương bảo: "Thiên cơ bí mật. Biết nói ra sao. Số đã thế nào. Phải ai nấy chịu".

52

Bà Phương bảo Phong: "Ông cho tôi xem tay trái". Lại bảo: "Ông đứng lên đi đi lại lại". Rồi bảo: "Ông là người cơ mưu, gian hùng, nhưng lòng rộng, trọng nghĩa khinh tài, cả đời không chịu thiếu thốn tiền nong, vinh hoa phú quý đủ cả. Cái gì ông cũng tinh tế. Ông là hổ vàng, người đời theo ông còn mệt. Tháng này ông cũng có hạn, xin ông giữ mình". Phong gật đầu, cũng không hỏi thêm. Sau đó pha trà, chuyển sang nói về Kinh Dịch. Phong hỏi: "Dịch chủ bốc phệ. Ðiều ấy thế nào?" Bà Phương bảo: "Ðúng đấy. Nhưng xem Kinh Dịch thoát được thì hóa thành thần, không thoát thì hóa ma quỉ. Trong vạn người, có khi cũng không có thần, chỉ có ma quỉ". Phong thấy bà Phương nói năng lưu loát mới hỏi: "Hồi trước bà có học hành gì không?". Bà Phương bảo: "Cũng có học hành đôi chút. Sống ở kinh đô, người tài có nhiều, cũng có cái may, nhưng mà họa nhiều hơn". Phong gật đầu, giữ bà Phương lại ăn cơm, sau đó biếu một số tiền đi đường. Thiều Hoa từ hôm ấy lo lắng, đứng ngồi không yên. Phong bảo: "Bói toán là trò nhảm nhí. Nghĩ ngợi làm gì". Thiều Hoa bảo: "Tôi sợ lắm. Tôi nghe tin lão Tân Dân mới ra tù. Lão ấy nham hiểm, xin ông cẩn thận". Phong hỏi: "Ai bảo Tân Dân ra tù?". Thiều Hoa bảo: "Ðêm qua tôi nằm mơ thấy lão Tân Dân về gọi thằng Hạnh. Lúc ấy nữa đêm, thấy lão Tân Dân đưa cho thằng Hạnh một thùng sắt tây qua phía hàng rào". Phong bảo: "Mọng mị vớ vẩn". Nói thế nhưng Phong cũng đi xuống nhà ngang, thấy thằng Hạnh đang ngồi trên ghế ngủ gật hệt như mọi ngày, cái đầu to tướng gục ở trước ngực, cái chân què vắt đằng sau, Phong yên tâm đi lên nhà. Ðêm ấy, Phong đang ngủ say bỗng nghe tiếng kêu. Mở mắt thấy lửa lem lém. Phong đạp cửa, thấy cửa khóa chặt. Sợ quá, Phong phá cửa sổ lao ra, bỗng thấy có một

53

bóng đen nhảy múa như con cào cào, tay cầm can xăng tưới khắp nơi. Nhận ra thằng Hạnh, Phong nhảy bổ đến đè ra bóp cổ. Lửa cháy dữ dội, rát bỏng cả người. Phong bóp chặt cổ thằng bé đến lúc thấy hai mắt nó lồi ra rồi mới buông tay. Phong đứng lên, trông thấy cả căn nhà hai tầng đang cháy bùng bùng. Phong ném xác thằng Hạnh vào lửa rồi chạy ra ngoài thì bị một vật nặng giáng vào đầu, ngã lăn ra, mê man không biết tí gì.

XII Chuyện lão Tân Dân ra tù, đốt nhà Phong để trả thù ầm ĩ cả lên. Nghe nói lão Tân Dân sau đó trốn sang Cao Miên. Thiều Hoa ở trên gác hai, không xuống được, bị chết thiêu. Phong bị bỏng sau lưng, phải nằm chữa bệnh, rất khổ sở. Bấy giờ ở Kẻ Noi bà Cẩm đã chết. Cô Lan thấy Phong ít về quê nên thậm thụt đi lại với lão Trương cũng làm nghề bán thịt. Thấy Phong bị nạn, cô Lan cũng chẳng ra thăm, chỉ cho người mang tiền và quà ra. Về sau, nghe tin bệnh Phong nặng lắm, lão Trương ngang nhiên đi lại với cô Lan giữa ban ngày ban mặt. Ba mẹ con cô Chiêm sống dưới nhà ngang, không dám hé răng nói gì. Một hôm có người bà con cũng họ Phạm ở Kẻ Noi đến thăm Phong. Người này bảo: "Họ Phạm thất lộc rồi. Bà Lan với lão Trương chiếm nhà, lão Trương đã cho dọn đồ đạc sang kê giữa gian tiền tế". Phong vùng dậy, khạc ra một bãi máu, bảo: "Tôi chưa chết đâu. Họ Phạm mất nhà thế nào được. Tôi còn thằng Tâm, thằng Phúc cơ mà". Vài hôm sau, Phong gượng dậy bảo người dìu đến nhà một viên luật sư quen biết. Ông này du học về, rất thạo

54

pháp luật. Phong vào thấy ông luật sư đang ngồi tiếp một bà trạc bốn mươi tuổi. Ông luật sư bảo: "Chào ông Phong. Ông ngồi xơi nước, chời tôi một lát". Phong gật đầu, ngồi nghe chuyện của ông luật sư với người đàn bà. Ðại để hai vợ chồng có đứa con trai mười hai tuổi, thằng bé rất hỗn, người vợ đánh con vô ý quật phải hòn dái thằng bé, thằng bé chết, người chồng vốn có tư tình với một bà khác, nhân thế kiện vợ giết con. Người vợ phân bua vô ý đả thương nên con chết, người chồng bác lại, muốn ghép vợ phải đi tù để ly dị, chia của cải. Người vợ bây giờ tìm đến luật sư giúp đ~. Phong nghe chuyện, thấy ông luật sư trích dẫn sách vở, đại để như điều 216, 217 thì ngán ngẩm, đứng dậy về. Ông luật sư hỏi: "Sao ông lại về!". Phong bảo: "Tôi có cái nhà ở quê, mấy đứa khốn nạn định chiếm, muốn nhờ ông can thiệp". Ông luật sư bảo: "Ðược thôi, theo điều 318 . . .". Phong bảo: "Cám ơn ông. Chuyện này không có điều luật nào đâu. Tôi xử lấy thôi". Chiều hôm ấy, Phong cho gọi một tên anh chị khét tiếng tên là Tước sẹo đến bảo: "Việc thế này . . . thế này . . . Bao nhiêu tiền?". Tước sẹo bảo: "Chúng tôi làm việc nghĩa, không mặc cả như bọn tầm thường". Phong bảo: "Tôi hiểu rồi. Ông cứ cầm tạm ít tiền cho tôi yên lòng. Không sao đâu. Tiền bạc là một việc, nghĩa cử là một việc, tôi nhầm lẫn thế nào được". Tước sẹo hài lòng ra về. Ít bữa sau, lão Trương và cô Lan đang chuẩn bị dọn hàng ở chợ thì có một b.n người không biết ở đâu kéo đến gây sự. Lúc ấy đã chạng vạng tối. Bọn người kia xông vào đánh hai người, cô Lan chết ngay, còn lão Trương đưa về nhà ba hôm sau cũng chết. Khi nhà chức trách đến xem thì bọn người kia đã biến mất tăm. Cuối năm ấy, Phong sức yếu nhiều, bèn lần lượt rút vốn buôn bán ở các nơi về.

55

XIII Hai đứa con trai cô Chiêm cách nhau tám tuổi. Thằng Phúc lên mười, thằng Tâm lên hai. Phong có ý định cho Phúc đi học, bèn về nhà bàn với cô Chiêm. Dịp ấy đầu hè, trời nóng như rang đến hơn chục ngày, bỗng mây vần vũ kéo đến, sấm chớp nhằng nhằng. Thằng Phúc lần đầu được đi xa nhà thích lắm, cứ sốt ruột hỏi: "Ðợi đến hết mưa thì đến bao giờ?". Cô Chiêm không muốn cho con đi học, nhưng sợ Phong, không dám nói. Thằng Phúc hỏi: "Thế tôi đi học ở luôn ngoài Hà Nội à?". Phong bảo: " , tao gửi mày cho ông bạn tao là giáo sư văn chương nuôi dạy". Thằng Phúc đứng lên, đi khắp các phòng một lượt, lên cả nhà thờ, xuống bếp như muốn ghi nhớ tất cả những gì dính líu đến kỷ niệm ấu thơ của nó. Sau đó, nó ngồi ở cửa, mắt nhìn lên trời, ngóng mưa. Từ phía đằng đông, mây đen kéo đến ùn ùn. Không có tí ti gió nào. Một vài hạt mưa rất to lộp độp rơi xuống mái ngói. Cô Chiêm đang xếp quần áo cho Phúc vào cái hòm gỗ trong nhà. Phong ngồi ở trên sập gụ quạt cho thằng Tâm ngủ. Thằng Phúc reo lên "Mưa đá". Reo xong nó chạy ra ngoài sân. Bỗng lòe một cái, rồi một tiếng sét long trời lở đất vang lên. Khói ở ngoài sân bốc lên một đụn đen ngòm khét lẹt. Cô Chiêm và Phong ngã lăn ra, mái ngói xô ầm ầm. Lát sau, Phong tỉnh lại, tê dại cả người, thấy cô Chiêm đang gào khóc bên xác thằng Phúc giữa sân. Mưa như trút, nhưng mùi khét lẹt vẫn nồng nặc. Thằng Phúc nằm cong queo, người như bị rút hết nước, đầu nó trọc lốc, khô xém. Một mảng sân gạch Bát Tràng nát vụn.

56

Phong ốm liệt giường sau khi thằng Phúc bị sét đánh chết. Phong không ăn uống, người sốt rất cao. Ðang nằm, Phong mơ thấy mình lạc vào địa ngục. Một cái vạc to lửa cháy bùng bùng, những con quỷ dạ xoa mặt đen tóc dài đang chụm củi đun. Trong vạc, những người bị xích xiền rên la thảm thiết. Phong thấy một người bảo: "Ta là Phạm Ngọc Liên đây". Lại thấy một người bảo: "Ta là Phạm Ngọc Gia đây". Lại thấy một người bảo: "Ta là Phạm Ngọc Chiểu đây". Lại thấy mấy người đàn bà bảo: "Ta là Diêu đây, là Lan đây, là Thiều Hoa đây". Phong giật mình dậy, thấy những người trong giấc mơ rất giống những người mình vẫn thường gặp, tựa như ông Liên thì giống ông chủ sự dây thép, ông Gia giống ông luật sư, ông Chiểu giống ông bán báo, cô Lan giống cô bán gạo, Thiều Hoa giống cô bán đường. Cô Chiêm bế thằng tâm ngồi cạnh giường Phong. Phong bảo: "Mình ơi, thằng Tâm là giọt máu cuối cùng của họ Phạm đấy. Chỉ mong giọt máu này đỏ chứ không đen như ông cha nó ". Nói xong thì nấc mấy cái rồi đi. Bấy giờ là giờ Dậu, ngày 13 tháng Ba năm Canh Thìn (1940).

XIV Bấy giờ ai đến Kẻ Noi, huyện Từ Liêm vẫn thấy ngôi từ đường của dòng họ Phạm. Nó cứ trơ trơ trước mọi biến động cuộc đời, thời gian có làm cho nó cũ kỹ, mục nát, hư hỏng đi vài bộ phận nhưng về cơ bản không thay đổi. Nghe nói về sau cô Chiêm ở vậy nuôi Tâm, hai mẹ con chỉ trồng rau, nuôi lợn, làm đậu phụ bán. Tâm lớn lên, tự học, đọc nhiều sách vở, nhưng không thi cử hoặc đi làm gì.

57

Bà Chiêm mất năm ngoái, tức là năm Bính Dần (1986), thọ chín mươi tuổi. Mộ bà Chiêm để ở cánh đồng Cổ Cò, mộ hướng về phía sông Hồng, nơi có một cây gạo cổ thụ đơn độc. Dưới gốc cây, có ba đống mối đứng chụm vào nhau hơi giống ba ông đầu rau. đấy, vào mùa nước, người ta đồn Hà Bá với các quân tướng ba ba thuồng luồng vẫn lên tụ họp đánh chén, đom đóm thắp đèn sáng rực thâu đêm, ếch kêu ồm ộp lẫn trong tiếng nhạc nghe như tiếng người nức nở.

58

CHÚT THOÁNG XUÂN HƯƠNG "Chành ra ba góc da còn thiếu..." (Hồ Xuân Hương)

TRUYỆN THỨ NHẤT Tổng Cóc nhìn ra ngoài cửa. Ông ngắm cái sân lát gạch Bát Tràng lâu ngày đã rỗ rạn. Do cống thoát nước đã mấy năm nay tắc nên mưa là nước tràn cả vào sân. Để thế, không những sân mà cả ngôi từ đường cũng hư nát. Thông cống thì sức nhà này không làm riêng được, cái cống đụng chạm đến bao nhiêu nhà. Tổng Cóc nghĩ ngợi, ông vớ lấy be rượu sành, mở nút lá chuối rót ra chén. Đây là thứ rượu Xuân Hương mang ở quê ngoại Kinh Bắc về nhà. Tổng Cóc đăm đăm nhìn vào chén. Hơi rượu thơm sực làm ông hắt hơi rịn cả nước mắt. Ông bực mình lấy ống tay áo lau mắt rồi uống đại một hơi. Ông chẳng bao giờ có được phong độ lịch lãm như người. Trời sinh ra ông thô vụng xấu xí thì đành chịu. Ông có cái lố cái hiệp của ông, dễ gì ai có? Tổng Cóc không chịu được cái vẻ sạch sẽ gớm ghiếc của người đời. Nó chán chết. Ông thích những gì ào ạt của cuộc sống thực trần tục. Ông không được học hành nhiều, việc nhà thì bận rộn. Ông sợ cái nghèo cái đói. Nhìn ra ông thấy một lũ vô học và vô lương tâm vẫn đang nhởn nhơ ăn sung mặc sướng. Như thể ông hoàng bà chúa. Ông điên người. Ông cũng lao động quần quật, ông cũng đã đổ mồ hôi nước mắt. Ông phải có quyền sung sướng

59

theo cách sắp xếp của ông. Tổng Cóc rót chén rượu nữa. Ông biết thiên hạ coi ông chẳng ra gì. Thiên hạ coi ông là thô lậu. Ông chẳng cần. Ông khinh những kẻ không dám sống thực, không dám lặn sâu xuống đáy cuộc đời. Ông cũng khinh cả những kẻ lặn mình xuống đáy rồi ngập ở đấy không sao lên được. Ông hiểu sống cho giản dị là khó vô cùng. Thế nào là phải? Sống phải cho mình là đã sống phải cho thiên hạ. Làm điều gì đấy không phải với mình thì sao ép người khác phải? Thiên hạ uốn theo chiều gió, gió thổi bốn phương tám hướng thì biết sao được? Bản tính người Việt là hay trông ngóng, nhiều khi quên gốc ở ngay chính tim óc mình. ăn cũng trông nồi trông hướng, nhưng cứ trông mãi mà quên mất ăn thì chết. Cha chung không ai khóc là thế, vì cứ ỷ nhau, ngóng nhau. Nhà này ông không tự lo mà cứ trông vào họ hàng thì cũng sạt nghiệp lâu rồi, đâu mà xây cất được cả dinh cơ như vậy? Thiên hạ làng nước ghét ông, nó thấy ông cứ trần lực, ông cóc cần gì ai cả, ông cứ lầm lũi lạnh lùng xuyên lên như dao xuyên thịt. Nó nói xấu ông. Nếu chúng cứ sống như ông, liệu mặt chúng có nhàu đi như đúm váy rách? Tổng Cóc thở dài. Đã từ lâu khi ông ra đường ông đều xâu theo vài ba chuỗi tiền Cảnh Hưng vào cạp quần, ông buộc nó cả vào bụng. Ông coi tiền như rác bùn nhưng cũng coi nó như vua chúa. Đồng tiền giúp ông hiểu rõ đời hơn theo cung cách riêng của nó. Hôm ở hội Gióng có bà quận chúa họ Trần nổi tiếng kiêu kỳ, võng lọng nghênh ngang, coi người như rơm rác. Bà đánh bạc thua, sĩ diện muốn gỡ bạc nhưng chẳng có tiền, cũng chẳng dám vay các bậc công hầu. Ông thấy điều đó và giữa đám hội ông thản nhiên di đến ghé vào tai bà nói nhỏ: - Tâu lạy quận chúa, quận chúa sẽ đủ tiền đánh cho hết hội.

60

Quận chúa đưa đôi mắt sắc như dao nhìn kỹ Tổng Cóc, rồi kéo ông ra một góc: - Nếu ông có cho ta vay thì ta cũng chẳng có tiền để trả! Chồng ta là quan thượng thư nhưng chẳng bao giờ cho ta tiền cả. - Tâu lạy quận chúa, quận chúa có thứ bán được tôi mua. Quận chúa đỏ mặt, bà im một lát rồi ỡm ờ: - Thế ông mua gì mà trả thế nào? - Tâu lạy quận chúa, nụ cười quận chúa đáng tràm quan tiền. Tôi xin trả gấp hai lần số đó. Đêm đó, Tổng Cóc lần đầu được ngủ với một bà lớn quyền thế nghiêng trời. Cành vàng lá ngọc cũng chẳng khác gì con đỏ. Hôm sau hai người gặp nhau. Quận chúa nửa đùa nửa thật: - Ta ngủ với ông mà cứ kinh hoàng tưởng như ông hiếp dâm ta! Tổng Cóc đáp lại quận chúa: - Tâu lạy quận chúa, việc mua bán đã xong rồi! Tổng Cóc uống chén rượu nữa. Ông lấy cái tráp sơn đen đựng tiền dùng những ngón tay thô ráp lần từng đồng. Ông chán ghê gớm. Trong cuộc đời mình ông vất vả nhiều, ông đã buôn một bán mười, đã thu tô cấy rẽ, đã toan tính từng nước cờ đời nhưng trong mình vẫn cứ tê tái cảm giác thua cuộc thế nào. Ông thấy trong đời toàn những thằng ác, thằng hèn nhưng lại ranh khôn như cáo. Ông sợ nhất bọn nho giả, sợ đám chiêu ấm và bọn tập tọng văn chương. ở trong cuộc đời, chúng lấy lý đạo dồn ông vào bẫy thiện tâm tín nghĩa, làm cho ông lơi cái sắc cái lạnh vốn có ở ông. Đúng lúc mà ông do dự thì chúng phỗng sạch, đôi khi đã dăm ba lần ông suýt trở nên tay

61

trắng. Sợ thật, ông thấy gai người. Ông mà thất bại, ông mà ăn đất thì chết ráo hết cả nhà. Ông chịu Xuân Hương ở chỗ bà luôn thất bại ở trong cuộc đời mà vẫn thăng bằng, mà vẫn không có cảm giác thua cuộc. Ông ngờ ngợ bà to lớn hơn ông, bà mạnh mẽ hơn, sống có dũng hơn. Trong cõi nhân gian, tất cả mọi sự nghiêm chỉnh cũng là khôi hài, nên có cơ hội cần phải cười ngay, thế nhưng không hiểu tại sao ông không cười được. Tổng Cóc đứng dậy ra trước bàn thờ. Ông hài lòng thấy bàn thờ sạch sẽ. Nải chuối trứng cuốc bày trên đa sơn, một đa hoa trà cạnh bên tinh khiết. Hôm nay mồng Ba tháng Ba. Chắc là Xuân Hương đã dọn bàn thờ từ sáng sớm. Ông nhìn theo hút dải khói mỏng mảnh. Ngoài ngõ bỗng có tiếng mõ vọng vào: "Chiềng làng, chiềng chạ... Trên ngược dưới xuôi Làng ta có người Không chồng mà chửa... ửa..." Tiếng rao rất khó chịu. Chắc cánh hương lý bày trò gọt đầu bôi vôi đĩ Huệ dưới Đoài. Tổng Cóc cau trán nghĩ ngợi rồi chạy ra ngõ: - ơi mõ! - ông đưa tay vẫy. - Mày đừng rao nữa mà chạy vể bảo Lý Cờ lại đây tao bảo. Ông đóng sập cửa. Ông biết làng này đố có thằng nào dám dây vào ông. Lý Cờ là hạng đàn em. Tất cả lề luật làng này đều trong tay nó. Nó cho mõ rao trước cửa nhà ông là nó nhằm gì không biết. đĩ Huệ ngủ hết với cánh đàn anh trong tổng. Ông thấy thương nó. Dĩ Huệ phải nuôi hai bố mẹ già, mảnh đất cắm dùi không có, nó không bán trôn thì nó lấy gì mà sống.

62

Ông ra tràng kỷ ngồi đợi Lý Cờ. Ông rót nước trong cái ấm đất nung ủ rơm ra chén chiêu từng ngụm. Nước nụ vối nóng, Xuân Hương đã bỏ vào đôi lát gừng nên có vi thơm là lạ. Rặng vối nhà ông năm nay nhiều nụ, một nửa làng nây rồi sẽ phải mua nụ vối nhà ông. Đây là món tiền dành Tết. Lý Cờ mặc áo the đen lật đật đi vào, trên tay cầm chiếc roi song. Tổng Cóc cười thầm. Ông bỗng chợt nhớ trò chơi ú òa khi ông còn nhỏ, ông, nấp một chỗ nhìn rõ địch quân hoang mang rón rén lại gần. - Vào đây! - ông giơ tay vẫy. Không để cho khách ngồi yên ông đã phủ đầu. - Chú làm việc công mà ngu như chó! Chú cho gọt đầu bôi vôi đĩ Huệ. Ra trước hàng tổng, nó khai hết bọn chú ra thì rồi có đẹp mặt không? Lý Cờ há miệng, bộ ria mép khẽ động đậy. Tổng Cóc rót nước mời khách, ông nheo mắt nhìn khuôn mặt thẳng đuỗn của hắn, ngạc nhiên nhận ra ở vành tai trái có nốt ruồi đỏ. Cái nốt ruồi này tướng lạ. - Đây là của các cụ... - Lý Cờ đỡ lấy chén nước. - Không làm thì không giữ được lệ làng... Sợ thiên hạ cười... Tổng Cóc cười khẩy: - Chú ngu lắm! Các cụ cũng ngu như chú... - Vậy ý quan bác thế nào? - Lý Cờ nén giận, mắt hắn lừ lừ nhìn theo bàn tay Tổng Cóc lần lần dưới áo - Quan bác thử nghĩ lại xem... - Ta không bàn bạc với chú! - Tổng Cóc ném lên mặt bàn mấy chuỗi tiền đồng. - Chú cầm lấy chuỗi tiền này về làm bữa rượu bàn với các cụ! - ông nhìn Lý Cờ, đôi mắt nảy

63

lửa nhưng giọng nói ông dịu lại. - Tha cho nó, cho nó ít tiền rồi bảo nó lấy thằng mõ làm chồng. Tổng Cóc đứng dậy. Lý Cờ điên ruột nhưng vẫn phải cầm lấy mấy chuỗi tiền đồng giật lui ra cửa. Tổng Cóc tiễn hắn ra ngoài ngõ. Ông bỗng bắt sang chuyện khác. Ông hỏi Lý Cờ: - Thóc giống vụ này nhà chú khá không? Lý Cờ bắt chuyện. Đi đến hết ngõ thì cả hai bên đều đã vui vẻ. Hai người biệt nhau thân tình. Tổng Cóc lững thững đi vào. Ông nhìn rặng vối hai bên bờ ao thở dài: vụ vối năm nay thế là chỉ đủ số tiền đưa cho Lý Cờ lúc nãy. Ông ngắt một bông hoa nhài đưa lên mũi ngửi rồi nhăn mặt. Ông bước lên bậc thềm nhà. Trên sập gụ, một mâm bánh trôi vừa làm xong bốc nóng. Ông ngơ ngác nhìn xung quanh ngôi từ đường tĩnh lặng để tìm bóng của Xuân Hương...

TRUYỆN THỨ HAI ấm Huy đứng lẫn trong đám chiêu ấm đang tụm ngoài sân công đường. Chàng chán ngấy chuyện khoe khoang nhà cửa, ngựa xe, áo quần của họ. Chốc chốc, vài ba nhóm người trịnh trọng mang câu đối phúng từ cổng đi vào, đàn ông mặc áo the đen, đàn bà mặc áo mớ ba mớ bảy. Chàng nhận ra được rất ít người quen. ấm Huy sửa lại vành khăn tang trắng trên đầu rồi đi lững thững. Mấy bác lính lệ đang vộí vã bắc thêm rạp. Chiếu hoa trải cả trên hè, trên sân mà vẫn không đủ chỗ ngồi. Mấy bà già đang têm trầu, đống trầu ngồn ngộn đầy mấy

64

tráp sơn. Đằng sau công đường ầm ĩ tiếng lợn kêu. ở giữa công đường, hương khói mờ mịt. Câu đối phúng bằng vải, bằng giấy treo đầy trên cột, trên vách. ấm Huy thấy rất nhiều người đội khăn tang trắng, phải đến gần một chục người vận áo xô gai. Chàng hơi ngạc nhiên, chàng vẫn đi lại thường xuyên với anh họ mình sao không gặp những người này. Chàng biết ông phủ Vĩnh Tường giao du có chọn lọc lắm. Họ hàng đừng hòng nhờ vả gì ông, không làm quan cầu lợi. ấm Huy rất nể anh mình nhưng trong thâm tâm chàng thấy ông cầu kỳ. Chàng trọng Xuân Hựơng vì bà sáng suốt hơn chồng. Bà gieo ở lòng chàng một nỗi kính phục và sợ hãi. ấm Huy nhìn quanh. Chàng không thích bầu không khí đầy đủ chỉn chu của đám tang này. Chàng đã dự nhiều đám tang người khác, chính việc tang gia bối rối làm chàng thấy yên tâm hơn về người đã chết. Người ta lúng túng, công việc cứ lung tung, thiếu cái này, thừa cái nọ, ai cũng thấy mình làm được, giúp được dẫu rằng có khi chẳng giúp làm gì cho tang chủ cả. Người ta xích lại nhau hơn. Tất cả hướng vào một đích. Họ có thể nói về chuyện mùa màng, công danh, thua lỗ, được bạc, đủ tất cả chuyện thế thái nhân tình nhưng đều hướng về cái chết vô nghĩa hay có nghĩa đang chờ đón họ. Sự hướng nhận ấy vô thức, người chết nằm trong quan tài chỉ là cái cớ gợi ý hướng ấy trong mọi người thôi. ở đây không có điều ấy. ấm Huy ngạc nhiên hiểu rằng dù chàng có mặt hay không có mặt ở đám tang này đều không quan trọng. Thế mà ngoài Xuân Hương ra thì chàng là thân thiết nhất với người đã khuất. Không ai cần chàng. Có lẽ không cần cả Xuân Hương nữa. Tất cả đã sắp xếp rồi. Ai có công việc người nấy. Thời giờ đã được tính toán. Ngay cả tiếng kèn, tiếng. phách của phường bát âm cũng được tính toán, khúc khoan khúc nhặt cho từng người viếng ông phủ Vĩnh Tường. ấm Huy đã biết là Xuân Hương đã giao cho tri

65

huyện Thặng đứng ra làm tang chủ lo toan công việc. Hình thức đám ma chỉ là một chuyện. Có chuyện gì dó liên quan đến cả ông phủ Vĩnh Tường, đến cả Xuân Hương và những người đứng xung quanh đây nữa. ấm Huy vòng ra sau dinh công đường. Cách đây mấy tháng, ông phủ Vĩnh Tường đã vui Trung Thu với những người quen ở đây. Cột nhà Thủy Tạ vẫn còn vết xém do mấy đứa con của tri huyện Thặng đốt nến. Trong đám quan lại, Thặng thuộc lớp người kỳ cựu có nhiều thâm niên. Thặng không bon chen nhưng lão khét tiếng đục khoét dân lành, cũng lạ, trong hạt của lão không hề xảy ra loạn lạc, kiện cáo như bao huyện khác. Lão coi làm quan chỉ là một nghề. Lão bảo ông phủ Vĩnh Tường: - Đệ phục quan bác không coi quan trường là nơi kiếm sống. Đệ không làm được - Lão lắc cái đầu múp míp và hổn hển cười - Đệ chỉ ăn no ngủ kỹ, làm tròn bổn phận đối với triều đình. Lính đệ bắt đủ. Thuế đệ nộp đủ. Thằng nào chống lại đệ cùm. - Nên phải lựa lời thuyết phục dân lành, - ông phủ Vĩnh Tường bảo Thặng. - Dân ta tốt lắm. Bậc cha mẹ dân phải nêu được nghĩa công bằng. - Đệ có bảo dân xấu đâu... - Thặng cười ha hả. - Đệ chỉ không thích được nghĩa công bằng mâm cơm của đệ với chúng. Quan bác đã nhìn mâm cơm chúng chưa, đệ mà ăn thế đệ chết lâu rồi... Ông Phủ Vĩnh Tường im lặng. Ông nể mặt Thặng lớn tuổi hơn. Thặng đã giúp ông từ thuở hàn vi, thuở ấy ông chỉ có những hoài bão dự định trong đầu và dăm cuốn sách thánh hiền. - Dân ta cực khổ. Tôi trông vào đâu cũng thấy xót xa. Phải lấy lý lẽ văn chương và sự công bằng pháp luật hướng

66

đạo dân mình. - ông phủ Vĩnh Tường nói. - Tôi muốn sĩ phu và bậc cha mẹ con dân phải hiểu... - Đệ chịu khí chí của quan bác vậy, - Thặng cười, - nhưng dân nó ghê gớm lắm, cứ bảo một đằng nó làm một nẻo. Trong hạt của đệ có lão Lý Hồng. Thằng ấy đệ phải phục nó. Đệ bảo gì nó cũng gật nhưng mà về làng nó làm khác cả, nó dùng mình làm ngoáo ộp để nó bóp hầu con đỏ. Dân kêu nó bảo hỏi huyện. Đệ biết đệ phải ngậm tăm, nhiều khi đệ phải học nó xử sự với đời... - Ông phải cách cổ nó đi mà thay thằng khác - ông phủ Vĩnh Tường bực bội - Luật của triều đình thế còn thể thống cái gì? - Đệ nghĩ chán rồi! Thay nó thì thằng khác lên cũng thế. Thực ra dân nó chỉ lo làm ăn nó có cần gì chúng ta bày vẽ... Đệ thấy trong hạt của đệ nơi nào mình cứ mặc kệ thì đâu vào đấy, nơi nào mình cứ xăng xái chỉ bảo nọ kia thì loạn... - Tôi nghe đồn ông hách lắm phải không? - ấm Huy xen vào, chàng biết Thặng cũng là tay sâu mọt nhưng lão cũng có cái thực và sự hào hiệp mà chàng vị nể. - Hách chứ! - Thặng giơ ngón tay như quả chuối mắn ra trước ấm Huy. - Không hách thì để cho bọn văn chương các chú làm loạn cả à? Văn chương là miếng đất nghịch! - Dân có nghịch không? - Không nghịch. - Thặng nói thản nhiên như lão đã từng nghiền ngẫm điều này lâu lắm. - Dân quen nô lệ, luật cứ ngặt nghèo nghiêm khắc là xong. Không có bàn bạc gì cả... Ông phủ Vĩnh Tường lo lắng nhìn Thặng:

67

- Cách làm của ông không ổn... Các bậc thánh hiền đều lấy nhân trị làm gốc. Phải lo cho đến từng người... - Đấy là các thánh. - Thặng không chịu thua. - Đệ nghĩ nhân cũng ba bảy đường nhân. Đệ không lo đến thân phận từng người trong hạt của đệ. Không lo được! Người nào có thân thì lo. Đệ chỉ lo việc triều đình, cũng là lo thân của đệ. - Không ai lo đến thân phận từng người cả à? - ấm Huy hỏi, chàng như ngồi trên đống lửa. - Đấy là việc của các chú, của chị Xuân Hương. Văn chương mày lo được đấy! - Thặng nháy mắt cười. ấm Huy chỉ muốn hắt cả chén nước cầm tay vào ngay mặt lão. - Lũ người bé nhỏ chúng ta không thể coi chốn quan trường là nơi để ta tiến hành cách tân này nọ. - Thặng nói. - Quan trường khóa ta vào trong guồng máy con Tạo xoay vần, ta không thoát nổi miệng túi càn khôn đã định.... - Chí của tôi khác... - ông phủ Vĩnh Tường nhiêm nghị. Quan trường là nơi tôi muốn sử dụng... - Đệ hiểu quan bác muốn nói gì rồi. - Thặng cười. - Quan trường nó sử dụng bác thì có... Đệ không muốn nói nữa đâu! Đệ biết quan bác và chú Huy đây khinh đệ, chữ nghĩa đệ nông cạn đệ nói thế thôi. - Thặng quay lại chỗ Xuân Hương đang ngồi với lũ trẻ con nhà lão. Nàng đang kể chuyện gì đó và lũ trẻ con cười như nắc nẻ. Lão đứng nhìn mấy đứa con thích thú. ánh trăng vằng vặc lộng lẫy lạ lùng. Lão bỗng quay lại chỉ ra ngoài trời vẫy gọi ấm Huy: - Chú hãy lại đây... Tất cả những trò bàn luận của chúng ta đều vô nghĩa hết. Thiên nhiên không hề dối trá!

68

ấm Huy đi lại cúi dầu chào chị dâu mình. - Chị vốn công bằng. - Thặng bảo Xuân Hương. - Chú ấm Huy đây lúc nãy còn muốn gây sự với đệ. Chị bảo đệ đúng hay đệ sai? - Đừng hỏi chị ấy, - ấm Huy xen ngang câu hỏi, chàng rất trọng chị dâu và không muốn Thặng đẩy bà vào cuộc. ông đúng một cách khốn kiếp, thế thôi. Tôi cũng công bằng lắm đấy. - Thế ông anh họ của chú sai à? ấm Huy dỏ mặt, máu chàng rần rật trong người. Chàng nuốt nước bọt. Chú tinh tế lắm. - Thặng cười ha hả. - Tôi xin báo trước cho chú: tất cả mọi sự thanh cao hoang tưởng vẫn chết trong cõi dung tục như thường! - Điều ấy vẫn thế, - Xuân Hương tham gia câu chuyện. Tôi không ngờ ông tri huyện tiên tri cho cả cuộc thế thời nay điều ấy. ấm Huy bỗng nhăn mặt lại, chàng thấy nhói ở nơi tim, chàng vẫn văng vẳng lời của Xuân Hương hôm ấy. Đám tang hôm nay tựa như minh chứng cho sự phũ phàng của vòng luân thế. Ông phủ Vĩnh Tường ôm bao dự định tốt lành mà không làm được. Chàng bỗng thấy thương ông quá. Chàng hiểu ra rằng từ đây Xuân Hương sẽ lại bắt đầu chặng đường cay đắng, bao nhiêu là ngọn gió hàn sẽ thốc thổi vào lòng bà. Anh ấy cũng là bé nhỏ với bà nhưng dù bé nhỏ cũng lấp được nỗi cô đơn ít nhiều nào đấy. ấm Huy sửa áo rồi lại đi về trước dinh công đường. Trước sân công đường chật ních người. Chàng len vào chỗ mấy người đào huyệt đang kể lể gì với tri huyện Thặng: - Chúng con đào đến ba lần mới được. Lần đầu đào đến nửa chừng thì cộc : đụng phải tiểu của người khác. Chúng con đào sang chỗ khác thì lại thụt : mai thuổng

69

cứ như đào vào chỗ trống. Hóa ra tổ mối... Chúng con phải sang đến chỗ thứ ba mới được, quan bảo thế có kỳ lạ hay không? - Thiên di đấy! Thiên di! - Tri huyện Thặng gật đầu. Không sao cả đâu, thiên di không độc. Bảo với mọi người là không sao cả. Linh hồn ông phủ Vĩnh Tường vẫn còn muốn sống... Lão chen ra ngoài, người lão chạm vào ấm Huy. - Này chú, chú đi đâu đấy? Chuẩn bị đưa ma ra đồng rồi đấy! Đầu giờ Mùi rồi! - Lão kéo ấm Huy ra một góc vắng. - Chú coi chừng chị Xuân Hương! - Lão lấy tay áo lau mồ hôi trán. Lão thở phì phì, ghé cả cái miệng hôi hám vào mặt ấm Huy. - Mấy quan trên xuống mà bọn khóc thuê và bọn mặc áo xô gai đòi giả thêm tiền. ấm Huy tái mặt, tay chàng bấu chặt vào tay của lão: - Sao khốn nạn thế. Họ hàng bà con dâu cả? Tri huyện Thặng cáu, lão rít nho nhỏ vào tai của chàng: - Chú ngu như chó! Ông ấy có cho bà con họ hàng nhờ vả gì đâu... Ông ấy làm quan nên coi mình là người thiên hạ... Trách nhiệm đám tang hôm nay là của triều dình... Thặng giằng tay ra giận dữ. - Chú cứ mặc tôi! Chị Xuân Hương giao thì tôi lo hết. Tôi có cách xử của tôi. Đáng ra hay chữ như chú thì phải đứng ghi xem chúng nó phúng viếng thế nào, thằng nào phúng sót thì chú bảo tôi. Đằng này chú cứ như người ngoài cuộc... Tôi không nể ehị Xuân Hương quý chú thì tôi cho lính nó cùm chú lại... ấm Huy bỗng trào nước mắt. Chàng khóc hu hu. Mọi người xung quanh kinh ngạc nhìn chàng. Tiếng thanh la bỗng vang lên báo hiệu chuẩn bị đưa ma ra đồng, những hàng cờ phướn bắt đầu xếp thành từng hàng ngoài cổng.

70

Ai đó gạt ấm Huy ra nhưng chàng vội vã chen lên phía chiếc quan tài sơn son. Chàng cố chạm vào nâng quan tài len cùng với bao nhiêu bàn tay khác nữa. Chàng hiểu đây là cơ hội duy nhất trong đời chàng không bỏ được. Đây là trách nhiệm bổn phận của chàng. Chàng hiểu cả tri huyện Thặng, cả chàng, cả ngay ông phủ Vĩnh Tường cũng sẽ chẳng là gì cả, tất cả chỉ là nhân chứng cho sự tồn tại của một CON NGườI: nàng Hồ Xuân Hương mặc áo xô gai đang nức nở khóc, đang nức nở khóc cho nỗi cô đơn mênh mông của cõi đời...

TRUYỆN THỨ BA Khi đạo diễn giao cho anh sắm vai Chiêu Hổ trong bộ phim viết về Hồ Xuân Hương, quả thật anh bối rối vô cùng. Anh hiểu khó khăn của nghệ thuật. Nghệ thuật đòi hỏi dốc lòng, sự trung thực và nhiều thứ khác. Anh được trang bị đến đâu, thực ra anhũng mơ hồ. Việc giao cho anh sắm vai Chiêu Hổ đơn giản như một trò đùa, một trò đùa ác. Anh hỏi đạo diễn: - Anh giao cho tôi đóng vai Chiêu Hổ vì lý do gì? - Cậu là thi sĩ. - Đạo diễn trả lời. - Một thi sĩ trẻ có tài. Cậu hiểu vai trò của cậu. - Thôi đi... - Anh nhăn nhó nói. - Thơ tôi nào có ra gì? - Ban đầu đa số đều thế. - Vì lý do khác phải không? - Anh cố gặng hỏi để cho ra nhẽ. - ừ - Đạo diễn trả lời. - Cậu có dáng dấp một thằng trai điếm. Phụ nữ mê cậu. Trong phim có cảnh Chiêu Hổ bóp

71

vú các cô thôn nữ, cậu vào vai ấy tuyệt vời. Anh tái mặt, cổ họng tắc nghẹn. Đạo diễn bỏ đỉ lát sau quay lại cầm tập bản thảo và tờ công lệnh. - Các cụ ngày xưa cũng du côn lắm... Ra chỗ tài vụ lĩnh tiền rồi về nông thôn mà nghỉ. Cậu được ba tháng chuẩn bị để quay chính thức. Ba tháng trôi qua... Ngày mai anh sẽ trở về thành phố. Anh thấy dứt khoát mình không sắm nổi vai này. Anh đã thuộc làu kịch bản, một kịch bản khốn nạn, văn không ra văn, chữ không ra chữ. Anh thấy xót xa. Hình ảnh trong phim Xuân Hương nhợt nhạt, bị hiểu sai lệch nhố nhăng. Người ta đắp điếm cho nhiều nhân vật những thứ tư tưởng cao siêu đáng ngờ. Đối thoại đầy rẫy ngôn ngữ hoa mỹ. Diễn viên rất đẹp. Cảnh quay rất khéo. Anh biết chắc chắn sẽ có nhiều đoạn thành công. Cảnh hội làng... Cảnh đám ma... Có khi cả cảnh Xuân Hương sáng tác ... Một thứ hiện thực huyền ảo mung lung. Anh đi men theo bờ đê, nhìn xuống dòng sông. Bất chợt, anh thấy một con thuyền nhỏ đậu ở ven bờ. Một thiếu phụ hì hục vác những bao tải nặng từ bến xuống thuyền. Sắc chiều mùa đông xám nhạt. - Tôi muốn giúp chị được không? - Anh bước lại gần con thuyền. Thiếu phụ ngẩng lên nhìn anh. Anh bỗng sững sờ vì vẻ dẹp lôi cuốn của chị. Vẻ đẹp tự nhiên, không ra ngây thơ, không ra từng trải. Anh xốc bao tải lên vai và nhận ra bao chứa đầy ngô hột. Tất cả chừng độ chục bao. Cả hai không nói năng gì. Anh cẩn thận bước trên tấm ván chông chênh và cố gắng giữ để không thở dốc. Đến bao cuối cùng, anh vấp vào mạn thuyền gỗ làm cho bao ngô tung tóe, tấm ván bắc cầu trượt xuống làm anh ngã ướt nửa người.

72

Thiếu phụ bật cười. - Không hề gì. - Anh trèo vào thuyền cố nén cơn đau. - Chị về đâu đấy? - Tôi về ưới bến Tầm Xuân. - Cho tôiđi nhờ thuyền với nhé... - Anh ngồi xuống đi. Cứ để ngô đấy cho tôi. Ngô mua cho lợn, có bẩn một chút cũng chẳng hề gì. Thiếu phụ ngồi ở mũi thuyền, khéo léo điều khiển con thuyền trôi theo dòng nước. Phía bên bờ đê, một đàn chim sẻ bay ào xuống sát mặt sông, qua ngay trên dầu của họ. Họ ngồi như thế một lúc khá lâu, chỉ nghe thấy tiếng mái chèo khè khẽ. Anh rút một điếu thuốc lá rồi châm lửa hút. - Chị nghĩ gì thế? - Anh hỏi và thoáng nhìn vào đôi mắt xa xăm của thiếu phụ. - Anh không phải là người ở đây phải không? - Tại sao chị biết? - Trông cách ăn mặc... cách anh vác ngô thì biết. - Chắc buồn cười ghê lắm phải không? - Không phải người quen lao động... Thiếu phụ lặng im vẻ như biết hối vì lời nhận xét không đâu. Anh hơi mỉm cười. Đôi mắt thật đẹp Anh nghĩ. - Anh là thầy giáo phải không? Cuối cùng sự tò mò đã thắng. - Anh lại nghĩ tiếp: Đôi môi thật đẹp... Cái cổ cũng đẹp... - Đại để thế... ở đây thích thật. Sông nước sao mà tuyệt thế.

73

- Cũng bình thường thôi! - Tại chị quen đấy. Tôi thì tôi thấy cảnh đẹp tuyệt vời. Chị mua ngô về cho gia đình à? - Cho trại lợn. Tôi ở trại lợn. - Công việc chắc buồn phải không? - Sao lại buồn? Tôi chẳng thấy buồn gì cả. ừ tại sao công việc lại buồn? Công việc chỉ cần kết quả. Vui buồn với nó thảy đều vô nghĩa . Chị có chồng chưa? - Anh đột ngột hỏi. - Anh thử đoán xem. - Có! - Anh lưỡng lự. - Không... Chắc là chưa có. Chị hăm tám tuổi phải không? - Tết này tôi băm hai đấy. - Thiếu phụ nheo mắt và lắc mái tóc. Anh lặng người đi vì vẻ nữ tính giản dị ở cử chỉ ấy. Một sợi tóc mai vương trên đôi môi se khô. - Tại sao anh nghĩ là tôi chưa chồng? Nếu chị có chồng thì chồng chị không hiểu chị. - Anh cười nhợt nhạt và cảm thấy đầu gối nhói đau. - Chồng chị là người nông cạn. Anh ấy chỉ tính toán thôi... Có lần anh ấy sắm cho chị cái áo mặc rét thì là áo cũ... Thế là tan vỡ... Chị ra trại lợn và ở một mình trong một căn buồng tập thể có tám mét vuông... Thiếu phụ cười gượng và tái mặt đi. Cái chỗ chân đau buốt lạ. Anh vén ống quần và hoảng hốt thấy đầu gối tím ngắt và ri rỉ máu. - Anh sao thế? - Đau...!

74

- Ôi trời! - Thiếu phụ gác chèo và lại chỗ anh. - Chết thật! Khéo què thì khốn. Thiếu phụ lôi dưới gầm thuyền ra chai dầu hỏa. - Anh đổ vào đấy rồi bóp cho nó tan ra. Anh nghe theo, lúng túng làm đổ gần hết chai dầu. - Không phải thế! - Thiếu phụ bực mình cầm lấy chai dầu đổ từng tí một lên đầu gối anh rồi xoa khe khẽ. Anh nín thở. Anh nhìn chăm chú vào cái lọn tóc loăn xoăn nơi cổ thiếu phụ rồi thở hắt ra. Anh hơi chạm tay vào bên bờ cổ thiếu phụ nơi có sợi gân nổi lên giần giật. Anh cảm thấy được hơi âm lan ra từ đấy và khẽ rùng mình. - Có đỡ không? - Thiếu phụ hỏi. - Đỡ lắm... Một con ong nhặng không biết từ đâu cứ thế bất động bay trước mặt anh. Không dằn lòng được, anh đưa tay vuốt từ cái ngấn cổ trắng ngần xuống lưng thiếu phụ, cảm thấy gờ chíếc áo lót dưới lần vải mỏng. Thiếu phụ oằn lưng nhìn thẳng vào anh. Đôi mắt lạnh lùng giận dữ. Anh đỏ mặt. Chị vùng đứng dậy ra chỗ đầu thuyền và gò mái chèo để cho con thuyền khỏi trôi ra giữa tim sông. Họ ngồi yên lậng. Sóng vỗ ở bên mạn thuyền đều đều gây nên cảm giác xa vắng. - Tôi xin lỗi... - Cuối cùng anh lúng túng nói, mắt nhìn vào bàn tay mình như thể nhận ra ở đấy một vật quái dị ở đâu gắn vào. - Tôi ngu xuẩn quá... Anh nhìn ra phía bờ sông bên lở. ở đấy có một vạt đất vừa mới sụt xuống rào rào. - Tôi xin lỗi chị. Tôi đã cư xử thật tồi.

75

Thiếu phụ hướng mắt nhìn phía bờ sông bên bồi. - Thôi đi... Đàn ông các anh ai mà chẳng thế! Anh giúp tôi mấy bao ngô rồi đòi trả ơn... Đàn ông các anh thế hết. Anh thấy cổ mình dắng ngắt. Một nỗi tê tái lan truyền ở toàn cơ thể. ở phía chân trời có một cánh vạc đơn lẻ bay về. Họ lại lặng im. Lát sau anh ngượng ngập hỏi: - Chị không giận chứ? - Hơi đâu mà giận! - Thiếu phụ trả lời, khóe môi mím lại, đôi mắt nhìn anh không hề khoan nhượng. - Đàn ông chúng tôi đều đốn mạt hết! - Anh buồn rầu nói rồi bỗng cáu lên. - Chị không tha thứ thì mặc kệ chị! Chúng ta là gì ở thế gian này? Trước sau thì tôi cũng chết! Chị cũng chết! Đàn lợn của chị cũng đều chết ráo! - Anh buồn cười thật. - Cuối cùng thiếu phụ bắt đầu vui lại. - Lúc nãy anh bảo tôi ở một mình trong phòng tập thể có tám mét vuông là vì sao thế? - Vì sao ư? Vì chị là người đàn bà rất tốt. - Anh nói hơi thiếu tự tin. - Đàn ông không chịu nổi những người bà rất tốt, tâm hồn của người đàn bà phải hơi nhom nhem thì mới sống được. Bao giờ cũng thế. Khi người đàn ông bất lực, thấy những kẻ khác to lớn hơn mình thì họ gây sự, thế thôi. Thiếu phụ khe khẽ thở dài. - Chị có tin lời tôi nói hay không? - Không! - Thiếu phụ lắc đầu. - Đàn ông các anh như trẻ con cả! Cũng giống hệt như đàn lợn của tôi. Khi nào được ăn thì phởn... Cả hai cười phá lên. Dòng sông êm ả tuyệt vời. - Được trò chuyện với chị thật thích! - Anh thành thực nói. - Chị không giận chứ? Thật tôi ân. hận quá chừng...

76

- Không. - Thiếu phụ trả lời. - Chúng tôi quen rồi. hoa cho người ta hái, làm gái cho người ta trêu ...

Làm

Anh nhìn đăm đăm vào những xoáy nước hút bên mạn thuyền rồi nói: - Cuộc sống thật buồn. Nhưng nó giản dị vầ đẹp Chị thấy thế không? - Thỉnh thoảng, - thiếu phụ trả lời. - Được gặp những người đàn bà như chị thật thích. Tất cả đàn ông chúng tôi đều muốn sống mãi, chúng tôi đều sẽ tốt lên. - Anh nói khéo lắm! - Thiếu phụ cười khẽ, âm thanh giọng cười quyến rũ. - Thế sao lúc nãy anh bảo nếu tôi có chồng thì chồng tôi sẽ gây sự với tôi? - Anh ấy sẽ gây sự... - Anh nói sôi nổi và dầy thuyết phục. - Chắc chắn thế! Anh ấy sẽ đau khổ. Anh ấy sẽ sa ngã, sẽ dánh bạc, sẽ nghiện ngập... Anh ấy đuổi theo những người đàn bà không đáng bằng cái gấu quần của chị. Anh ấy thân tàn ma dại! Cái thằng chó ấy! Nó không biết rằng khi nó mất chị thì nó mất cả cuộc đời! Thiếu phụ hoảng hốt nhìn anh rồi bật òa khóc. Anh sợ hãi. Anh nhìn chăm chú vào khuôn mặt đầy nước mắt của thiếu phụ rồi chậm rãi nói: - Rồi chị sẽ tha thứ... Phải không... Rồi chị sẽ tha thứ... Mặc dầu chị biết điều ấy cay đắng vô cùng... Anh khẽ thở dài rồi thử cử động cái chân. Cái chân không còn đau nữa. - Anh thật tốt quả... - Lát sau chị nói khẽ. - Sắp đến bến rồi...

77

Văn chương là thứ bỉ ổi bậc nhất! - Anh cay đắng nghĩ. Nó gây ra sự nổi loạn trong cuộc đời thường. Cuộc dời trôi đi đơn giản. Day đi dứt lại làm gì? - Chị tên là gì? - Anh đột ngột hỏi. - Tôi muốn đến thăm liệu có được không? Tìm chị ở đâu? - Tôi là Hương. Tôi cặp thuyền vào để anh lên nhé. Tôi phải đưa thuyền vào dưới kênh đào. Anh gật đầu. Nỗi buồn tràn ngập lòng anh. - Chị Hương này! - anh nói khi bước lên bờ. - Ngày xưa có một nữ sĩ tên là Hương đấy. Chị có biết không? - Có! - Thiếu phụ gật đầu và vẻ hân hoan ngập tràn trong nắng chiều. - Thế đến bao giờ anh lại thăm tôi? Anh bước lên bờ mà chẳng trả lời. Không. Tôi chẳng bao giờ đến thăm chị cả. - Anh cay đắng nghĩ. - Nếu thế thì rồi mọi việc sẽ nghiêm trọng mất. Tất cả những gì nghiêm trọng dành cho người khác. Tôi là nhà thơ, tôi cũng đòi một chút quyền... Anh bước một mạch lên trên mặt đê mà không ngoảnh lại. Ngày mai anh về thành phố và sẽ bước vào trường quay trong vai Chiêu Hổ. Có tiếng ai gọi vang trên mặt sông nghe rất xa vời, anh chỉ nghe rõ tiếng ơi . Anh dừng lại, chụm tay hướng xuống dòng sông và cũng trả lời hết sức nồng nhiệt. - ơ.. ơi! Anh vừa thu được và vừa đánh mất một buổi chiều rồi. Có hề gì đâu? Thời gian thật là hào phóng. Nhưng mà hãy vì sự hào phóng ấy ta phải sống cho nhanh lên, có ích. Với cuộc đời này. Không chờ gì cả. Có lẽ ngày xưa chính là Xuân Hương sống thế.

78

MƯA "Phong vận kỳ oan ngã tự cư" 1 (Nguyễn Du) Em, Anh bắt đầu truyện ngắn này lúc 8 giờ sáng trong một quán cà phê tồi tệ nhất thành phố. Quán vắng khách, không ai quấy rầy anh. Trời đang mưa. Anh ngồi viết... Khuôn mặt em hiện ra trong anh. Em đang ở xa. Em đang ở đâu? Những ý nghĩ của anh hướng cả về em. Em hiển hiện. Em ngồi bên cạnh và sắp xếp những con chừ rời rạc. Hôm ấy trời cũng mưa, mưa như trút. Anh và em ngồi trong xó tối. Trước mặt chúng ta có hai phụ nữ, một người thấp, một người cao, cả hai đều đẹp. Anh nhắc em chú ý đến cô gái cao, để tóc xõa, mỗi khi cười lại hay ngả người vào ghế. Em hỏi anh tên người ấy. Anh bảo: “Gọi gì mà chẳng được! Tên người cũng là một thứ ký hiệu thôi. Anh gọi cô ta là N.” Em bảo: “Thế người ngồi cạnh là M. à ?” Anh bảo: “Phải “. - Mình biết không? - M. nói - Mình chẳng hiểu gì về hắn. Đời mình sẽ tan nát vì hắn mất thõi. Tớ van mình, mình đừng yêu hắn! - Không, tớ chẳng yêu đâu. Tớ chẳng dại... - N. cầm một bông hoa trên bàn xé nhỏ. - Nhưng hắn hiền lành và thông minh lắm. Gần hắn, tớ sẽ học được cái gì chăng?. - Với bọn đàn ông thì người phụ nữ chẳng học được cái gì đâu. Chúng chỉ chăm chăm một việc là đè mình ra giường

79

rồi tỷ tê những lời đường mật. Chúng mình tưởng bở, chúng mình tưởng đấy là tình yêu, là tính người. Thế là hết đời! - Sao mình ác khẩu thế? - N. thở dài. Họ yên lặng một lúc. Nghe rõ tiếng mưa rơi. N. nói: - Hắn đọc thơ, bằng một giọng trầm, hay không tả được. - Lại thơ nữa! Thằng đàn ông nào khi quyến rũ đàn bà mà chẳng làm thơ? Chúng làm thơ suốt từ thời người vượn nguyên thủy đến nay, được những bốn nghìn năm rồi. - Mình hôm nay thế nào ấy. Thế mình lấy chồng, mình có hạnh phúc không? - ừ, ừm... không biết. Nhưng mà chắc có đấy. Có điều tay chồng tớ đểu kinh khủng. Tớ biết hắn lừa tất cả mọi người. Thế mà trước khi lấy hắn, không hiểu sao tớ thấy hắn cao thượng thế! N. cười khẽ. Khi cười, mái tóc xõa ở bên thành ghế. - Mình cho tớ xin một điếu thuốc lá. Từ khi lấy chồng, tớ phải hút trộm... Chồng tớ thấy, hắn sẽ đánh tớ. - Tại mình cả thôi. Tớ đã bảo đấy là một thằng đàn ông đê tiện cơ mà! - Tớ rất ghét chồng mình, tớ chưa bao giờ thấy chồng mình nói thật bao giờ. Thôi, số kiếp cả. Làm sao được? Thân tớ thế là coi như xong rồi đấy. Rồi tớ sẽ đẻ con, vào bệnh viện, không hiểu sao tớ nghĩ sau này tớ sẽ bị liệt, thế là hết dời. Nhưng mà mình, tớ van mình, mình đừng yêu hắn! - Không, tớ chẳng yêu đâu. Tớ chẳng dại... - Mình thề đi. Tớ van mình. Mình đừng yêu hắn!

80

Em hỏi: “Sao thế nhỉ? Sao người ta lại đi can gián tình yêu?” Anh bảo: “Em đừng sốt ruột. Một người đáng kể thế kia thì chẳng bao giờ thề thốt gì đâu”. M. ngồi hút thuốc. ánh lửa ở đầu điếu thuốc đỏ rực. - Tớ van mình. Mình đừng yêu hắn. Mình thề đi! - Không! Mình đừng bắt tớ thề. Buồn cười lắm!. - Mình có hiểu một người như hắn tệ hại đến thế nào không? Hắn thích gì hắn sẽ làm nấy. Hắn có thể đánh nhau đấy! - ừ... - Tớ đã biết hắn. Hắn rết khinh người. Một người như thế là không tôn trọng ai đâu. - Nhưng hắn đối xử với tớ rất tốt... Dễ thương nữa. - Mình chẳng hiểu gì cả! Ai mà hắn chẳng tốt! Hắn bịp bợm đấy! Hắn chẳng coi cuộc sống ra gì. Mình có thấy cách chi tiêu của hắn không? Nếu có một quốc gia trong tay thì hắn cũng chỉ chi tiêu trong năm phút. - Thơ của hắn lạ lắm! - Lại thơ! Mình cứ mơ mộng thế là chết đấy! Hắn ham chơi lắm, mình đã thấy hắn đá cầu với một thằng bé con sáu tiếng đồng hồ! Mình cứ tưởng tượng xem, sáu tiếng đồng hồ người ta làm được bao nhiêu là việc! Ngộ nhỉ? - Ngộ gì mà ngộ? Có mà điên! Họ lại ngồi im lặng. Nghe rõ tiếng mưa rơi. - Tớ van mình. mình cẩn thận đấy! Mình có hiểu tình yêu của một tay đàn ông như thế thì thế nào không? - Không... Tớ biết sao được. - Nó sẽ làm lòng dạ mình tan nát như chơi...

81

- Mình chẳng hiểu gì cả... Hắn chỉ làm mọi việc theo ý hắn thích mà thôi. Khi hắn yêu hắn sẽ quên hết... Mà như thế thì khổ lắm... mà ngượng lắm! - Sao lại ngượng? - Thế mình chỉ sống có mỗi một mình thôi à? Mình còn có bạn bè, bố mẹ, lại còn bà, rồi còn sự nghiệp nữa. - ừ, bà thì rắc rối lắm! - Chứ còn gì nữa? Hắn sẽ gạt tất cả sang bên. Hắn sẽ cười vào mũi tất cả, cười rất khả ố... Hắn chẳng coi mọi sự là cái gì đâu! Tớ cấm mình yêu hắn đấy! - ừ! - Tớ van mình... Mình đừng yêu hắn... - Thơ của hắn rất lạ... chẳng có đầu có cuối gì cả. Này nhé: “Chính bởi thế mà nửa đêm ta dậy Lang thang khắp phố phường.” - Bởi cái gì? - Ma nào mà biết được? Tớ cũng hỏi hắn thế... Hắn cười, hắn cũng không biết nốt. Hắn chỉ lên trời... - Lại thế nữa... Thế là điên rồi đấy! - Mà còn thế này nữa: “Ta nhổ một cái lông chân Đem so xem nó có giông lông trâu không? Ta ký một hơp đồng Và ra sức lùa gió về Trong căn phòng trống trải của ta...” M. nhỏm người lên:

82

- Ký hợp đồng với ma quỷ đấy! Chắc chắn thế! Tớ biết mà... Hắn không chơi với người đâu, hắn chỉ chơi với ma quỷ thôi... - Hắn có thể chết bởi những điều rất vớ vẩn... Mà hắn cả tin lạ lùng. - Thôi đi... Tớ van mình. Mình đừng mơ mộng nữa. Cả tin với không cả tin. Tất cả đều một giuộc! - Quả thực, tớ chưa thấy người nào đáng kể như hắn. Hết sức nồng nhiệt, tối tăm như đêm tối chính trực nữa... - Mình yếu đuối lắm! Họ lại ngồi im lặng. Nghe rõ tiếng mưa rơi. Này, tớ van mình... Mình đừng yêu hắn... - ừ... Em hỏi: “Tình yêu là gì.?” Anh bảo: “Đây là nét phong nhã bậc nhất của đức hạnh. Không phải người nào cũng hiểu được đâu “. Em hỏi: “Sao khi yêu nhau người ta làm thơ?” Anh bảo: “Tình yêu sinh ra tài năng. Thơ là thử tài năng tầm thường nhất” Em bảo: “Tài năng nào mà chẳng tầm thường...” Anh bảo: “Có một thứ tài năng không tầm thường”. Em hỏi: “Anhbiết à?”, Anh bảo: “Biết”. Em hỏi: “Anh có nó không?” Anh bảo: “Có”. Em bảo: “Thế thì em yêu anh”. - Này, tớ van mình... Mình đừng yêu hắn... - ừ... - Để tớ kể mình nghe chuyện này. Ngày xưa hắn đã yêu một thiếu nữ. Cô ấy con nhà gia giáo.Mình có biết một thiếu nữ trinh thục là thế nào không? Môi cô ta lúc nào cũng thắm đỏ. Đáy mắt cô ta ánh xanh như vỏ trứng chim sáo. Cô ta được nuôi dưỡng bằng truyện cổ tích và toàn

83

cơm tám giò chả. Một thiếu nữ được nuôi như thế thì da trắng hồng. - Thôi, mình bỏ trò miêu tả ấy đi. Khó chịu lắm. Một thiếu nữ trinh thục là rất khó chịu... - ừ thật thế đấy. Hắn đến... liệu hắn có biết thứ quà tặng gì đối với cô ta có thể làm chết người như là tình yêu của hắn hay không? Tớ cũng tin hắn yêu say đắm. MDt Cô gái như thế thì sao lại không yêu được? Có thể khi đến với cô ta, lòng hắn sẽ yên tĩnh lại, sẽ không sôi réo nữa. Hắn sẽ tu th, hắn không du côn và lêu lổng nữa. M. im lặng, cô ta lại châm một điếu thuốc lá. áh lửa ở đầu điếu thuốc đỏ rực. Nghe rõ tiếng lưa rơi... Thế... Không thể nói rằng hắn là kẻ vô giáo dục được. Hắn chỉ hơi dám đến gần cô ta. Không phải là hắn yêu đâu, hắn chiêm ngưỡng, hắn thờ phụng cô ta như thể người ta thờ phụng Đức thánh Trần. - Sao lại Đức thánh Trần? Tại vì đây là thứ tình yêu chẳng có hôn hít gì cả. Chỉ có tình yêu với Đức thánh Trần mới như thế chứ... - ừ Tớ hiểu rồi. Kể cũng kỳ lạ đấy. Hình như bây giờ hắn đã bạo hơn... - Mình im đi Tớ van mình, mình không được nghĩ gì về hắn nữa đấy. -ừ - Thế... hắn với cô ta như thể hai người trong mộng. Cô ta héo hắt đi vì hắn. Mình tưởng tượng xem... Một cô gái mới lớn, lần đầu tiên biết yêu. Còn hắn, một con dê xồm mồ hôi dẩu, cười nói thản nhiên như côn đồ. Hắn có thể trồng èây chuối trước mặt bố mẹ cô ta. Bố cô ta là một trí thức, ông treo ảnh danh nhân trên tường, yêu thích văn

84

học cổ điển, nhạc cổ điển và chính trị cổ điển. Còn hắn, hắn biểu diễn âm nhạc bằng cách thọc hai ngón tay vàò miệng... - Ngộ nhỉ? - Ngộ gì mà ngộ... Hắn bắt một con thạch sùng rồi để lên bàn. Hắn trình bày thế gli bằng cách miêu tả con thạch sùng ấy. Thượng tâng kiến trúc là đầu, hạ tầng cơ sở là chân, khúc đuôi là dạo đức. Hắn cho rằng đạo dức rụng rồi lại mọc, đạo đức có thể ngoe nguẩy một mình, còn toàn bộ sự sống chuồn mất... - Thật quá quắt! - Đấy Mình bảo như thế thì ai chịu được. - Không chịu được thật... - Tớ van mình... Mình đừng yêu hắn! - Được rồi.: Thế tình yêu của hắn với cô gái kia thế nào? - Hắn quyến rũ cô ta, hay là cô ta quyến rũ hắn... Cũng chẳng biết được. Họ say mê, quyến luyến nhau... Xa cô ta một ngày là hắn gây sự. Kể ra cũng không thể phàn nàn gì về một tình yêu như thế. Quả thực, nếu đấy không gọi là tình yêu thì tớ cũng không biết thế nào là tình yêu nữa... - Tớ hiểu rồi... Tớ biết rất rõ. Mình lại nghĩ đến hắn phải không? Tớ cấm đấy Tớ van mình... Mình dừng yêu hắn... - ử Mình kể tiếp đi. M. lại hút thuốc. Im lặng. Nghe rõ tiếng mưa rơi. Em hỏi: Cuộc sống cơ bản là buồn, phải thế không “ Anh bảo: Không có tình yêu buồn . Em hỏi: l,Hai cô gái kia thì ai hạnh phúc “ Anh bảo: Một cố vừa đánh buột mất hạnh

85

phúc. Còn cô kia đang có hạnh phúc trong tay, nhưng không khéo cũng đánh uuột mất l” M. kể tiếp: - Họ yêu nhau. Hắn đính hôn với cô ta. Mọi người ngăn cản. Hắn khuyên cô ta trốn... - Trốn đi đâu? - Chắc là phải trốn đến nơi nào thật lạc hậu. - Sao thế - Thì những nơi văn mình ai chứa được một người như hắn? Không có gì với hắn là quá cao, cũng chẳng có gì với hắn là quá thấp... - Họ trốn chứ? - đúng vào phút cuối cùng thì họ từ bỏ ý dịnh, tử lỏ lời thề. - Khốn kiếp? -ử - Hắn có quay lại không? - Một người như hắn thì dời nào quay lại? Lòng cao thượng của hắn là lòng cao thượng của quỷ chứ đâu phải của người! Hắn biết rằng chỉ vì một cô gái thì không đáng để hắn hi sinh cuộc đời, dù rằng đấy là một cô gái trinh thục, môi lúc nào cũng dỏ thắm, da trắng hồng... Hắn đi luôn à? - Phải! Hắn đi luôn... mất tăm mất tích. Hắn đặc biệt nhạy cảm với sự nhục mạ... - Sau dó thì sao? - Cô ta ốm lăn lóc nhưng không chịu uống thứ thuốc hắn gửi đến, thuốc mà làm gì... Thời gian trôi đi Cô ta bắt dầu

86

tiêu phí dời mình. Cô ta hiểu rằng không có một người đàn ông thứ hai như thế... Họ lại ngồi im lặng. Nghe rõ tiếng mưa rơi. - Này... Tớ van mình. Mình đừng yêu hắn. Hắn không có lòng đại lượng. Hắn không tha thứ cho ai... Mình, mình đừng yêu hắn. Hắn là quỷ sứ! N. lục lọi đâu đó trong túi rồi đặt lên bàn một tấm ảnh nhỏ. - ảnh hắn đấy... - Mình... tớ van mình... Mình đừng yêu hắn. Mình hãy đết tấm ảnh ấy đi... Hãy xé đi... - Mình... - Không! Phải tự tay mình! Mình xé nó đi! N. cầm bức ảnh trên bàn lặng lẽ xé nhỏ. Chớp lóe sáng. Có tiếng sấm rền. Nghe rõ tiếng mưa rơi. - Khốn nạn! Mình bảo ai khốn nạn? - Mình không hiểu đâu... Mình không biết rằng sau mối tình ấy cuộc đời trở nên khốn nạn thế nào? - Cô ta còn sống à? - Không, cô ta chết rồi! Tâm hồn cô ta chết ồi Cô ta chỉ còn hình hài. Cô ta thành kẻ đê iện. Cô ta làý chồng. Chồng cô ta cũng đê tiện ất Hắn ăn cắp rất giỏi. Hắn đánh cô ta mỗi khi ô ta hút thuốc. - Tớ không hiểu... Thế là thế nào? Mình... Tớ xin lỗi mình... Mình đã xé tấm ảnh đi rồi... Mình đã làm điều mà tớ mong muốn... Họ ngồi yên lặng. Nghe

87

rõ tiếng mưa rơi. Bỗng nhiên cả hai khóc òa. M. nói, giọng đầm nước mắt: - Tớ xin lỗi mình... Thế mình tưởng tớ tha thứ cho mình vì mlnh xé tấm ảnh đi ư? - Mình... mình sao thế? - Mình chẳng hiểu gì cả? Mình tưởng tớ kể như vậy là lòng tớ thư thái hay sao? Sẽ thanh thản hay sao? Mình không biết tớ đã rứt từ tim tớ từng mảnh thịt một... - Mình... mình... Sao thế mình... - Mình tưởng tớ sẽ tha thứ cho mình vì mình độc ác thế à? Không, mình hiểu không? Nếu cần, tớ sẽ bỏ chồng, bỏ hết để đi theo hắn. Hắn vào tù thì tớ đưa cơm. Tớ sẽ theo hắn cùng trời cuối đất... Chỉ cần hắn quay lại... Nhưng hắn sẽ không bao giờ quay lại. . - Giời ạ. Sao mình lại kể, sao mình lại kể? - Vì sao ư? Vì tớ không muốn... Mình hiểu không, tớ không muốn hắn rơi vào tay một người đàn bà nào khác, rơi vào tay mình. N. đứng dậy đi ra ngoài trời. Một lúc sau, M. cũng đi ra nốt. Nghe rõ tiếng mưa rơi. Tiếng mưa rơi buồn không tả được. Em hỏi anh: “Cuộc sống cơ bản là phải thế không?” Anh bảo: “Không”. Em hỏi: “Người đàn ông mà hai người nói chuyện ấy là ai?” Anh bảo: Không biết”. Em hỏi: “Là công nhân, nông dân hay thợ thủ công?” Anh bảo: “Không biết”. Em bảo: “Chắc là nghệ sĩ. Vì cô ta đọc thơ”. Anh bảo: “Thơ gì lại thế? Em có muốn nghe thơ anh không? Thơ của anh cũng có nhổ lông” Em bảo: “Thôi, để khi khác. Nhưng em áy náy quá, không biết hắn là ai” Em bảo: Em thấy cô ta cầm tấm ảnh in trên tờ báo. Chắc là

88

một nhà chính trị”. Anh bảo: Không biết”. Em bảo: Hắn thật đáng kể. Mưa. Ngoài trời kia vẫn mưa. Khuôn mặt em hiện ra trong anh. Em đang ở xa. em ở đâu Những ý nghĩa của anh hướng cả về em. Bây giờ là 2 giờ chiều. Anh đã ngồi viết truyện ngắn này sáu tiếng đồng hồ. Sáu tiếng đồng hồ liền. Sáu tiếng đồng hồ. Nhân vật chính trong truyện của anh đá cầu sáu tiếng đồng hồ. Cái thằng vô lại ấy! Một tên cao cầu bất hủ! Em ở đâu? Ngoài kia trời mưa Bao giờ thì em về? Hả em?

-------------------------------Ta tự coi mình như người cùng một hội với kẻ 1 mắc nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã.

89

NGUYỄN THỊ LỘ "Vấp phải đời phàm tục Chiếc thuyền tình vỡ tan..." 1 Họ gặp nhau khoảng giờ Tỵ, một ngày thu. Hôm ấy Nguyễn Trãi từ Côn Sơn trở lại Đông Đô, ông ghé nghỉ ở một quán khách ven đường. Cùng đi với ông có Hoàng môn thị lang Thái Quân Thực. Đông Đô - ở thế kỷ thứ XV dưới triều vua Lê Thái Tôn có vẻ đẹp của người đẹp mê ngủ. Nắng ngoài đường rực rỡ. Những hàng cây cơm nguội nở hoa. Những cây dương liêu ngơ ngac buồn. Trời rất xanh. Giữa trời có đám mây tràng trông hệt dáng điệu một nhà hiền triết. Thoắt cái, gió xua mây đi, nhà hiền triết biến thành con chó xồm lớn. Nguyễn ngồi yên lặng, ông nâng chén rượu mà Thái Quân Thực vừa dốc ở, trong nậm ra. Đúng lúc ấy thì Nguyễn Thị Lộ cùng Thị nội cung tần Trịnh Ngọc Yến bước vào. Nguyễn cũng chẳng để ý. Mắt ông đăm đắm nhìn những tăm rượu sủi lên trong chén. Tưởng như có tiếng ong bay đâu đây. Thời tiết nóng nực, một thứ nóng uể oai, rất dễ là m người ngủ gật. Câu chuyện giữa Nguyễn và Thái Quân Thực rơi rạc. Thái Quân Thực biết Nguyễn đang có tâm sự trong lòng, vì vậy chuyện được vài câu ông không nói năng gì nữa mà cứ một mình thản nhiên đánh chén. Ông kệ cho Nguyễn chìm đắm tư lự một mình. ở một góc quán khác, Nguyễn Thị Lộ và Thị nội cung tần Trịnh Ngọc Yến đã an vị. Người hầu bàn đang hỏi món ăn. Vẻ sốt sắng của người hầu bàn làm Nguyễn để ý. Ông nước mắt lên nhìn và nhận ra Nguyễn Thị Lộ. Tạo hóa đã

90

dày công chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ này những 29 năm 9 tháng 10 ngày. Lúc này, ở ngoài phố vọng lại tiếng rao của hàng quà rong nghe rất động lòng. Nguyễn nhận ra Nguyễn Thị Lộ. Trong giây khắc, trái tim ông ngừng đập. Con người cũ trong ông chết đi. Giây khắc sau ông sống lại, bắt đầu chuyển thành con người khác. Nguyễn cau mày. Ông đã gặp người này ở đâu? Từ bao giờ. ở đâu? Từ bao giờ? Nguyễn căng óc suy nghĩ... Có lẽ từ lâu lắm. Từ khi còn nằm trong bụng mẹ ông đã bắt gặp khuôn mặt này rồi. Ký ức vụt dậy nhanh như tia chớp. Ông không nhớ gì cả. Không - có khuôn mặt ấy trong ký ức ông. Ngôi nhà ven sông...Góc thành Nam, lều một gian...Chặng đường rừng xa vắng...Buổi gặp mặt Lê Lợi lần đầu...Những đêm chong đèn viết Bình Ngô sách"...Hội thề Lam Sơn...Những lần hành quân vất vả. Buổi tiễn đưa Vương Thông...Bữa thiết triều đầu tiên ở điện Kính thiên...Những ngày tù ngục...Không thấy có khuôn mặt người phụ nữ này. Nguyễn vẫn suy nghĩ. Thoáng câu thơ cũ xen ngang: Tây tân sơ nghị trạo Phong cảnh tiện giang hồ..." Bến Tây thuyền mới ghé mái chèo, thoắt cái phong cảnh đã là giang hồ rồi. "Hồi thủ Đông Hoa địa Trần ai giác dĩ vô" Ngoảnh lại nhìn chỗ của Đông Hoa là nơi phồn hoa thì đã thấy mình không còn là bụi bặm nữa. Nguyễn suy nghĩ. Trán ông cau lại. Mắt ông vẫn đăm đăm nhìn về phía Nguyễn Thị Lộ. Thực ra, nếu lúc ấy Thái Quân Thực ngồi

91

yên thì chăng xảy ra chuyện gì. Song, Thái Quân Thực dõi theo ánh mắt Nguyễn và thốt ra câu hỏi định mệnh: - Người quen à? Câu hỏi nhắc Nguyễn đứng dậy. Định mệnh mượn lời Thái Quân Thực làm một cú đẩy vào số phận Nguyễn. Ông bước như đạp mây đến chỗ hai người phụ nữ. Ông chào, vừa sốt sắng, vừa tự tin,. lại vừa háo hức. Ông xưng danh. Ông nói về mình. Ông nhận ra vẻ thích thú trong ánh mắt nàng. Họ làm quen nhau. Ông được biết tên nàng là Nguyễn Thị Lộ. Tên của nàng không gây được ấn tượng gì cho ông. Nàng mời ông đến chơi. Ông vui vẻ nhận lời. Buổi đầu làm quen chỉ độ khoảng giập bã trầu. Nguyễn cáo lui. Ông quay về chỗ Thái Quân Thực. "Hồi đầu tam thập niên tiền sự Mộng lý du du cánh mạc tầm..." Quay đầu nhớ lại ba chụt năm về trước mà trong mộng mịt mù không tìm ra được. - ở nàng, rạng lên một ánh sáng linh điệu từ phía bên ngoài, không trùng lên con người thật của nàng. Bởi thế nàng bị tan giữa đám đông, không ai nhận ra. Người ta chỉ biết có hình hài. Tướng ẩn... Nguyễn nghĩ vậy. Ông lén ngắm nàng một lần nữa. Ông bị rung chuyển. Ông cũng không biết rằng số phận hai người từ nay đã được ràng buộc với nhau. Nơi nào giữa xa xôi kia trong vũ trụ mênh mông, tạo hóa mỉm cười. Thái Quân Thực hỏi Nguyễn: - Người quen à? Nguyễn gật đầu. Thái Quân Thực không biết rằng ông vừa chứng kiến cuộc gặp gỡ tình duyên hết sức oái oăm, đến mãi sau này

92

người ta còn nhắc. °°° Khi Nguyên Trãi đến thăm Nguyễn Thị Lộ thì lúc ấy nàng đang vận một bộ áo xoàng xĩnh trong nhà. Nàng định thay áo thì Nguyễn ngăn lại. Nguyễn kéo ngọn nến về phía mình để nàng ngồi chìm trong phía bóng tối. Nguyễn đưa mắt nhìn đâu đó qua cửa sổ. Lúc này ở ngoài trời khoảng không hư áo lắm, lẫn lộn những bụi hơi nước của tiết trời thu, ánh sáng lắt lay của ngọn đèn lồng ngoài đường và ráng hoàng hôn yếu ớt phía trởi Tây còn sót lại: Nguyễn bận bịu cả ngày. Ông chỉ rảnh rang vào chập tối.... Cho đến lúc ấy, có lẽ cũng chẳng xảy ra chuyện gì nếu Nguyễn Thị Lộ tầm thường như những phụ nữ khác. Nàng không súng sính bởi học vấn hoặc phẩm hạnh,cũng không cứng nhắc bởi đồ lót mình. Nàng trinh bạch, điềm tĩnh và cương nghị. Vẻ trinh bạch ấy của nàng khiến ông thắt tim lại lo sợ. Nguyễn đã hiểu bao điều khốn nạn diễn ra xung quanh. Bao nhiêu phàm tục của ngày hôm nay, hôm sau, hôm sau nữa...? Rồi còn tháng tới? Họ nói chuyện về mùa màng, những việc xảy ra trong cung từ khi vua Lê Thái Tổ băng hà, những bài thơ chữ Hán của Nguyễn viết ở Côn Sơn, cuộc đời gian truân của ông, phép ứng xử của đẳng cấp quý tộc mới được hình thành...Câu chuyện lan man, vui vẻ, có lẫn những nhận xét sắc sảo. Nguyễn hết sức ngạc nhiên trước trí lự phi thường của Nguyễn Thị Lộ. Thường ít có người theo kịp những dòng suy nghĩ sắc bén của ông. Ông gần như không có bạn, không có tri âm tri kỷ. Dưới một bề ngoài bình thản, rụt rè, Nguyễn giấu mình trong vỏ ốc. Nguyễn Thị Lộ theo sát những ý nghĩ của Nguyễn. Nàng thường tóm tắt được ý nghĩ của Nguyễn bằng một hai từ

93

hết sức chính xác, giản dị. Điều ấy kích thích trí tưởng tượng bay bổng và thỏa mãn những căng thẳng trong tinh thần ông. Nàng không hề vướng bận bởi các thành kiến xã hội và các quy ước xã giao thông tục. Người ta luôn lầm lẫn... Nguyễn nói. Nàng lắng nghe. Nàng hình dung người ta lầm lẫn thế nào. Gà nhầm với cuốc. Chó nhầm với dê. Lễ nhạc cũng nhầm. Đường hướng cũng nhầm. Con người hành hạ nhau, lăng nhục nhau. Nàng nhận ra mối quan tâm của Nguyễn là to lớn. Ông là một nhà duy mỹ, trước hết là nhà duy mỹ. Đạo đức duy mỹ chất chứa hiểm nguy, chất chứa phiêu lưu nhưng nó sâu sắc, không bịp bợm, hắn nó giá trị gấp triệu lần thứ đạo đức duy lý trắng trợn của trật tự bầy đoàn. Thời gian trôi nhanh. Họ cảm thấy như đã thân nhau. Nguyễn cố ghìm điều mong muốn được vuốt ve bàn tay nàng. Từ trong thành, vọng lại tiếng trống điểm canh. Yên lặng dễ sợ. Tiếng côn trùng ùa vào căn phòng riết róng và buồn bã. Thậm chí nghe rõ cả tiếng hạt sương rơi trên tàu lá tiêu. - Rồi cái chết... Nguyễn nói. Nàng hình dung người chết nằm dưới đất. Đêm tối hoàn toàn. Đêm tối vĩnh viễn. Rất nhiều đất, hết lớp này lớp khác, cứ thế mãi mới đến được mặt đất. Trên mặt đất là cỏ ấu, cỏ gà cỏ chân chim, cỏ gianh, cúc, thầu dầu, cả xương rồng nữa. Những con kiến đen, kiến đỏ, kiến gió, kiến bọ đọt chạy nháo nhác. Không ai biết dưới đất có con người đang nằm, cứ thế tự tiêu đi, vừa nằm vừa hồi tưởng. Chỉ được hồi tưởng thôi. Chỉ có cách duy nhất là hồi tưởng. Vĩnh viễn chỉ biết hồi tưởng. Ngậm miệng lại. Không được nói. Không được cựa mình. Vọng lại tiếng trống điểm canh. Nguyễn cáo lui. Nàng tiễn ông ra cửa...Theo thói quen, nàng nhăn mũi. Nguyễn bật cười.

94

áo ông vướng vào gốc bạch đào trước cửa. Nàng cúi xuống gỡ áo cho ông. Cây đào tươi tốt, đang vào nụ. Nàng hỏi ông có thích hoa không? Chính ông cũng không biết nữa. Nàng bỗng hỏí xin ông một bài thơ hoa. Ông vui vẻ gật đầu. Họ quay trở lại phòng khách. Sẵn nghiên bút, Nguyễn vén ống tay áo và những lời thơ xuất thần tuôn trào như nước chảy: Một đóa đào hoa khéo tốt tươi Tường xuân mơn mởn thấy xuân cười Động phong ắt có tình hay nữa Kiện tiển mùi hương dễ động người. Động người hoa khéo tỏ tinh thần ít bởi vì hoa, ít bởi xuân Rỉ sứ chim xanh đừng chuốc lỗi Bù trì đã có khí hồng quân. Khí hồng quân hãy sá tài qua Chớ phụ xuân này chớ phụ hoa Hoa có ý thì xuân có ý Đâu đâu cũng một khí dương hòa. Khí dương hòa há có tư Năng một hoa này nhẫn mọi loài Tính kể chỉn còn ba tháng nữa Kịp xuân mựa để má đào phai. Má đào phai hết bởi xuân qua Nêú lại đâm thì liền luống hoa Yến sở Dao - trì đà có hẹn Chớ cho Phương Sóc đến lân la Phương Sóc lân la, đã hở cơ Mấy phen trộm được há tình cờ

95

Có ai ướm hỏi tiên Vương Mẫu Tin khá tin mà ngờ khá ngờ...". °°° Khi Nguyễn gặp vua Lê Thái Tôn bày tỏ những ý tưởng của ông, thực ra trong thâm tâm Nguyễn cũng thừa hiểu sự vô nghĩa của việc mình làm. Những năm gắn bó với vua Lê Thái Tổ từ ngày khởi nghiệp đã cho ông những kinh nghiệm cay đắng về thế sự. Những buổi trò chuyện với Nguyễn Thị Lộ giúp Nguyễn nhiều điều. Trong vắt như nước suối, nàng lặng lẽ để cho ông gạn lọc những ý tưởng của mình. Hoàn toàn giản dị, nàng chảy một cách từ từ, chậm rãi, tự tin, vừa độ lượng, vừa ích kỉ chính trong dòng đời. Chỉ nhìn thấy nàng, Nguyễn nhận ra ngay ông đã sai lầm hoặc ông đã đúng trong các suy luận. Nàng chẳng hỏi ông nghĩ gì và các suy luận ấy của ông đầu cuối ra sao, xuất phát từ đâu, đến đâu chấm dứt. Nguyễn so sánh những ý tưởng mơ hồ trong đầu óc ông với cách nàng quét nhà hoặc nàng ngáp ngủ. Chỉ có nàng mới có khả năng siêu phàm giúp ông đối chiếu cái thế giới ảo vô hình với cái thế giới thực hưu hình quanh mình, điểu mà ông biết chắc chắn ông có hoài công đi khắp thế gian ông cũng chẳng tìm ra được một người phụ nữ thứ hai như vậy. Từ nhỏ, Nguyễn đã sớm nhận ra sự lạc loài của ông giữa đám đông. Ông như khoai giữa ngô, như lạc giữa vừng. Ông là một thứ chất liệu khác. Ông cô đơn chính với đồng loại của mình. Gặp Nguyễn Thị Lộ, Nguyễn sống ráo riết hơn và nghiêm nhặt hơn. Ông rà xét lại mình và nhận ra một loạt yếu kém trong phương diện tinh thần cũng như cách tổ chức cuộc đời. Cho đến lúc này, Nguyễn mới có thể cắt nghĩa được bản chất các sự kiện đã từng diễn ra với ông và cả triều đại.

96

Trước đây, khi dâng Bình Ngô sách" cho Bình Định Vương Lê Lợi, Nguyễn đề xuất tư tưởng nhân nghĩa, ông coi nó là máu thịt dân tộc, là nguyên tắc ứng xử giữa con người. Nguyễn đã hướng về tuyệt đối. Song chính Nguyễn đã một chiều, thậm chí không tưởng. Lê Lợi tỉnh táo hơn, nhận ra Nguyễn đã mắc bẫy bởi chính tư tưởng của mình. Lê Lợi biết tư tưởng đó chỉ là ngọn cờ khởi sự chứ không phải phương pháp. Hơn nữa, ngọn cờ ấy chỉ phù hợp với tình trạng khốn cùng về vật chất của đám đông trong từng khoảng thời gian nhất thời. Lê Lợi vĩ đại vì đã thực tế hơn Nguyễn về cuộc sống. Nguyễn vốn giàu tưởng tượng - hình dung ra những bi kịch tập thể nhưng Lê Lợi biết chắc chắn chỉ có những bi kịch cá nhân và chỉ là những bi kịch cá nhân, mãi mãi là những bi kịch cá nhân. Nguyễn tôn sùng đám đông nhưng Lê Lợi tin chắc chỉ có những cá nhân siêu việt mới có khả năng gây men cho lịch sử. Lê Lợi hiểu rõ khả năng tạo dựng và khả năng phá bỏ của Nguyễn nhưng Nguyễn lại không có khả năng giữ nguyên tình trạng. Giữ nguyên tình trạng đòi hỏi một sự ngu xuẩn phi thường, một sự ngu xuẩn thiên tài. Bao giờ cũng vậy, giữ nguyên tình trạng đòi hỏi những con bệnh lớn. Nguyễn xem xét lại mình và ông hoảng sợ bởi những tham vọng mơ mộng của mình. Nguyễn hiểu những khó khăn của việc thi hành đạo. Oái oăm ở chỗ đạo là thứ danh không phải là danh, điều ấy đẻ ra những khó khăn trong xuất xứ. Chính Khổng Tử cho rằng người làm quan là để thi hành điều nghĩa chứ đạo thì chẳng thi hành được. Nguyễn Thị Lộ lo lắng bởi những đổi thay trong tinh thần Nguyễn. Nàng cũng không hiếu Nguyễn đến với nàng với mong muốn gì? Thực ra, Nguyễn mong muốn ở chính bản thân. Ông cô đơn giữa đời như một hành tinh hoặc một ngọn gió. Điều ấy khiến nàng xót xa. Nguyễn biết gắn bó với nàng là ông ẹhuốc họa vào mình. Nhưng

97

biết thế, Nguyễn vẫn gắn bó với nàng. Bởi nàng là Nguyễn Thị Lộ. Vì nàng là Nguyễn Thị Lộ. Chỉ có một Nguyễn Thị Lộ Còn Nguyễn, Nguyễn đâu có hai cuộc đời? Rồi ngày nào đấy Nguyễn cũng chết đi, trên nấm mộ chỉ có cỏ xanh. Như bao người khác. Chỉ có cỏ xanh: cỏ ấu, cỏ gà, cỏ chân chim, cỏ. gianh, cúc, thầu dầu, xương rồng. Những con kiến ca hát. Và chúng ca hát theo kiểu kiến. °°° Không thể nói Nguyễn Trãi đã sống thanh thản dưới triều vua Lê Thái Tôn. Vị vua trẻ sớm nắm quyền lực, lại ít kinh nghiệm sống, chỉ thích sự chiều nịnh hơn là nói thẳng, những cột trụ nhà nước như bọn Lê Ngân, Lê Sát, Lê Văn Linh, Lê Hy...đều là những chính khách xuất thân giang hồ, trị nước bằng mưu mẹo chứ không xuất phát từ đạo và luật. Thêm nữa, bọn Lương Đăng và Hạ Đăng Đắc xúm lại phò nịnh, đẩy lòng kiêu ngạo của người có thế lực lên tột bực. Giới quý tộc cung dình mới qua được một đời còn hết sức quê mùa về lối sống, chưa có được đời sống tinh thần vương giả, luôn nhầm lẫn giả thật, thực hư. Hơn nữa, ý thức xây dựng một tập đoàn quyền lực dựa trên đạo nghĩa, kỷ cương không được củng cố. Cung đình giống như nơi tụ họp các anh hùng lục lâm, chỗ nhóm lửa, chỗ thổi cơm, chỗ múa giáo, chế được đặt ra do vui chuyện mà định. Trên các chân dung chính khách chỉ nhìn thấy các cơ mặt bất động hoàn toàn, biểu thị tinh thần chính trị tù đọng tột cùng. Số trẻ trung hơn, dễ thấy trên

98

gương mặt họ những nét chối bỏ thẳng thừng học vấn, chỉ chờ đón tiếp nhận cảm giác lạc thú. Nguyễn sống âm thầm. Khi về Côn Sơn, khi ra Đông Đô, chẳng nơi nào ông thấy yên ổn. Nội tâm ông sôi réo, thúc giục. Ông tránh các tình huống pìlải tự biểu hìện. Những mũi tên đố kị hằn thù rình ông từ bốn phía. Nguyễn Thị Lộ biết rõ giá trị con ngươl Nguyễn. Nàng thông cảm những nỗi dày xé trong tâm hồn ông. Nàng biết ông đang chạy tế lên phía trước trong hệ thống tư tưởng đương thời, vừa hung hãn, vừa tuyệt vọng. Mới đầu, nàng quý trọng ông theo cách người ta quý trọng một con thú hiếm, giống như quý trọng một con tê giác độc nhất có hai sừng. Dần dần, nàng hiểu ra rằng ông không trông chờ ở nàng điều ấy. Nguyễn đến với nàng bằng tình yêu thương tuyệt vọng đốl với con người, vừa đọ lượng, vừa bao dung, vừa đầy kinh nghiệm. Ông yêu thương nàng bằng toàn bộ tri thức văn hóa cùng sự từ tế ở trong lòng ông. Cuối cùng điều ấy cũng đến. Nguyễn ngỏ lời cầu hôn với nàng giản dị và mạch lạc. Chắc khi đứng trước Vương Thông, Mã Kỳ, Phương Chính...Nguyễn cũng thế này. Thoạt tiện, cung cách ấy dễ gây ấn tượng về một con người chán đời khủng khiếp, ai biết đằng sau cung cách ấy là một khốí lửa khổng lồ Nguyễn bày tỏ với nàng như thể một việc tình cờ hoặc tiện dịp. Nàng biết ông hoang mang. Những sóng gió trong cuộc đời khiến ông không còn tự tin mình nữa. Hết sức nhạy cảm, nàng thấy thương xót ông tận đáy lòng. Nàng biết, Nguyễn phải ngăn ngừa cảm xúc chính mình. Nàng chỉ gợn chút hợm hĩnh lạnh lẽo, ông sẽ biến mất; còn nàng đa cảm nồng nàn ông cũng bỏ đi. Bao nhiêu công việc đang chờ đợi Nguyễn. Ông đâu phải là người trăng gió đa tình. Hôm Nguyễn ngỏ

99

lời cầu hôn, trời mưa như trút. Đồn rằng hôm ấy có rồng bay trên sông Cái. °°° Họ tao thân cho nhau vào một buổi đêm yên tĩnh. Ngọn nến để ở một góc phòng kiên nhẫn cháy. Nguyễn Thị Lộ biết Nguyễn cũng kiên nhẫn cháy như thế khi hình bóng nàng nằm giữa tim ông. Nàng quay lưng về phía Nguyễn, cởi xiêm áo lộn qua đầu. Thân hình dài dài, thanh mảnh của nàng hiện ra lấp loáng trong bóng tối. Khi nàng luồn vào, nằm nép bên Nguyễn, ông lặng người đi, lòng ngập tràn tình cảm biết ơn vô hạn. Nguyễn lắng nghe tiếng nàng thở dốc. Ông mỉm cười trong bóng tối khi nghĩ rằng cả nàng, cả ông, cả hai hệt như hai đứa bé con. Nguyễn vùi đầu vào bộ ngực mảnh khảnh của nàng. Cảm giác về sự bé nhỏ yếu ớt của nàng, của con người nói chung giữa tự nhiên mênh mông, giữa vũ trụ mênh mông khiến lòng ông nhói đau. Ông, chính ông chứ không ai khác, ông phải chứng tỏ một điều gì đấy bởi sự tốt đẹp thật sự trong thế giới này. Họ nằm yên lặng, vui thích lắng nghe những tiếng lách tách cháy từ ngọn nến. Nguyễn cũng đã cháy như thế, cháy bùng như một ngọn đuốc dẻo dai, kiên cường cho đến trót đời. Nguyễn Trãi đã trải qua không biết bao nhiêu thăng trầm, bao nhiêu đau đớn, bất hạnh, bao nhiêu niềm vui, nỗi buồn, bao nhiêu vinh quang kể từ ngày ấy. Không một người thưởng nào có được số phận lạ lùng như ông trong 500 năm nay. 500 năm, tức là năm thế kỷ.

-------------------------------100

1 Từ một ý thơ của Maiacôpxki.

101

TRƯƠNG CHI "Ngày xưa có anh Trương Chi người thì thậm xấu hát thì thậm hay" (Truyện cổ) Trương Chi đứng ở đầu mũi thuyền. Chàng trật quần đái vọt xuống dòng sông. Phía xa kia là chân trời rực hồng ráng đỏ. Nhà nàng ở phía ấy. Sương xuống lạnh. Một nỗi buồn da diết choán ngợp lòng chàng. Chàng gác chèo và mặc kệ dòng sông cuốn con thuyền đi. Chàng hát: "Nỗi buồn của ta ơi Như cục đá đè nặng tim ta Nào ai thấu Phía xa kia là quê nhà Tuổi trẻ mờ sương Những ký ức mờ sương Những ước mơ đâu cả rồi? Những mơ ước của ta Ta đã mơ rất say đắm Mơ hoa lá, những bài ca, Những tiếng đàn, Những nụ cười, những đồng lúa chín, Những lâu đài rực rỡ, Ta đã mơ thấy nàng Trong suốt và đỏ chói Những mơ ước đâu cả rồi? Những mơ ước của ta Có ai về đó không? Về quê nhà ta

102

Chào giúp một câu Cho bớt nỗi đau Chào giúp một câu Cho bớt nỗi sầu Những mơ ước đâu cả rồi? Những ước mơ say đắm khôn nguôi Nỗi buồn của ta ơi Như cục đá đè trĩu tim ta Ai thấu chăng tình ta?” Tiếng hát vút cao. Đêm xuống. Bóng tối mù mịt Trương Chi rùng mình vì sự vắng lặng xung quanh. Không ai đáp lại chàng. Sự vắng lặng kinh hoàng. Chỉ có tiếng giun dế, tiếng ễnh ương, tiếng chó sủa. Trương Chi úp mặt vào hai lòng bàn tay chai sạn. Chàng khóc. Không có nước mắt. Chàng cắn vào ngón tay. Một đốt ngón tay đứt trong miệng chàng. Chàng nhổ mẩu ngón tay xuống Bông. Trời tối, không thấy máu. Chàng thò ngón tay xuống dòng nước xiết. Dòng nước mơn man khiến chàng dễ chịu. Chàng duỗi thân, ngả người vào lòng thuyền. Chàng nói: - Cứt! Nói xong chàng nhắm mắt lại. Bốn nghìn năm trước chàng đã mất ngủ thế này. Bốn nghìn năm trước chàng đã đau đớn thế này, chàng đã căm giận thế này. Việc gặp Mỵ Nương xốc lại toàn bộ suy nghĩ của chàng. Trước kia, Trương Chi chỉ hình dung mơ hồ có những cuộc sống khác, lối sống khác. Chàng chỉ ngờ ngợ rằng cuộc đời chàng tẻ nhạt, nhàm chán. Rằng thân phận chàng chẳng ra gì. Rằng con thuyền này, những vật dụng này chẳng ra gì. Rằng thân xác chàng xấu xí, chẳng ra gì. Cả ngay tiếng hát của chàng cũng thế, vô nghĩa, chẳng ra gì. Tuy nhiên, việc tự khép kín, thói lười nhác an phận, thêm một chút kinh bạc nữa và những cố gắng không mỏi

103

để kiếm miếng ăn khiến chàng giữ được bên ngoài vẻ thường. Không ai ngờ vực chàng. Không ai sợ hãi chàng. Chàng sống giữa bầy. Chàng cười nói. Chàng chịu đựng. Chàng mua bán. Chàng chấp nhận. Mọi ước lệ của thói đời lướt qua chàng không dấu vết. Chàng cũng lưởt qua nó, những ước lệ của thói đời ấy không dấu vết. Giờ đây, gặp Mỵ Nương rồi, chàng hiểu chắc chắn rằng cuộc sống của chàng thật là cứt, là cứt chó, không sao ngửi được. Không chỉ riêng chàng, mà cả bầy. Tất cả đều thối hoắc. - Cứt! Trương Chi gầm lên khe khẽ. Những bức bối cồn cào lòng chàng. Chàng hát: "Đêm nay là đêm nao Này người tình ơi Rồi nàng cũng thành một bà lão lụ khụ, đáng kính và có đơn thôi! Bây giờ nàng cứ cười đi Ta đâu mêch lòng Nàng còn trẻ tuổi. Nàng hiểu làm sao Những khao khát nực cười của ta Ta vốc một nắm gió Ném vào khoảng không kia Nheo một bên mắt Tay đút túi Ta không khiến nàng bận tâm Gió đi đâu Dạt đến chân trời nào Nàng biết quái gì? Gió đi đâu? Đến bao giờ thành bão?

104

Trên con thuyền này Ta bắt quyết Luyện phép một mình Ai thấu lòng ta? Nàng cứ cười đi Và chớ có tin Nàng có tin ai đâu Thói của nàng là thế Nàng được giáo dục như thế từ bé tí Nàng chỉ tin ở bạo lực Ta biết thừa Ai thấu lòng ta Những khát khao của ta Những cuồng vọng của ta Những tín ngưỡng của ta Với con thuyền này Ta chèo qua số phận Ta chèo qua thời gian Ta chèo một mình...” Trương Chi không hát nữa. Chàng lại nói: - Cứt! Nói xong chàng nhỏm dậy. Chàng thấy đói. Chàng phải kiếm ăn đã. Chàng lái thuyền vào bờ. ở hai ven bờ, suốt từ thượng nguồn đến tận hạ nguồn, chàng đã đặt mỗi bên một nghìn cái đó. Nhấc đó lên là có cái ăn. Đây là cá, là cua, là ếch nhái. Trương chi bắt cá ném vào lòng thuyền. Chàng dùng hai hòn đá nhen lửa nướng cá. Chàng ăn cá nhưng được vài miếng chàng lại nhổ đi. Chàng lại nói: - Cứt!

105

Hình ảnh Mỵ Nương hiện ra. Trương Chi thở dài. Nàng ngả người trên nệm. Nàng lấy những ngón tay thon thả gỡ tóc. Nàng bảo chàng: - Hát đi! Viên quan trưởng bảo chàng: - Hát ca ngợi công danh đi! Trương Chi tức nghẹn họng. Chàng biết, hát về điều ấy thật là trò cứt. Mỵ Nương mỉm cười khuyến khích chàng. Chàng đã mềm lòng trước nụ cười ấy. Chàng khò khè trong cổ. Chưa bao giờ chàng hát một bài hát thô bỉ thế này. Bài hát chỉ oàn “ấy a” với lại “huầy dô”. Bài hát đông người. Mỵ Nương bảo: - Hay lắm! Bọn hoạn quan đứng quanh cười ré lên: - Hát như cứt! Mỵ Nương tỏ vẻ thương xót: - Hát về tình yêu đi! Viên quan trưởng ngăn lại: - Đừng! Nên hát về sự nhẫn nhục! Mỵ Nương làm một cử chỉ khuyến khích. Trong cuộc đời bạc bẽo của chàng, Trương Chi chưa được ai khuyến khích bao giờ. Chàng hát, mắt hướng về viên quan trưởng: “Sự nhẫn nhục bắt đầu từ đâu? Ngày xưa, ta tưởng nó bắt đầu từ bản tính ta Từ đầu ngón chân, ngón tay ta,

106

Hóa ra không phải Sự nhẫn nhục bắt đầu từ mày!” Viên quan trưởng ngăn lại: - Đừng hát! Trương Chi luống cuống. Chàng thấy khổ quá. Giữa sông nước có ai chỉ bảo chàng đâu? Sự nhẫn nhục, thói hãnh tiến, lòng tham, tính thiện...Tất cả như nhau hết, vụn vặt và vô nghĩa lý. Chàng chỉ có một mình. Ngày cũng một mình. Đêm cũng một mình. Mưa nắng như nhau hết. Bọn hoạn quan cười ré lên: - Hát như cứt! Mỵ Nương cười, Trương Chi rất thích giọng nàng cười. Tiếng cười rung trong ngực chàng. Viên quan trưởng bảo: - Hát ca ngợi tiền bạc đi! Bọn hoạn quan reo lên. Mỵ Nương làm một cử chỉ mơn trớn. Chẳng có ai nhận ra cử chỉ ấy. Chỉ có riêng chàng biết. Trương Chi luống cuống, lại một bài hát toàn “ấy a” với lại “huầy dô”. Có chỗ chàng lại bắt chước tiếng chó sủa, tiếng gà cục tác và tiếng dê kêu nữa. Bài hát đông người... Bọn hoạn quan cười ré lên: - Hát như cứt! Mị Nương cười rũ rượi. Chàng biết, sau tiếng cười độ lượng kia nàng sẽ mím môi lại. Nàng có tật thế. Trương Chi rùng mình. Chàng thấy lo sợ cho chàng. Chàng biết rõ mình. Chàng có thể chịu được đói khổ, nhọc nhằn, thói nhẫn tâm, sự đểu cáng. Thậm chí cả sự hạ

107

nhục của bọn người nông nổi và thiển cận nữa, không sao. Chàng chỉ sợ khi chính bản thân chàng lâm vào tinh thế phải tự hạ nhục bản tính mình, thế là mất hết, không còn tiếng hát, không còn Trương Chi. Trương Chi ngó quanh. Bọn hoạn quan, những gã đồng cô, những tên hề lùn, bọn bói toán, tướng số, lang băm...xúm xít, ép chặt lấy chàng. Trương Chi sợ hãi. Chàng mong nhìn thấy một người đánh cá, chỉ đánh cá mương thôi cũng được, chẳng cần đến loại người đánh cá kình. Chàng sẽ vững tâm. Mỵ Nương giúp chàng. Nàng bảo: - Hát về tình yêu đi! Trương Chi nhắm mắt lại. Chàng thấy bồng bềnh như đứng trên thuyền. Đến lúc này, chàng biết chàng phải cất giọng tự hát cho mình, bởi không chàng sẽ mất hết, mất cả cuộc đời. Chỉ bằng tình yêu của chàng, tình yêu chân thực và nồng cháy của chàng mới hòng cứu vớt được. Không phải Mỵ Nương, không chỉ là Mỵ Nương. Dù cho Mỵ Nương có là một con phượng hoàng kiêu hãnh hoặc một con nhện xấu xí cũng vậy. Với chàng lúc này tất cả đều như nhau. Tình yêu của chàng hướng về tuyệt đối Nàng là cái bẫy của số phận chàng. Chàng hát: “Tình yêu, bài ca mà Trương Chi hát Cất lên từ trái tim bị thương tổn Ngọn cờ nàng phất trên ta là tình yêu Và tiếng trống trận là nhịp tim ta Kẻ thù của ta Chúng sẽ bôi nhọ tên ta Còn ta Ta sẽ vung ra trước chúng Lưỡi mác của tình yêu Xuyên qua tim ta

108

Và qua tim nàng Này người tình ơi Thực ra, nàng còn rỗng tuếch và tẻ nhạt Tâm hồn nàng có những con rắn hoài nghi trơn tuột nằm phục Nàng gian lận trong bài bạc Nàng đánh giá điều thiện như cách nàng đánh giá đồ trang sức và tài sản Nàng ngờ vực ngọn gió Và gieo gặt nhờ kích thích thói xấu Mồi thính của nàng Là quyền lợi và danh dự hão huyền Ta đâu cần một bữa cơm Đâu cần một manh áo Cơm ta thiếu gì? áo ta cần chi? Ta ở trên đất đai của tổ tiên ta Và quăng lưới trên dòng sông của tổ tiên ta Những khao khát của ta Hướng về tuyệt đối... Ta là Trương Chi Ta ca ngợi tình yêu Nở từ hạt thiện Và bông hoa của tự nhiên Là sự chân thực lạnh buốt...” Tiếng hát Trương Chi cao vút. Xung quanh im bặt. Nhừng giọt nước mắt long lanh trên mắt Mỵ Nương. Nàng chưa từng được nghe ai hát thế này. bọn hoạn quan, những gã đồng cô, những tên hề lùn, bọn bói toán, tướng số, lang băm...đứng dạt cả ra. Trương Chi vẫn hát, đôi chân của chàng như bốc khỏi đất, chàng đang bay lên. Chàng hát:

109

“Hãy ca hát tình yêu Hỡi những trái tim lãnh cảm Những trái tim sắt đá Bạo lực chỉ gây oán thù Nòi giống phải trả giá Ta là Trương Chi Ta hát cho tình yêu Vẻ đẹp tự nhiên Sự chân thực lạnh buốt...” Chàng hát: “Ta là Trương Chi Ta hát cho tình yêu Đây là thanh danh ta Và thanh danh nàng...” Chàng hát: “Ta là Trương Chi Ta hát cho tình yêu Tình yêu không xúc phạm được Bởi nó kiêu hãnh và tinh tế...” Chàng hát: “Ta là Trương Chi Ta hát cho tình yêu Tình yêu cần hy sinh Bởi nó không khoan nhượng...” Chàng hát: “Sự ngu ngốc hay khôn ngoan với tình yêu đều như nhau

110

Sự ràng buộc hay không ràng buộc cũng thế...” Chàng hát: "Tình yêu không mất đi và không sinh ra Tình yêu tuyệt đối...” Chàng hát: “Ta là Trương Chi Bài ca ta cât lên từ trái tim bị thương tôn Này người tình ơi Xin đừng vì sự thương tổn trái tim ta mà tổn thương trái tim nàng Chúng ta đi qua cuộc đời bạc bẽo này, giả dối này Nàng cứ sống đi rồi sẽ hiểu Những chân trời nào nàng sẽ qua... Và những gì làm trái tim ta đau Ghi dấu trên thanh danh ta... Và trên cả thanh danh nàng... Có một thứ tình yêu bất tử...” Trương Chi im bặt. Chàng cũng không biết chàng dã bay tới bến sông từ khi nào nữa. Hình ảnh Mỵ Nương biến mất đâu rồi, trước mặt chàng là sông nước trắng xóa một màu, trời mây trắng xóa một màu. Trương Chi chèo thuyền ra giữa tim sông. Chàng lại nói: - Cứt! Chàng từ trên thuyền bước xuống xoáy nước giữa sông. ở trên trời, trên mặt đất, trên biển cả và các dòng sông đều có những hốc đen bí mật. Những xoáy nước trên sông là những hốc đen như thế.

111

°°° Trong truyện cổ, người ta kể rằng khi hát xong câu hát cuối cùng: “Kiếp này đã dở dang nhau Thì xin kiếp khác duyên sau lại lành “. Trương Chi đã nhảy xuống sông tự trầm. Hồn chàng nhập vào thân cây bạch đàn. Người ta lấy gỗ bạch đàn tiện thành bộ chén tiến vua. Mỵ Nương rót nước, nhìn thấy hình ảnh Trương Chi trong chén. Giọt nước mắt nàng lăn xuống, cái chén bạch đàn vỡ tan. Tôi - người viết truyện ngắn này - căm ghét sâu sắc cái kết thúc truyền thống ấy. Quả thực, cái kết thúc ấy là tuyệt diệu và cảm động, trí tuệ dân gian đã nhọc lòng làm hết sức mình. Còn tôi, tôi có cách kết thúc khác. Đấy là bí mật của riêng tôi. Tôi biết giây phút rốt đời Trương Chi cũng sẽ văng tục. Nhưng đấy không phải là lỗi ở chàng. Mỵ Nương sống suốt đời sung sướng và hạnh phúc. Điều ấy vừa tàn nhẫn, vừa phi lý. Lẽ đời là thế.

112

ĐỜI THẾ MÀ VUI Ngôi nhà nhỏ ở trên đồi, cách đường cái ba chục mét. Ngôi nhà đơn độc, lẻ loi. Đằng sau ngôi nhà có hai cây nhội gai lá đỏ, thứ cây mọc hoang chỉ dùng làm củi. Từ dưới chân đồi đi lên ngôi nhà là một lối nhỏ xếp đá, hết hai mươi bậc thì đến một bãi đất hoang, người ta định san nền cho ngôi nhà mới nhưng sau lại bỏ ý định ấy đi. Từ bãi đất hoang đi lên mười sáu bậc nữa mới đến ngôi nhà vừa kể. Ngôi nhà làm theo kiểu nhà ở tạm, cột bương, mái gianh, tường đất. Những người công nhân lâm trường dựng ngôi nhà này mấy năm trước làm chỗ trú mưa nắng khi đào hố trồng thông và bạch đàn. Trong nhà, đồ đạc lèo tèo. Đáng kể chỉ là cái giường rẻ quạt gỗ mít đã sứt sẹo cả. Trẻ con dùng dao khắc lên thành giường những nỗi buồn và ước mơ của chúng: nỗi buồn thì dứt khoát và sâu sắc, còn ước mơ táo tợn. Cuối giường có vết khắc chạm là của một tay đàn ông phóng đãng in hình mũi tên xuyên qua trái tim. Chính giữa nhà là chiếc ban thờ làm bằng miếng tôn đóng nẹp treo lên tường. Bát hương là loại bát tô đựng miến. Xế bên trái ban thờ là chiếc gương với ảnh nữ tài tử Mai Diễm Phương người Hồng Kông trên tờ quảng cáo phim. Chỗ ức cổ trắng ngần của Mai Diễm Phương có ghi một bài thơ của kẻ vô danh, lời lẽ tầm thường: "Thời không có anh hùng Người không có tri âm Mỹ nhân đêm vò gối Gạt nước mắt thương thầm" Trong góc nhà đặt chiếc kiềng sắt, tro than nguội lạnh. Cạnh đấy là xô nước, nồi xoong, rổ đựng bát đĩa.

113

Thằng bé ngồi ở trên giường, dựa lưng vào cái chăn bông. Nó trạc sáu tuổi. Trên nét mặt nó chưa có dấu vết của lòng căm thù hay sự đau đớn, điều ấy phải sau nữa mới có. Cũng không có dấu vết của lòng độ lượng hay sự chán nản, điều ấy cũng phải sau nữa mới có. Nét mặt nó vô sự. Thằng bé đưa mắt nhìn ra cửa. Mẹ nó khóa trái bên ngoài. Mẹ nó đi chợ mua sách bút để mai nó đi học. Nó học lớp Một. Thằng bé nhổm người dậy. Nó tần ngần ngắm con tò vò xây tổ. Con tò vò tha những viên đất tròn, ướt ở góc xô nước về chô then cửa kiên nhẫn uốn thành một vòm mỏng, cong. Nó bay đi bay lại hàng chục lần, không lần nào thay đổi hướng bay. Con tò vò vụt qua mặt thằng bé. Nó nhận ra cái eo lưng thắt lại của con tò vò. ở đấy có những ngấn tròn. Con tò vò cái. Trong trí óc non nớt của thằng bé xuất hiện hình ảnh mẹ. Bụng mẹ nó nhẽo, cũng có những ngấn tròn. Sáng nay mẹ nó đi nhờ xe chở than của chú Hảo. Thằng bé không thích chú Hảo. Chú Hảo râu xồm. Chú nói: - Đồ đĩ! Béo nứt bụng! Mẹ nó cười. Chú Hảo lại bảo: - Gái xề! Đồ mặt chó! Mẹ nó lại cười. Con tò vò lại vụt qua mặt thằng bé. Đôi cánh của con tò vò có mầu vàng phơn phớt. ở gò má mẹ nó cũng có vết lõm màu vàng phơn phớt. Nó sờ vào chỗ ấy và thấy ngón tay ướt. Chú Hảo nói: - Nước mắt đàn bà! Nước đái bò!

114

Mẹ nó lại cười. - Rồi mày cũng bỏ tao mà đi thôi con ơi. - Mẹ nó nói. Như thằng bố mày! "Tò vò mà nuôi con nhện Ngày sau nó lớn nó quện nhau đi. Tò vò ngồi khóc tỉ ti: Nhện ơi! Nhện hỡi! Mày đi đằng nào? " Thằng bé hỏi mẹ: - Bố đi đâu? Mẹ nó thở dài: - Bố mày là sói! Bố mày đi kiếm ăn! Bố mày đi theo gái! Thằng bé có lần đã nhìn thấy sói. Con sói chạy ở ven rừng, bồn chồn, sốt ruột, đuôi cúp lại, lưỡi thè ra. Nó sợ hãi. Nó côi cút. Thằng bé không thấy sợ nó. Chú Hảo cũng có vẻ bẩn thỉu của sói. Chú Hảo nói: - Chán đời...Rất chán đời! Chú Hảo nằm ngả trên giường, chân gác lên tường. Chú Hảo hát: "Này em, người yêu ơi, đôi môi dịu dàng Và mắt em xa xôi mơ màng Anh đã suốt đời lang thang tìm em..." Thằng bé thấy đói. Nó ra rổ bát tìm cái ăn. Mẹ nó trước khi đi đã để quà cho nó: cơm nguội với nải chuối luộc. Đường lên chợ thị xã ba mươi cây số. Ô tô của chú Hảo đến trưa mới về. Thằng bé ngồi xổm ở góc nhà bóc chuối ăn. Nó bầy những cái bát ra rồi cắn từng miếng chuối cho vào bát. Đây là mâm cỗ tướng. ăn cỗ có nó, mẹ nó và ông khách

115

qua đường. Có lần trời mưa, ông khách qua đường đã vào nhà nó. Mẹ nó nấu cơm cho ông khách ăn. Ông khách cao lớn, cười nói sang sảng, đi đứng rung chuyển cả căn nhà. Ông khách nói: - Vô nghĩa hết! Làm gì có vàng mà đào...Tôi đi xem thiên hạ đào vàng, vừa khinh bỉ, vừa đau đớn, vừa buồn cười...Chỗ nào cũng tàn ác, dâm dục, đểu giả, tham lam... - ăn đi ông...Mời ông xơi miếng phao câu...- Thằng bé ăn một miếng chuối. Nó mời. - ăn đi. Ông khách cười: - Thằng này khá...Làm thân nam nhi, vượt qua một bể lừa lọc, vượt qua một bể ái tình...đời nát toét ra...Kẻ nào có phao là đồng tiền hay lòng nhân đức còn đỡ? không có phao xớt lắm...Lửa thử vàng. Vàng thử đàn bà. Đàn bà thử đàn ông. Đàn ông thử ma quỷ với thánh thần...Hóa ra ma quỷ hết! Thánh thần ít lắm... Thằng bé nhớ đến con sói đi ở ven rừng, đuôi cúp lại. Ông khách ôm thằng bé vào lòng, gõ nhịp hát bài hát của bọn người đi đào vàng: ">Khi có vàng là ta có ăn, ta có chơi Đời thế mà vui! Khi có vàng là ta hết đời, ta hết hơi Đời thế mà vui! " Thằng bé không ăn nữa. Khách đến rồi khách lại đi - Chào cô...Chào Phật Bà Quan âm...Chào Bồ Tát...Tôi đi nhé.. - Mẹ con cháu chào ông. Ông đi chân cứng đá mềm...ông đi về quê hay đi đâu ạ?

116

- Về quê làm gì? - ông khách cười khẽ. - Tôi còn đi nữa...Đời thế mà vui. Về quê làm gì? Lòng người đen bạc, đất đai khô cằn... Thằng bé không biết gì về làng quê. Mẹ nó hứa nhiều lần sẽ đưa nó về thăm quê nhưng chẳng bao giờ mẹ nó đủ tiền. Mẹ nó nói ở quê có nhiều người quen: ông bà chết rồi nhưng vẫn còn mộ, mẹ nó sẽ về thắp hương; rồi chú, bác, cô, dì; những bạn bè của mẹ nó như cô Lượt, cô Na, chú Sửu, cậu Bền... Chú Hảo cũng hay nói chuyện về thăm quê. Chú bảo đã về thăm quê ba lần, mỗi lần về lại buồn thêm một chút. Chú Hảo bảo: - Quê tao có cái đình rất to. Hội đình vui lắm. Các bà các chị đứng xem đàn ông vật nhau. Hồi còn bé, bạn bè đố tao hễ cứ phát vào đít một cô lại được một hào. Mỗi kỳ hội tao có vài trăm tiền tiêu, tha hồ ăn quà. Mẹ nó cười: - Ba tuổi ranh đã dâm! Chú Hảo cãi: - Đấy là bọn có tiền nó dâm chứ! Tôi phận nghèo hèn phải bỏ quê ra đi là cơ nhục lắm. Mẹ nó bảo: - Sao bảo chú bỏ quê ra đi là vì theo gái? Chú Hảo bảo: - Đồ đĩ! Đồ mặt chó! Nói thế cũng nói! Chú Hảo hát: Ta ra đi, ta ra đi, đâu nề chông gai. Tiến lên đi, tiến lên đi, tung hoành sức trai

117

Chí ta lớn cao ngất tầng mây... Mẹ nó cười: - Tôi còn lạ gì đàn ông! Các người đi tìm vàng, tìm gái chứ chí lớn khỉ gì! Chú Hảo bảo: - Đồ đĩ! Đồ mặt chó! Nói thế cũng nói! Chú Hảo lại hát: "Tiến lên đi chân trời rực hồng Thân nam nhi phỉ chí tang bồng Coi cái chết tựa như lông hồng Kìa mấy ai da ngựu bọc xương... " Thằng bé đứng lên, nó dỏng tai để ngóng tiếng xe ô tô. Nó biết làm thế vô ích. Mẹ nó còn lâu mới về. Không có âm thanh nào lọt vào nhà ngoài tiếng gió. Tiếng gió thổi khẽ, từng đợt, như có người ngáy khẽ. Nó nhận ra bởi những phên gianh va đập vào nhau. Thằng bé ngẩng mặt nhìn lổ hở trên mái nhà. Lỗ hở bé, chỉ bằng đồng xu. ánh trời lọt vào nhà qua lỗ hở vạch một vệt sáng thằng đầy những hạt bụi bé li ti. Thằng bé xòe tay hứng vệt sáng. Vệt sáng đầy lòng tay nó. Thằng bé nhớ khi ông khách vốc nắm đất trong tay. ông khách bảo mẹ nó: - Chỗ đất này biến được thành vàng là xong cuộc chơi hùng. Đàn ông thường anh nào ở đời cũng mơ như vậy...Vô nghĩa hết! - Tiền mà làm gì. - Mẹ nó nói. - Đàn bà chúng tôi sống chỉ vì tình. Chú Hảo bảo:

118

- Đồ đĩ! Đồ mặt chó! Nói thế cũng nói! Ông khách lắc đầu: - Có được tình tốn sức lắm đấy...có khi trả cả cuộc đời cho người ta mà không trả đủ. Mẹ nó khóc: - Đàn bà chúng tôi nhẹ dạ lắm, trong lòng lúc nào cũng thấy trống vắng, trong lòng lúc nào cũng thấy thiếu tình thương. Ai nói đến tình thương là bọn chúng tôi gục đầu vào ngay chẳng biết đất trời gì nữa. Ông khách cười: - Thế mới khổ! Thế mới đích thị đàn bà! Chú Hảo bảo: - Thế mới chết! Đồ đĩ! Đồ mặt chó! Chú Hảo cười: - Đàn bà là giống yêu tinh ác độc nên trong lòng nó mới thấy thiếu tình thương! Còn đàn ông bao giờ thiếu tình thương đâu! Hoan hô đàn ông! Hoan hô dê cụ! Ông khách bóp nát nắm đất, tung ra như gieo mạ. ông khách vung tay: Bay đi...bay đi lòng căm hờn. Bay đi giả trá. Bay đi bất công. Bay đi dục vọng đê hèn... Ông khách xốc áo, vươn vai đứng dậy, bước đi rung chuyển cả căn nhà. Ông khách móc túi lấy một gói vải đưa cho mẹ nó: - Chào Bồ Tát...Chào cô...Cô giữ cái này để nuôi cháu...Chẳng được là bao, gắng sống qua được đận này. Ông khách cười, giơ tay làm một cử chỉ khó hiểu, như biểu tượng. Mưa giăng giăng. Bây giờ đang tiết mưa xuân.

119

Thằng bé đi lại chỗ giường. Nó ngồi tựa lưng vào chỗ có vết khắc mũi tên xuyên qua trái tim. Mũi tên cắm vào vai nó. Thằng bé đưa mắt tìm con tò vò. Không thấy con tò vò đâu nữa. Cái tổ đang còn xây dở, vết đất còn ướt. Thằng bé thở dài. Cái tổ tò vò xây ngay chỗ cài then cửa. Mở cửa ra là cái tổ tò vò nát bét. Có tiếng động khẽ đâu đây. Không phải bên ngoài, mà ở trong nhà. Thằng bé dỏng tai nghe ngóng. Như có con gì rón rén bò vào nhà. Thằng bé hoảng sợ. Nó lạnh toát cả người, mồ hôi rịn ở chân tóc. Nó đưa mắt nhìn quanh. Linh cảm của nó không nhầm: nó thoáng thấy có cái bóng ngoằng ở xó tối, nơi để xoong nồi. Bóng gì? Thằng bé run bắn người. Nó co hai chân lên giường rồi lùi sát vào tường. Rõ ràng có một cái bóng. Bóng gì? Tiếng động khẽ, ướt và lén lút. Thằng bé run bắn người. Nó chưa bao giờ nghe thấy tiếng động như thế. Rõ ràng có một cái bóng. ánh sáng ở trong căn nhà đột ngột trầm xuống, mờ mờ, lạnh hẳn đi. Bóng gì? Thằng bé thấy tim nó đau thắt lại. Nó không dám thở mạnh nữa. Lại ngoằng một cái đâu đấy trong xó nhà. Thằng bé nhận ra điều ấy không phải bằng mắt. - Mẹ... Thằng bé co rúm người. Nó kêu lên, nước mắt trào ra, hai tay thu vào, ngón tay quắp lại. Nó đập chân xuống chiếu. Rõ ràng có một con gì đang bò chầm chậm, ráo riết, lì lợm, lạnh lùng ở dưới gậm giường. - Ầm... Có tiếng đổ vỡ chai lọ, tiếng kéo lê sền sệt, tiếng nhai xương rau ráu. Tiếng nhai khẽ, ngấu nghiến, nhẩn nha.

120

Tiếng hút tủy. Tiếng xương vỡ vụn. Tiếng chép miệng hữa. Thằng bé choáng người, ngực đau tức. Nó không thở được. Nước mắt nỏ trào ra. Mặt nó đỏ tía. - Mẹ...Mẹ... Thằng bé cuống cuồng gọi. Nó lăn lộn trên giường. Bây giờ không còn nghi ngờ gì nữa. Rõ ràng có tiếng nhai xương. Tiếng hút tuỷ. Tiếng chép miệng. Tiếng nhai rau ráu. Thằng bé khóc ngằn ngặt. Nó nằm im gục mặt vào chăn. Nó mệt lả người. Nó lịm đi. Căn nhà yên tĩnh. Vẫn chỉ có tiếng gió bên ngoài rin rít. Mãi lâu sau thằng bé mới hồi tỉnh lại. Nó hé mắt nhìn. Mồ hôi túa đầy mặt nó. Thằng bé lắng tai nghe, căn nhà yên tĩnh lại thường. Không có tiếng động nào cả. Không có gì hết. Thằng bé đưa tay cấu vào chân. Nó cảm thấy đau. Nó lồm cồm bò dậy, mắt liếc nhìn thanh sắt mẹ nó dựng ở đầu giường, thanh sắt ngừa trộm. Nó rón rén dịch người để lấy thanh sắt. Thằng bé nín thở. Nó kéo thanh sắt lên, cầm chắc trong tay. Nó dỏng tai nghe. Không có tiếng động nào cả. Yên lặng lạ lùng. Thằng bé đập đập thanh sắt xuống giường, sau đó lại dỏng tai nghe. Vân yên lặng như thường. Thằng bé thở nhè nhẹ. Nó lấy lại sức rồi rón rén bò ra mép giường. Nó nhìn dưới gầm giường: dưới ấy không có gì cả. Thằng bé đặt hai chân xuống đất, cố giữ để không run. Nó cầm thanh sắt khua dưới gầm giường. Không có gì cả. Một nỗi căm uất vô hình dâng đầy ngực nó. Nó khua thanh sắt vào xô đựng nước, vào các xoong nồi. Nó đập nát chiếc gương. Nó lục soát tất cả các góc kín trong nhà: dưới đất, trên tường, trên mái gianh. Nó xô đổ mọi thứ. Không có gì cả. Yên lặng như thường. Yên lặng đáng sợ.

121

Thằng bé dỏng tai nghe. Tiếng gió ngoài trời ngừng bặt. Không gian sững lại, nặng nề. Thằng bé bỗng cảm như toàn bộ không khí trong nhà ngừng lại, dồn tất cả lên người nó. Nó bị nén xuống, ép chặt. Nó run lẩy bẩy, thanh sắt tuột khỏi tay. Nó quỵ xuống đất. Toàn bộ gân cốt nó nhão ra, không cử động được. Thằng bé nằm co quắp, úp mặt xuống nền đất, ngay chỗ vũng nước. Tim nó đập thình thịch, đập rất nhanh, loạn xạ, cuống cuồng, đôi lúc ngừng hẳn. Sức lực nó bị rút kiệt. Nó định mở mắt nhưng không sao mở được. Nó máy môi. Nó định gọi mẹ nhưng không sao đẩy được âm thanh ra khỏi lồng ngực. Thằng bé nằm im như thế rất lâu. Không biết bao nhiêu thời giờ đã trôi qua. Con tò vò đã xây xong tổ. Khuôn mặt bầu bĩnh của thằng bé như bị rút kiệt hết nước, hết máu. Khuôn mặt nó tái nhợt, khô đanh lại. Căn nhà hoang khóa trái nằm ở trên đồi. Mưa giăng giăng. Bây giờ đang tiết mưa xuân. Mãi đến giữa trưa, chiếc xe ô tô chở mẹ thằng bé mới về. Người lái xe có bộ râu xồm mở cửa xe cho mẹ thằng bé bước xuống. Người đàn bà mặt rỗ, mặt xị ra có lẽ vì phù, cười thỏn thẻn kéo từ ca-bin ra hai bị cói bẩn thỉu. Người lái xe đóng cửa ca-bin lại rồi giằng lấy hai cái bị cói trên tay người đàn bà. Anh ta cau có: - Đồ đĩ! Đồ mặt chó! Người đàn bà đứng lại, nhận ra một vệt máu loang ở ống quần. Ngượng ngập, người đàn bà quay người ngồi thụp xuống, bứt vội nắm cỏ bên đường. Người lái xe quay mặt nhìn về phía hai cây nhội gai lá đỏ. Anh ta hát khe khẽ: "Này em, người yêu ơi, đôi môi dịu dàng à mắt em xa xôi, mơ màng. Anh đã suốt đời lang thang tìm em..."

122

Người đàn bà đã chùi sạch vết máu, chị ta đứng dậy bươn bả bước lên đồi. Người lái xe xách bị đi sau. Anh ta bỗng như nhớ ra chuyện gì bèn gọi: - Này...này! Đồ đĩ! Người đàn bà quay lại, nét mặt lo lắng, chờ đợi Người lái xe thở dài: - Này, cái ông khách hôm nọ trú mưa ở đây ngoẻo rồi đấy. Người đàn bà ngơ ngác: - Sao biết? Người lái xe lắc cái đầu bù xù, tỏ vẻ không hiểu. - Lão ấy bị bọn ở bãi vàng thịt. Chúng nó tưởng lão ấy lắm tiền nhưng hóa ra chẳng có cóc khô gì cả.. Người đàn bà lặng im, quay người đi tiếp lên đồi. Còn chín bậc đá nữa là đến ngôi nhà của chị. Ngôi nhà nhỏ ở trên đồi. Ngôi nhà đơn độc, lẻ loi. Mưa xuân giăng giăng trùm lên ngôi nhà. Mưa xuân giăng giăng trùm lên hai cây nhội gai lá đỏ. Mưa xuân giăng giăng trùm lên quả đồi. Năm nay mưa xuân trong thời tiết nồm thế này là có nhiều sâu hại lúa. Mưa xuân suốt từ tiết Kinh trập đến nay vừa được 14 ngày.

123

THIÊN VĂN Con đò nằm bên vệ sông. Buổi trưa nắng gắt. Khách xuống đò mặc bộ đồ chàm xanh, tay nải khoác vai. Đò không có chèo, neo bằng sợi dây thép buộc vào hòn đá. Chắc lái đò về nghỉ trưa rồi. Dòng sông không một bóng người. Khách ngồi ở mũi đò bình thản nhìn quanh. Sông lặng tờ. Này nhé: này là dòng sông Định mệnh cử cuồn cuộn chảy Bồi và lở Được và mất Con thuồng luồng nào nín hơi dưới đáy Ngẫm nghĩ về mẻ lưới người Anh đã mắc vào lưới tình Thật chua xót ngu ngốc Anh đã mắc vào đôi mắt Chịu án lưu đầy. Con thuồng luồng nín hơi bơi đi Tránh những bến quen ê chề Này bọn cá mương, cá ngao Mày có bao giờ mơ về đại dương. Khách lôi ở tay nải ra một miếng lương khô hơi giống mẩu bánh mì đen. Khách nhai trệu trạo, đôi mắt đăm đăm nhìn dòng nước. Khách ăn rất lâu, có vẻ như thể ăn dè. Hay đây là miếng lương khô cuối cùng? Hay trong tay nải vẫn còn lương khô nhưng chặng đường đi còn xa? Không biết. Khách hẳn là người đã từng nếm nhiều gian khó. Những kẻ không thủ đắc điều gì, không chuyên tâm điều gì không ăn như thế. Những người quen sống no đủ không ăn như

124

thế. Những mẩu vụn lương khô vụn lại giữa lòng bàn tay khách. Những con cá lòng tong bé xíu bơi sát mạn đò. Khách nghiêng người thả tay xuống, thích thú thấy chúng bu lại. Trời rất xanh, bồng bềnh trên cao những đám mây trắng, mây bông. Gió thổi những đám mây bay đi. Nhận được điều ấy bởi những bóng râm thỉnh thoảng lướt trên mặt sông như chạy, như đuổi. Có đàn chim sẻ bay ào qua. Này nhé: này là cánh chim Có cánh chim nào mỏi mệt không? Có cánh chim nào rã rời không? Mà gió đấy, mà bão đấy Gió bão xua đuổi thời vận Mặt đất đầy những cạn bẫy Anh đã mắc vào lưới tình Thật chua xót ngu ngốc Anh đã mắc vào đôi mắt Chịu án lưu đầy Nhừng cánh chim bay đi Về chân trời xa. Đêm nay chim ngủ đâu Mà đêm nay hồn anh ở đâu Này chú chim xanh Bao giờ báo tiệp? Khách đứng dậy, vẻ lo lắng hiẹn trong đôi mắt. Sao đã lâu không ai xuống đò. Sao không thấy lái đò? Đến cả mái chèo cũng tháo đi rồi? Hay đây là cạm bẫy? Khách ngồi xuống chỗ ban nãy ở đầu mũi đò. Chắc khách nghĩ không cạn bẫy nào giăng ra đây cả. Điều ấy đáng khinh bỉ, tầm thường. Với khách, một bộ hành như thế, hoặc tin rằng không ai làm hại được gì bởi rất có thể khách (và con người nói chung) đều chỉ là một hình ảnh

125

không thực, hoặc giả khách đã quá quen với mọi hiểm nguy nên coi mọi sự là thường. Năng không còn gay gắt nữa. Thiên nhiên mơ màng. Lựa một thế dễ chịu, khách duỗi chân, gác đầu lên tay nải, dim mắt lại. Này nhé: giấc ngủ Ta đã ngủ giấc ngủ dài Hãy tỉnh thức vì trưa rồi Mặt trời đã chuyển từ Đông sang Tây Mà mưa bão qua giờ Ngọ cũng hết Sao anh mơ màng? Anh đã mắc vào lưới tình Thật chua xót ngu ngốc Anh đã mắc vào đôi mắt Chịu án lưu đầy Thế gian cay đắng Giọt mật nào còn sót trên môi em Giọt muối nào còn sót trên môi em Một cuộc mộng mị dài trăm năm Một giấc mơ dài cả đời anh... Khách bỗng choàng dậy. Những kẻ có số phận bất trắc mạo hiểm vẫn luôn có những giây khắc bừng thức hãi hùng như thế. Những kẻ khao khát tri thức tự do và chân lý tuyệt đối cũng luôn có những giây khắc bừng thức hãi hùng như thế. Những bản năng mọi rợ ngủ say. (1) Khách khép mắt ngủ lại chập chờn, cứ nghĩ chỉ chợp mắt không lâu. Thật ra, không phải thế. Thiên nhiên vẫn tính gian trá thời gian khi ta thiếp ngủ. Một lát sau khách thức dậy thì mặt trời đã đi một chặng xa rồi. Khách cúi người bên mạn đò, vốc nước rửa mặt. Chừng như không đã, bèn đưa tay bám chặt lấy thành đò rồi vục hẳn đầu xuống nước. Nước ấm áp dễ chịu. Căng măt cố nhìn chỉ thấy

126

một màu vàng đục nhức nhối. Không chịu nổi, khách lắc mạnh đầu rồi đưa tay dụi mắt. Khi định thần lại, khách bỗng giật mình vì trong khoảng khắc thiếp đi thiên nhiên đã trở mặt. Không còn ánh nắng. Không còn trời xanh. Không còn mây bông. Tất cả sầm sập âm u một màu xám chì. Phía chân trời, cuờn cuộn những dải mây đen vần vũ. Này nhé: sự biến dịch luân hồi Cười người hôm trước hôm sau người cười Thế gian cứ một hồi trị một hồi loạn Thời cuộc cứ một khi co một khi duỗi Anh đã mắc vào lưới tình Thật chua xót ngu ngốc Anh đã mắc vào đôi mắt Chịu án lưu đày. Về nhà thôi, về nhà thôi Cố hương này cố hương xưa Cố hương có ai mong chờ Cố hưởng có ai tựa cửa Nơi nào có khói lam chiều Đâu là nơi mẹ ta chôn rau? Cây gạo đầu làng có còn không? Bây giờ có ai đi nhặt hoa đỏ không? Khách băn khoăn nhìn quanh. Những giọt nước rất to ném xuống mặt sông như dò dẫm, như đùa, như cợt, khi mau, khi chậm, rồi bỗng tạnh hẳn. Khách hãi hùng: giữa bến sông vắng chẳng có nơi nào trú ẩn.. Mặt sông chuyển sóng. Màu nước xanh sậm hơn. Rồi màu nước xanh sậm chuyển sang màu nhờ đục. Những cành củi khô, rác rưởi kết thành bè trôi nhanh loang loáng giữa dòng. Sóng đánh dồn dập làm chiếc đò xoay mạnh. Sợi dây thép neo đò tuột khỏi hòn đá. Ngay lập tức, mưa trút xuống rào rào, sấm ì ầm, chớp lóe sáng, sét nổ.

127

Chiếc đò xoay mạnh văng ra khỏi bờ. Khách loạng choạng té ngã. Đành phải phó mặc mọi sự, chống đỡ bây giờ vô hiệu. Này nhé: sự tuyệt vọng Ngươi đến có chu kỳ nào không Người có tuân theo những vận động ám muội nào không Đâu là hạt giống người gieo Đâu là cái gật đầu cho một âm mưu? Anh đã mắc vào lưới tình Thật chua xót ngu ngốc. Anh đã mắc vào đôi mắt. Chịu án lưu đày. Con thuồng luồng lặn thẳng một hơi Sá chi một mẻ lưới người? ồ tự do, tự do hay buông thả? Tự do thường nối theo sự tuyệt vọng nửa bước chân Khách một mình trên đò giữa mưa bão. Rất dễ lố bịch và thê thảm. Nhưng đấy là với kẻ tầm thường. Còn khách, hình như bây giờ mới là lúc khách biểu hiện bản lĩnh của mình. Nhanh nhẹn, khéo léo, dứt khoát, quả cảm, khách di chuyển đến giữa tim đò, chân rướn thẳng, giữ thăng bằng. Con đò chao lắc dữ dội theo dòng nước. Ai đã xem trò chơi lướt sóng hẳn sẽ ngạc nhiên trước tài nghệ phi thường của người điều khiển mảnh ván trên đầu sóng. Có điều ở đây mảnh ván là cả con đò cồng kềnh và thô lậu. Số phận nào mà chẳng cồng kềnh, thô lậu? Này nhé: định mệnh Ngươi cồng kềnh và thô lậu Những đợt sóng vận hạn của ngươi thật quái ác Còn ta, ta lướt qua ngươi giản dị, mạch lạc

128

Giản dị, mạch lạc buông thả Giản dị, mạch lạc xu thời Tự do nào chẳng có buông thả, xu thời Cao thượng, đê tiện chung một nụ cười Anh đã mắc vào lưới tình Thật chua xót ngu ngốc Anh đã mắc vào đôi mắt Chịu án lưu đày Bên kia bờ xa Chứa ẩn định mệnh kinh hoàng. Mưa như trút. Gió thổi khi ngang, khi dọc. Con đò lướt trên đầu sóng chẳng có chiều hướng nào hết: khi xuôi, khi ngược, khi nhanh, khi chậm. Có điều, rõ ràng con đò đang tiến về phía bờ xa. Mưa thưa hạt, gió dừng thì đò cập bến. Sóng liếm vào bãi cát từng đợt thèm khát, mệt mỏi, gợi dục. Những con le le không biết ở đâu bay đến kêu táo tác đổ xuống mép nước, ngang nhiên ở ngay mũi đò. Này nhé: ta cập bến đợi Ta đã lôi cuốn tất cả những gì nông cạn, tầm thường để đến đích Ta đã tự khoa trương, tự khinh bỉ Ta đã đi qua sự vô luân, sự nhẹ dạ Và ti tỉ điều vụn vặt Ta đã đến bến bờ Bình đẳng với những kẻ bình đẳng Bất bình đẳng với những kẻ bất bình đẳng Không bao giờ bình đẳng hóa những bất bình đẳng Anh đã mắc vào lưới tình Thật chua xót ngu ngôc Anh đã mắc vào đôi mắt Chịu án lưu đày...

129

Khách xách tay nải nhảy xuống đò vuốt mặt, loay hoay đẩy mũi đò ghếch lên bờ cát. Khách nhìn lại đằng sau, tự hỏi vì sao mặt sông rộng thế, lại mặc nhiên xa lạ với mình, chẳng biểu hiện tình cảm gì. Khách thở dài, ngước mắt nhìn trời. Đêm xuống. Những ngôi sao mọc lên rất nhanh trên nền trời trong vắt. Kìa là chòm sao Thần Nông chăm chú. nhìn về phương Nam, lưng rất thẳng. Đấy là dấu hiệu thiên văn báo rằng năm tới được mùa, làm ăn không vất vả.. Khách đi hút vào đêm tối. °°° Ngày áy, năm ấy, đồn rằng có khách qua sông trên đò một mình, chẳng có chèo, chẳng có sào gì cả, mưa bão rất lớn mà đò vẫn cập bến. Người ta bảo rằng đấy là một thiên thần qua sông. Dấu chân để lại trên sạp đò rất lớn, cô lái đò ướm chân mình vào đấy về nhà mang thai. Cũng có thể qua sông hôm ấy là một thi sĩ. Thi sĩ bao giờ cũng làm những việc lạ thường, đuổi theo những vẻ đẹp kỳ ảo, những vẻ đẹp huyền bí. Chỉ có điều vết chân thi sĩ để lại thường rất nhỏ.

130

TỘI ÁC VÀ TRỪNG PHẠT Cái đẹp sẽ cứu thế giới (F.M. Đostoievski)

VÀO CHUYỆN Đã có nhiều bạn đọc đến với tôi, họ kể lể về cuộc đời, than phiền những điều bất hạnh trong số phận, mong muốn tôi viết „một cái gì đấy“ về tội ác và trừng phạt. Mong muốn của họ chân thành và cảm động. Trước mặt tôi là một cô gái 16 tuổi. Khuôn mặt cô đanh lại, khắc khổ: Mái tóc đỏ quạch, rối bời. Cô nói bằng một giọng trầm, khô đặc hệt như đàn ông. Cô phạm một tội rất nặng. Cô gái này ở cùng bố, một bà mẹ mù và ba đứa em ở vùng cao huyện M. Tây Bắc... Hồi đi dạy học, tôi đã có lần dặt chân lên vùng cao này. Nơi đây hết sức hoang vu. Để bỏ cái thư, người ta phải đi chừng 15 cây số mới tới bưu điện. Thỉnh thoảng (tức là phải đi khoảng ba tiếng đồng hồ), mới thấy chơ vơ ở lưng chừng đồi mấy nóc nhà người Xá. Nhà người Xá làm hơi giống nhà người Thái đen, nhưng không có „quản“, không có „khau cút“, đơn sơ như chòi canh nương. Tôi đã từng ngồi trên cầu thang một nhà như thế ăn cháo ngô. Dưới chân cầu thang những con lợn bẩn thỉu rúc mõm vào đám phân trâu ẩm ướt.

131

Cô gái 16 tuổi ngồi trước mặt tôi phạm tội giết bố và ba đứa em. Cô ta giết bố bằng rìu, khi ông ngủ say. ông bố nằm ngửa, tay vắt lên trán. Cô gái đứng dạng hai chân, nâng rìu lên ngắm nghía, giống như ta lựa thế bổ củi: - Ban đầu cháu định bổ vào mặt ông ta, nhưng cháu sợ lưỡi rìu trượt theo sống mũi, không chết được. ông ta rất khỏe, đã từng tay không mà bắt được một con trăn lớn... Cô gái cúi xuống, một tay chống rìu, còn tay kia nhấc tay ông bố đặt sang bên cạnh. - Cháu nhằm vào giữa trán...cháu biết chỗ ấy có xương rất cứng, nên cháu lấy sức để bổ thật mạnh. óc bắn lên tung tóe như bã đậu... Tôi đứng dậy đi ra ngoài trời. Tôi nhớ lại màn sương mù xám bạc vẫn thấy ở vùng cao, thứ màu xám bạc ủ dột, nó làm thần kinh bải hoải, vô vọng tột cùng. Có lần, đấy là vào mùa hè năm 1978, tôi đi vào những rẻo đất hoang vu ở thượng nguồn sông Mã. ở đây tưởng như sự sống đã rời bỏ nó hoàn toàn, thế mà vẫn thấy một, hai ngôi nhà người dân đã từng ngụ cư ở đây đến hai, ba đời. Tôi nói chuyện với họ, ngạc nhiên thấy những kỷ niệm từ đầu thế kỷ này vẫn còn nguyên vẹn. Những thông tin xã hội trong vài ba chục năm nay không đến được đây. Sự tối tăm về tinh thần của họ khiến tôi kinh hoàng.. Những người „hãy đi xa hơn nữa“ trước đây là một số tội đồ hoặc bị cảnh nghèo đói buộc phải tha hương. Lòng nghi ngờ con người ở họ thật đáng sợ. Giao tiếp với xã hội bên ngoài được thông qua một số người nào đấy đã được thời gian bảo hiểm sự an toàn. Thường đấy là một số tay buôn vặt, buôn những mặt hàng nhu yếu phẩm như dầu, muối, kim, chỉ..., những thầy mo.

132

Những đứa trẻ, con của những tội đồ hoặc những người nghèo bị hắt hủi lớn lên trong mặc cảm về nhân cách, sống trong hoàn cảnh hết sức nhọc nhằn, bị bầu không khí ủ ê buồn bã của núi rừng làm mụ mị đi. Ta sẽ bất lực khi áp dụng những kinh nghiệm tâm lý của xã hội văn minh dối với họ. Họ không hiểu „các quan điểm chính trị“(!) của chúng ta, đã đành rồi. Họ cũng không biết cách chế biến món ăn sao cho ngon miệng. Dẫn tôi đi vào các bản người H mông, người Xá, người Sán Dìu hồi ấy là một thanh niên vốn quê gốc ở Hưng Yên tên là Quản văn Lanh. Tên này về sau bị chết khi bọn buôn thuốc phiện thanh toán lẫn nhau. Họ Quản ở Hưng Yên tập trung thành vùng Phố Hiến là một thương cảng nhất nhì ở ta hồi mấy thế kỷ trước. Phần lớn các gia đình họ Quản vùng này đều khá giả, không hiểu vì sao một gia đình họ Quản lại phiêu bạt lạc đến vùng đất khỉ ho cò gáy này. Quản Văn Lanh có mẹ là người Xá. Hắn biết chừng ba chục từ tiếng Kinh và việc chuyện trò của chúng tôi quanh quẩn trong ba chục từ ấy. Lanh trán thấp, môi dày, quai hàm bạnh, hoàn toàn lầm lì. Tôi không hiểu dưới vầng trán ngắn ngủi và bạt về phía thóp kia, hắn nghĩ gì. Không bao giờ Lanh cười, hỏi gì thì lờ đi, gặng mãi mới bật ra một hai từ tối nghĩa. Hắn sống lủi thủi, chưa bao giờ đi xa khỏi nhà về phía „xuôi“, mà chỉ „đi xa hơn nữa“ về phía Tây, tức là về phía biên giới Thượng Lào và những núi tuyết ở Vân Nam, ở đấy có nhiều đẳng sâm, ba kích, ấu tẩu, tam thất, thuốc phiện và tắc kè, toàn những vị thuốc quý hiếm. Có lần, khi tôi ngủ thiếp ở giữa chời canh nương, một

133

phần vì quá mệt mỏi do chuyến đi vất vả một phần nữa vì những mệt mỏi trong tâm hồn, khi choàng tỉnh dậy, tôi thấy Lanh ngồi xổm bên tôi chăm chú nghiền ngẫm ngắm nghía. Thấy tôi mở mắt, hắn đứng dậy bỏ phắt ra ngoài. Tôi hết sức kinh hoàng và tôi chợt nghĩ rằng người ta hoàn toàn có thể giết người chỉ vì do buồn chán, giết người để „thỏa trí tò mò“, để „nghiên cứu“. Ta đã thấy có em bé khi bị mẹ nhốt trong nhà đã tháo tung một cái „ti vi“ mới nguyên chỉ để xem trong ấy có người hay không? Em bé không hề có động cơ „phá hoại“ hoặc „phản động“. Lần ấy, tôi đã kiên quyết bỏ dở chuyến đi phiêu lưu sang Thái Lan. Người dẫn đường lầm lì của tôi có thể thịt tôi như bỡn vì tôi nhận ra ở hắn khát vọng khốn nạn là muốn „xem tâm hồn thằng chó này có gì“. Nhân đây tôi cũng muốn nói rằng ở ngay Hà Nội, tôi cũng dã thấy những tên Quản văn Lanh như vậy, mặc „com lê“ hẳn hoi chứ không đóng khố cởi truồng muốn thịt tôi để xem tâm hồn tôi có thật „nhà văn“ hay không? Xtăngđan đã nói rất đúng rằng khi người ta không có gì để nhìn vào lòng mình thì họ sẽ nhòm vào tâm hồn người khác. Cô gái mà tôi nhắc đến ở đầu bài viết này không phải là người không có tâm hồn. Tôi còn nhớ ở miền núi, người ta đã giết chết những con gà rồi buộc cao lên sào chỉ vì con gà ấy phá hoại vườn rau. ở Quỳnh Nhai, phía Tả Ngạn sông Đà, cũng chỉ vì một con gà bị giết như thế, một người tên là Phúc đã cầm dao nhọn đâm chết hai mẹ con người hàng xóm. Tôi đã nói chuyện với tên Phúc này. Trông hắn hiền lành, lừ đừ hệt như ông từ giữ đền. Hắn không biết chữ, suốt từ bé đến lớn chỉ làm mỗi một việc chặt nứa thuê cho bọn buôn bè. Khi hỏi vì sao hắn đã giết người, hắn nghĩ ngợi một chút

134

rồi bảo: „Dao vừa mới mài xong“. ở Thanh Hóa vài ba năm trước đây đã có một vụ gã con trai dùng cuốc bổ vào gáy bố đẻ ra hắn.. Hắn đã róc thịt ông cụ ra để nấu cám lợn, còn xương thì vứt xuống sông. ở Hà Nội, cũng đã từng xảy ra một vụ ngươi chết bị chặt ra từng đoạn và thủ phạm quăng xác người chết ra nhiều nơi. Song, những bi kịch dẫn tới cái chết ở các vùng thành phố khác với những bi kịch ở vùng hoang dã. Khi xem các thống kê tội phạm, người ta dễ nhận thấy người có trình độ văn hóa thấp chiếm tỷ lệ cao. Đời sống tinh thần tăm tối cùng với hoàn cảnh quẫn bách vật chất tạo ra tội ác. Có lẽ cũng cần kể đến tình trạng ngồi lê đôi mách ở các bà và một số các ông. Dây cũng là một thứ mông muội tinh thần, dẫu nó không dẫn đến tội ác, nhưng quả thật nó cũng bẩn thỉu. Chúng ta đang sống trong một đất nước mà bi kịch ở con người chủ yếu do khát vọng về miếng ăn và nhà ở gây ra. Đây là thứ bi kịch thảm hại nhất trong các bi kịch. Có người lưu ý tôi về bi kịch khát vọng dân chủ, bi kịch tôn giáo và nhiều thứ khác nhưng tôi thấy khả nghi. Tôi đã xem các thống kê về người tự tử, số người chết về miếng ăn và nhà ở chiếm tới 80%. Tôi chưa thấy có nhà chính trị hay nhà trí thức nào tự tử vì để bảo vệ lý tưởng cá nhân của mình. Như vậy, sự mông muội tinh thần có cả ở những vùng đất xa xôi lẫn ở thành thị. Tội ác sẽ trở nên hết sức man rợ bởi sự mông muội tinh thần đó. Đã đành những tội ác nảy sinh từ sự mông muội tinh thần, nhưng chúng ta cũng có thể mô tả nó như kết quả của những thèm khát muốn thay đổi, muốn đổi mới hoàn cảnh sống theo xu hướn xấu di.

135

Những kẻ giết người thật thà nhất không bao giờ lý giải được vì sao chúng lại giết người. „Tôi không hiểu...Tôi cũng không biết vì sao như thế... Có cái gì buộc tôi như thế...“ Cô gái 16 tuổi phạm tội giết bố và ba đứa em ở đầu thiên truyện này cũng đã nói với tôi như vậy. Bọn giết người ở thành phố, ở những „hoàn cảnh văn minh“ trả lời động cơ giết người rõ ràng hơn, cụ thể hơn nhưng chính vì thế lại vô lý hơn: „Vì nó chửi tôi...Nó cướp miếng ăn của tôi...Nó đổ dầu định đốt nhà tôi...“ Những tên cao thủ hơn trong bọn giết người trả lời về động cơ giết người đơn giản và khá tàn nhẫn: „Tôi cần tiền“. Khi tôi phân tích cho chúng người ta hoàn toàn có thể kiếm được tiền triệu bằng các phương pháp „diễn biến hòa bình“, không chết người mà vẫn có văn hóa cao, chúng hiểu ra ngay rằng chúng ngu độn. Một tên xỏ lá nhất trong bọn nháy mắt hỏi tôi: „Ông có thế không?“ Tôi giải thích cho hắn rằng tôi là nhà văn, rằng tôi không có khả năng và phương tiện hành động như thế, hơn nữa tôi không bao giờ làm thế. Hắn nhe răng cười, vỗ vai tôi theo kiểu các vị tướng vỗ vai anh binh nhất: „Hiểu rồi! Sẽ khổ cả đời thôi, con ạ!“ Trong một chuyến đi về nông thôn cách đây không lâu, tôi hết sức ngạc nhiên vì ở một huyện lỵ trung du hẻo lánh có khoảng ba chục ngôi nhà xây cất tạm bợ mà có tới gần chục điểm giải khát ăn uống, trong đó có ba điểm trá hình buôn bán gái mại dâm. Các cô gái điếm là dân nhà quê mà. khách làng chơi cũng là dân nhà quê nốt. Tôi đã thấy một tay chơi mặc quần ta (dân miền Nam gọi là quần bà ba), áo sơ mi trắng, hút thuốc lá cuộn, đi đứng như thằng sa đì, đi chơi gái với năm nghìn đồng trong túi. Thời thơ ấu, tôi đã từng ở một huyện lỵ trung du và tôi đã

136

từng thấm thía „nỗi buồn trung du“. Một sự kiện nhỏ xảy ra có thể khiến người ta bàn, tán hàng tháng trời. Người dân ở đây thuộc từng nốt ruồi trên mặt nhau. Một cô gái chửa hoang thời ấy có thể làm sôi sục cả một huyện lỵ. Một gánh xiếc rong đi qua sẽ làm bọn trẻ con ốm hàng năm ròng. Thế mà bây giờ dân ở phố huyện ấy không còn thứ cảm xúc kia nữa. Tội ác trắng trợn và tàn nhẫn được coi như chuyện bình thường. ở Hà Nội, tôi biết một cô gái tên là Q. Cha cô nhiều người biết tiếng, ông mất cách đây ít năm. Ông có óc thẩm mĩ, ưa hài hước và niềm say mê thiên nhiên của ông khá mãnh liệt. Tôi quý ông, chính vì thế nên mới dể ý theo dõi số phận cô ta. Q lớn lên, đi học, tốt nghiệp trường đại học danh tiếng, nói thạo tiếng Anh, tiếng Nga. Cô từng tham gia một ban kịch, từng đóng phim. Q. có những phẩm chất và nhiều điều kiện để trở thành một phụ nữ danh vọng, có tài sản cùng hạnh phúc. Song, sự buông thả bản tính và sự lơi lỏng ý thức hướng thiện đã biến Q. thành một con điếm thượng lưu. Trong tâm hồn cô mất dần đi sự thông cảm với người bình dân, mất cả khả năng xét đoán nội tâm chính mình và người khác. Hành động của Q. không gây tội ác nhưng sẽ đẻ ra những đứa con hoang tinh thần. Tôi có thể kể ra những tội ác bắt nguồn từ những nguyên nhân khác nhau nữa. Sự ghen tuông, tính đố kỵ, mê tín dị đoan v.v... Cải tạo đời sống mông muội về vật chất và tinh thần, luôn đề cao ý thức hướng thiện, đấy chính là con đường, là Đạo. Khi tôi hỏi cô gái 16 tuổi phạm tội giết người có biết về tình yêu hay không, cô ta nói là không biết. Tội ác không bao giờ biết đến tình yêu. Tội ác sinh ra tội ác. Ngay từ xưa người ta đã nói: „ác giả ác báo, hại nhân, nhân hại“. Tội ác cứ nhân thêm. Và đến

137

lúc nào đấy, sẽ bốc lửa. Sự trừng phạt sẽ đến. Sẽ đến ngày phán xử cuối cùng.

CÂU CHUYỆN Cô gái tên là X., 16 tuổi, ở với bố, một bà mẹ mù và ba đứa em. Ngôi nhà của họ biệt lập trên một quả đồi vùng cao huyện M. Tây Bắc. Một lần đi đường, ông bố không kìm được thú tính đã hiếp X. Cô gái phẫn uất, dùng rìu giết chết ông bố, sau đó quay yề khóa cửa lại đốt nhà. Ba đứa em cô bị thiêu sống..Bà mẹ mù đi hái lá thuốc thoát chết. Cô gái ra đầu thú, ít lâu sau treo cổ tự tử trong nhà giam.

ĐOẠN KẾT Cô gái phạm tội giết người trước hôm chết ít hôm có nói với tôi: „Chú ơi, cháu có chết cũng chẳng ai thương. Cháu xin chú hai việc, chú mua cho cháu một vòng hoa, chú đọc cho cháu một bài kinh sám hối. Cháu muốn được chết như mọi người. Xuống âm phủ, cháu chẳng quên ơn, cháu sẽ phù hộ cho chú suốt đời“. Tôi đã nhận lời. Tôi đã đọc bài kinh ấy bên mộ cô gái. Tôi cũng đã dọc bài tụng „vô tướng“ của Lục tổ Huệ Năng cho chính bản thân mình nữa, cũng để là cho bạn đọc đã bớt chút thời giờ đọc thiên truyện buồn tẻ này của tôi. Bài tụng như sau: Thuyết thông với tâm thông

138

Mặt trời chốn hư không Diệu pháp giúp thấy tính Ra đời dẹp tà tông Pháp vốn không lâu chóng Mê tỉnh có chậm nhanh Nhứng pháp môn kiến tính Phàm phu chẳng hiểu rành Thuyết pháp dẫu muôn cách Quy một lại, chẳng ngoài Nhà âm u phiền não Vầng tuệ nhật sáng soi Nghĩ tà, phiền não đến Nghĩ chính, phiền não trừ Chính tà đều chẳng thiết Thanh tịnh đến vô cùng Bồ đề chân giác ngộ Tham cầu là hư vọng Tịnh ngay trong vọng tâm Chính niệm hết ba chướng Người đời tu đạo Phật Pháp môn chẳng ngại đường Thường tự mình xét lỗi Tức cũng Phật một đường Sắc thân tuy khác loại Tự tu chẳng trái nhau Lìa đạo mà cầu đạo Suốt đời chẳng thấy đâu

139

Gió bụi bôn ba mãi Chỉ chuốc toàn buồn não Muốn thấy đạo chân thực Ngay chính: ấy đạo màu Không có lòng cầư đạo Mò mẫm chẳng tới nơi Người tư đạo chân chính Chẳng trách lỗi người đời Thấy người khác có lỗi Tự trách đường lối mình Người sai ta chẳng chê Ta sai tự trách mình Phải bỏ ý chê bai Phiền não trừ hết thảy Yêu ghét chẳng để tâm Khểnh chân nằm thoải mái Muốn giáo hóa người đời Phải tự có phương tiện Chớ để họ sinh ngờ Tự tính liền ờiêủ hiện Phép Phật ở thế gian Vì thế gian giác ngộ Lìa thế gian cầu đạo Tìm sừng thỏ khác nào Chính kiến là xuất thế Tà kiến ấy thế gian Chính tà đều quét sạch Tính Bồ đề huy hoàng

140

Tụng này phép Đốn giáo Gọi tên Đại Pháp thuyền Mê thì chìm kiếp kiếp Tỉnh chỉ một chớp sao! ý nghĩa của bài tụng cầu cho người viết sách (nhà văn) và người đọc sách. Giác ngộ đến mức nào là ngoài sự kiểm soát của tôi.

141

THƯƠNG CẢ CHO ĐỜI BẠC I Trước khi đi Nhật Bản, Đặng Tử Mẫn nghe lời Đặng Tử Kính qua Nam Định để gặp Nguyễn Thượng Hiền, Tăng Bạt Hổ. Đến chợ Rồng, Đặng kéo cụ Khổng người làng Định Trạch, vốn trước kia là đốc biện quân lương của Nguyễn Quang Bích. Khổng cho Đặng biết Phan Bội Châu mới từ Nghệ An ra Nam Định: - Cụ Phan đang ở nhà tôi. Chỗ hai người đứng nói chuyện với nhau là một phiến đá vuông dùng để đập lúa nhưng vỡ một góc, nên người ta dùng nó lát đường. Trước khi cháy chợ Rồng năm 1987, người ta vẫn thấy phiến đá ấy lát trước quầy bán cá khô của bà Hai Oanh. - Thưa cụ, nếu thế thì cụ phải cho tôi gặp được cụ Phan. Khoảng thời gian đang kể đây là khoảng trước Tết Nguyên đán năm ất Tỵ 1905 chừng mấy ngày. Quang cảnh chợ Rồng vui và nhộn nhịp sẽ được tả sau ở cuối chuyện này. Cụ Khổng dẫn Đặng Tử Mẫn len lỏi vào chợ. Tới gian hàng vải, cụ Khổng giới thiệu Đặng với cụ Đồng Thịnh là người giữ bát họ có danh tiếng ở chợ Rồng: - ông Đặng là người hào kiệt. Cụ Đồng Thịnh bảo:.

142

- Chúng tôi đều nghe danh ông. "Văn kỳ thanh, bất kiến kỳ hình". Đặng bảo: - Thành Nam là nơi có nhiều hào kiệt. Cụ Khổng bảo: - Đấy là ngày trước. Cụ Đồng Thịnh bảo: - Nhất Tú Xương. TIỂU SỬ TÚ XƯƠNG Trần Duy Uyên, tức Trần Tế Xương, tức Trần Kế Xương, tức Trần Cao Xương, tức Tú Xương, sinh năm Canh Ngọ 1870, mất năm Bính Ngọ 1907, hưởng dương 37 tuổi. Quê Tú Xương ở làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Đất Vị Xuyên được Tú Xương kể lại: Có đất nào như đất ấy không? Phố phường tiếp giáp với bờ sông Nhà kia lỗi phép con khinh bố Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng. Keo cú người đâu như cứt sắt, Tham lam chuyện thở rặt hơi đồng. Bắc Nam hỏi khắp người bao tỉnh: Có đất nào như đất ấy không? Tú Xương là con trai cả cụ Trần Duy Nhuận. Cụ Nhuận có 9 người con, trong đó có 6 người con trai và 3 con gái. Sáu con trai tên là Uyên, Ngư, Nguyên, Thiệp, Câu, Trừng. Ba con gái tên là Khiết, Tịnh, Vân. Tú Xương lấy vợ, vợ tên là Phạm Thị Mẫn, hơn Tú Xương

143

một tuổi, mất năm 1931, quê ở làng Lương Đường, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương, nhưng sinh ở Nam Định. Vợ Tú Xương làm nghề buôn bán gạo. Tú Xương có 6 người con trai tên là Bành, Bột, Bái, Uông, Lãng, Chử. Tú Xương học chữ Hán, sống trong buổi giao thời chuyển từ chữ Hán sang chữ Quốc ngữ. Tú Xương mộng công danh theo thói đời, theo đường thi cử, đi thi 8 lần, nhưng hỏng 7 lần, chỉ đỗ một lần: kỳ thi ất Dậu 1885: hỏng, Mậu Tý 1888: hỏng, Tân Mão 1891: hỏng, Giáp Ngọ 1894: đỗ tú tài, Đinh Dậu 1897: hỏng, Canh Tý 1900: hỏng, Quý Mão 1903: hỏng, Bính Ngọ 1906: hỏng. Kỳ thi năm Giáp Ngọ 1894, Tú Xương đỗ tú tài được một người Pháp tên là Buaranh tả lại như sau: "Trường thi Nam Định năm 1894, đông như kiến cỏ. Năm 1891, Nam Định chỉ có 9000 sĩ tử năm 1894, con số người đi thi lên tới 11000. Từ giữa trường thi, chỗ đường thập đạo trông ra, trùng trùng điệp điệp những mu rùa bằng tre, những tấm mui luyện nhà đồ (tức là những thi cụ lều chõng). Kỳ đệ nhất vào ngày 25-10-1894. Kỳ đệ nhị, ngày 15-11. Kỳ đệ tam 25-11. Và kỳ phúc hạch đệ tứ là ngày 1-2-1894. Ngày 8- 12- 1894 là lễ xướng danh những người đỗ. Tiếng loa ran lên, ôm ồm lanh lảnh. Tiếng í ới gọi nhau lạc đường của người nhà các thầy khóa, của tiểu đông, lão bộc, quản gia nhổ lều đội chõng ra về trong đêm tôi lập lòe ánh đuốc. Đám đông lên tới 25000 người. Lễ xướng danh từ rất sớm cho đến chiều. Ghế bành của các q uan chấm thi và dự lễ kê cao tới 4 mét. Quan Toàn quyền bận không đến, có quan cai trị Moren thay mặt dự lễ. Cử xong mỗi tên ông tân khoa xướng lên

144

mất 5 phút - lính từ lúc cất tiếng loa gọi tên, xoáy sang phía trái, xoáy sang phía phải, cho tới khi người trúng thi thích cánh lách được lên chỗ để trình căn cước. Khoa thi năm 1894, lấy 60 cử nhân và 200 tú tài (lệ triều đình đặt ra thường lấy theo tỉ lệ nhất cử tam tú, cứ chấm được một cử nhân thì lấy được ba tú tài). Xướng xong tên được 60 ông cử nhân tân khoa mất 3 tiếng đồng hồ thì quan sứ Moren về. Các ông tân khoa phục xuống lạy. ở tỉnh đường quan Tổng đốc quan Kinh lược Bắc Kỳ ban mũ, ban áo tấc xanh, ban ô, ban tráp sơn - nó là những huân hiệu cụ thể của người men chân lên cái thang công danh hoạn lộ. (Bắc Kỳ cổ sự). Tú Xương than sự thi, coi đấy là nghiệp chướng: Bụng buồn còn muốn nói nang chi Đệ nhất buồn là cái hỏng thi Một việc văn chương thôi cũng nhảm Trăm năm thân thế có ra gì! Về nghề nghiệp, Tú Xương không có nghề nghiệp gì. Tú Xương kể lại: "Tôi vốn đi tiêu dao suốt năm, không để ý gì đến cửa nhà, đến nỗi vợ phải đón về dạy con, cung phụng như ông đồ người ngoài, không dám xưng hô theo lễ vợ chồng: Thầy đồ, thầy đạc Dạy học, dạy hành Vài quyển sách nát Dăm thằng trẻ ranh. Văn có hay đã đỗ làm quan, võng điều võng tía Võ có giỏi đã ra giúp nước, khố đỏ, khố xanh.

145

Ý hẳn thầy văn dốt võ dát Cho nên thầy luẩn quẩn loanh q uanh. Trông thầy: Con người phong nhã Ở chốn thị thành Râu rậm như chổi Đầu to tày giành Cũng lắm phen đi đó đi đây, thất điên bát đảo Cũng nhiều lúc chơi liều chơi lĩnh tử đốm tam khoanh. Nhà lính, tính quan: ăn rặt những thịt quay, lạp xường, mặc rặt những quần vân, áo xuyến; Đất lề quê thói: chỗ ngồi cũng án thư, bàn độc, ngoài hiên cũng cánh xếp, mành mành. Gần có một mụ, sinh được bốn anh: tên Uông, tên Bái, tên Bột, tên Bành; Mẹ muốn con hay, rắp một nỗi biển, cờ, mũ áo; Chu rước thầy học, lính đủ tiền chè, rượu, cơm canh. Chọn ngày lễ bái Mở cửa tập tành Thầy ngồi chễm chệ Trò đứng xung quanh Dạy câu Kiều lẩy Dạy khúc lý Kinh Dạy những khi xuống ngựa lên xe, đứng ngồi phải phép Dạy những lúc cao lâu, chiếu hát, ăn nói cho sành! " Tú Xương có tài xuất khấu thành chương, hay làm thơ bỡn cợt người đời, thói đời. Thí dụ bỡn ông ấm Điềm: Ghi chú của Tú Xương: "Ông ấm Điềm đang ngồi chơi với ta, một chốc bỗng thấy con bé là người nhà bà Hai Đích tới gọi: "Ông ấm ơi! Ông về gói hộ bà tôi vài cái giò!" Ông

146

ấm lấy làm buồn cười. Hỏi mãi thì hóa ra chủ nhà sai nó đi gọi thằng ấm, nó nghe nhầm ra ông ấm Điềm. Buồn cười quá ta mới bỡn ông ấm rằng: "Ấm không ra ấm, ấm ra nồi Ấm chạy lăng quăng, ấm chẳng ngồi Chán cả đồ chuyên cùng chén mẫu Luộc gà, nấu thịt, lại đồ xôi". Thí dụ bỡn ông Thành Pháo (mượn chuyện chơi tam cúc để réo tên ông Pháo là người may được cử giữ chức phòng thành): Tượng tượng, xe xe, xé lẻ rồi Sĩ đen, sĩ đỏ chắng vào đôi Đố ai biết được quân nào kết Mã cũng chui mà tốt cũng chui! Thí dụ bỡn ông ấm Kỷ là con trai cụ tuần Quang. Mẹ ấm Kỷ dan díu với sư Doãn, tu ở chùa Phù Long (Nam Định): Ấm Kỷ kia ơi tớ bảo này Cha con mày phải cái này cay Thôi đừng võng giá nghênh ngang nữa Thằng hểu Phù Long bá ngọ mày! Thí dụ bỡn bản thân mình: Một trà, một rượu, một đàn bà Ba cái lăng nhăng nó hại ta, Chừa được cái gì hay cái nấy Có chăng chừa rượu với chừa trà. Tú Xương được người đời gọi là "thần thơ thánh chữ". Có

147

người nói đặc sản Nam Định là chuối ngự và thơ Tú Xương. Cả một thời đại văn chương nhưng Tú Xương được yêu mến nhất: Ông nghè, ông thám vô mây khói Đứng lại văn chương một tú tài! Tú Xương để lại khoảng 150 bài thơ phú và câu đối, phần lớn truyền miệng, bài nào cũng buồn cười, chơi chữ thần tình. Thí dụ nói về người chỉ giỏi cơm rượu mà kém văn chương: Văn chương chẳng thấy kêu rằng tốt Chỉ tốt hai hàng lúa mạ thôi! Hay: Ý hẳn thịt xôi lèn chặt dạ Cho nên con tự mới tòi ra! Thí dụ trêu vợ chồng mới cưới: Con bé nhà kia nó lấy ai? Thưa ông nó lấy chú Hai Mai Đuôi gà cô ả coi xinh gái Trứng cá anh chàng cũng đẹp giai! Có người viết về Tú Xương: "Ông sinh không ai biết, ông chết không ai hay". Vậy là cụ Đồng Thịnh bảo: - Nhất Tú Xương.

148

Đặng Tử Mẫn cùng bảo: - Nhất Tú Xương thật. Cụ Khổng đối biện bảo: - Hiềm Tú Xương chỉ du hí văn chương. Khi ba người đang đứng nói chuyện với nhau thì có một người ăn mày đi đến ngửa tay xin tiền ở quầy bán thuốc bắc hiệu ông lang Xán. ông lang Xán xua tay: - Người đói thì ta cũng chẳng no Cha thằng nào có tiếc không cho! Xung quanh cười ầm lên. Cụ Đồng Thịnh cười: - Lại Tú Xương! Nói rồi móc túi cho người ăn mày một hào. Cụ Khổng đốc biện hỏi: - ông Đặng khi nào ông đi Nhật Bản? Đặng Tử Mân bảo: - Sang năm mới. Cụ Đồng Thịnh vào sạp vải lấy ra một gói lụa đỏ: Ông Đặng, đây là tiền đóng góp của người việt Nam cho

149

nước Việt Nam. Đặng nói: - Đa tạ cụ, của ít lòng nhiều. Lúc ấy bỗng nhiên có tiếng đàn, tiếng nhị réo rắt cất lên. Đám người đứng xúm đông xúm đỏ quanh ông già hát sẩm với cô cháu gái chừng mười lăm tuổi: Hát rằng: - Chị hỡi chị, năm nay túng lắm Biết làm sao, Tết đến nơi rồi Mới ngày nào, chị mua muối cùng tôi Ngoảnh mặt lại, hàng vôi nay đã bán Này nụ, này hoa, này hài, này hán Pháo, tranh Tàu, Hương Cảng mới đưa sang Chị cùng em sắm sửa lo toan Muốn mua chịu, sợ nhà hàng lại lạ Chị em ta cùng nhau giữ giá Đến bây giờ ngã cả chẳng ai nâng Cũng liều bán váy chơi xuân... Cụ Đồng Thịnh bảo: - Lại Tú Xương! Ông già hát sẩm lại hát: Hát rằng: - Người tai mắt ai không thích thú Lúc về già lụ khụ mới chơi xuân

150

Suối quanh năm nào mất cái lông chân Nhà chứa bẩn để dành phân bón lúa Ba câu chuyện khoe mình lắm của Chốn nhà lan sặc sụa những hơi đồng Theo anh em đến chỗ lầu hồng Hỏi cô ấy có chồng chăng nhỉ? Anh đây thật là người chí khí Tiền cưới cheo chi phí một vài hào Khoe mình chơi nhất Hàng Thao! Cụ Đồng Thịnh cười: - Lại Tú Xương! Đặng Tử Mẫn và cụ Khổng đốc biện chào cụ Đồng Thịnh để về. Cụ Đồng Thịnh bảo: - Ông Đặng! Sự nghiệp Đông du lớn lắm! Đặng gật đầu: - Đa tạ cụ! Cụ Đồng Thịnh tiễn cụ Khổng đốc biện và Đặng Tử Mẫn tới ngoài cổng chợ. Cụ Khổng hỏi Đặng: - ông Đặng về nhà tôi bây giờ để gặp cụ Phan hay chờ đến tối? Đặng Tử Mẫn bảo:

151

- Tôi muốn ghé thăm Tú Xương. Cụ Đồng Thịnh bảo: - Muốn tìm Tú Xương phải nhờ chú Mán. Đặng Tử Mẫn ngồi lên xe chú Mán. Cụ Khổng đốc biện và cụ Đồng Thịnh lại quay vào chợ. Đặng Tử Mẫn ngồi lên xe. ông cất bọc tiền cụ Đồng Thịnh vừa trao vào trong tay nải. Thành Nam Định đang vào Tết: người xe nhộn nhịp, thấp thoáng bóng những cành đào ở nhiều cửa hiệu buôn. Khuôn mặt bạ n bè thân quen hiện ra trong tâm trí Đặng: nào Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thượng Hiền, Trần Cao Vân, Trần Quý Cáp, Tăng Bạt Hổ, Hoàng Hoa Thám, Kỳ Đồng, Nguyễn Văn Cẩm và nhiều người nữa. - Tất cả lui vào thiên cổ... Đặng nghĩ thế. ông lắng nghe tiếng pháo tép nổ ran cuối phố mà rùng mình. Trời lạnh. ở Nhật Bản trời lạnh hơn nhiều. Chiếc xe tay đi lòng vòng một lúc lâu rồi đỗ trước một hiệu cao lâu. Hiệu cao lâu này đến nay không còn nữa. Vị trí của nó đại để ở giữa quán karaoke của cô Dung béo và Công ty Sách - Thiết bị trường học thuộc Sở Giáo d ục Na m Định ở phố Hàng Thao bây giờ. Đặng Tử Mẫn trả tiền xe cho chú Mán rồi gõ cửa hiệu. Chủ hiệu cao lâu là cô Ba Tuyết chạy ra đón Đặ ng. Đặng hỏi:

152

- Ông Tú có ở đây không? Cô Ba Tuyết cười: - Gớm! Thì bác cứ vào đây cái đã nào!

II Tú Xương nằm trên chiếu, đầu gác lên đùi cô đào Thu. Tú Xương đọc: - Người bảo ông điên, ông chẳng điên Ông thương, ông tiếc, hóa ông phiền! Tú Xương suy nghĩ. Ông nghĩ: Từ lâu lắm, ở xa lắm, người ta đã nhầm lẫn Những nhầm lẫn cử chông chéo lên nhau Sống trong những nhầm lẫn thật tai hại Nhưng tỉnh ra còn tai hại hơn! "Thiên hạ dễ thường đang ngủ cả Tội gì mà thức một mình ta". Thôi thây kệ! Ai nhầm cứ nhầm Ta chỉ thấy buồn cười mà thôi "Những là thương cả cho đời bạc Nào có căm đâu đến kẻ thù"... Tú Xương nhắm mắt lại. ông cảm thấy dễ chịu quá chừng. Cô đào Thu mới hai mươi mốt tuổi. - Ông Tú! Thế chừng nào ông giúp em?

153

Tú Xương ậm ừ. ông đã chót hứa với cô đào Thu sẽ giúp cho cô một món lưng vốn. Em chỉ muốn về quê đi chợ. Làm công việc này nhục lắm. " Chơi thì nhục. Làm thì không nhục. Tại sao lại thế? Lại nhầm lẫn rồi!" Tú Xương nghĩ. - Ông Tú ạ! Em chẳng thấy ai như ông cả. "Lại nhầm lẫn rồi! Đàn ông thì ai cũng như nhau hết"- Tú Xương lại nghĩ. - Hôm nọ, cái ô mang ra ngoài hiệu cầm đồ chỉ bán được có ba hào. Tú Xương cười, cô đào Thu cũng cười ngặt nghẽo. GIAI THOẠI ĐI HÁT MẤT Ô: Có ông đi hát, bị cô đầu nẫng mất cái ô lục soạn, ông này tiếc của, kể chuyện cho mọi người nghe. Tú Xương làm bài thơ sa u: Đêm qua anh đến chơi đây Giày giôn anh dận, ô tây anh cầm Rạng ngày sang trống canh năm Anh dậy em hãy còn năm trơ trơ Hỏi ô, ô mất bao giờ Hỏi em, em cứ ỡm ờ không thưa Chỉn e rày gió mai mưa Lấy gì đi sớm về trưa với tình... Bài thơ này lưu truyền, nhà hàng sợ mất tiếng xin Tú Xương nghĩ cách chữa cho đỡ ngượng. Tú Xương bèn làm bài thơ trả lời:

154

Chẳng qua muôn sự tại trời Thôi thôi xin chớ dài lời làm chi Nắng thì nắng cũng có khi Mưa thì mưa cũng có kỳ mà thôi Thật lòng anh có thương tôi Thì anh cử việc đội giời mà lên Nhược bằng anh cố bắt đền Thì xin đền cái đắt tiền bằng ba! Cô đào Thu lại hỏi: - Ông Tú! Thế chừng nào ông giúp em? Tú Xương bảo: - Rồi đâu có đó. Cô đào Thu thở dài. Tú Xương nghĩ: Làm người thật khó Chỉ sống thôi sao mà khó thế Chẳng lẽ chỉ như thế thôi Cái cái, đực đực Những con thú mạnh biểu hiện Những con thú yếu khêu gợi... Đực đực, cái cái Cái cái, đực đực. Cô đào Thu hỏi: - Sáng nay ông ăn quà gì? Sáng nay em ăn miến lươn. Tú Xương đọc: - Quần áo rách rưới. ăn uống xô bồ Cơm hai bữa: cá kho, rau m uống Quà một chiều: khoai lang, lúa ngô...

155

Cô đào Thu lại hỏi: - ông Tú! Thế chừng nào ông giúp em? Tú Xương bảo: - Được! Cô đào Thu thở dài: - ông Tú ông sống cũng thanh đạm nhỉ? Tú Xương đọc: - Cực nhân gian chi phẩm giá, phong nguyệt tình hoài; Tối thế thượng chi phong lưu, giang hồ khí cốt". (Cái phẩm giá tột cùng ở trong thiên hạ là tình đối với trăng gió. Cái phong lưu bậc nhất ở trên đời là tính khí giang hồ). Cô đào Thu hỏi: - ông Tú! Trên đời ông quý nhất loại người nào? Tú Xương bảo: - Loại anh hùng hào kiệt và loại rong chơi giang hồ. Cô đào Thu cười ngặt nghẽo: - Loại anh hùng hào kiệt ông nào cung toàn râu là râu! Tú Xương cười. - ừ, trên sâ n khấu vị a nh hùng hào kiệt nào cũng toàn râu là râu thật. Tú Xương nghĩ: Anh hùng chí lớn Ông râu hùm hàm én Ông mặt đó râu dài Phong ba cát bụi Danh tiếng nức trần ai!

156

Cô đào Thu lại hỏi: - Ông Tú! Thế chừng nào ông giúp em? Tú Xương bảo: - Tết! Cô đào Thu bảo: - ứ ừ! Tết đến nơi rồi! Vừa lúc ấy thì Đặng Tử Mẫ n bước vào.

III Chắc chắn cnộc nói chuyệ n gi ữa Đặ ng Tử Mẫ n và Tú Xương vô cùng cao nhã vì Tú Xương đã ngồi thắng dậy, nét mặt nghiêm trang. Cô đào Thu hỏi: - Em có phải đi ra ngoài hay không? Tú Xương bảo: - Không! Cô phải ở đây hầu rượu. Đặng Tử Mẫ n và Tú Xương nói về thời thế. Xã hội Việt Nam ở đầu thế kỷ XX có tâ m trạng chung lo âu, ngơ ngác. Những mong mnốn khai sáng xuất hiện trong giới văn thân. Tấm gương cải cách Minh Trị Nhật Bản khơi dậy khát vọng biến đổi. Đặ ng nói: - Cụ Phan đã có ý định Đông du. Tú Xương buột miệng:

157

- Đa tạ cụ. Cô đào Thu bật cười: mỗi khi Tú Xương đa tạ ai nghĩa là Tú Xương đã nhận ra một điều gì đó bnồn cười. Tú Xương đưa mắt, cô đào Thu biết ý lặng im. Đặng Tử Mẫ n nói: - Số người ghi tên Đông du nay đã hơn 60 người. Trong miền Nam có Phan Chu Trinh rất có chí. Hiềm Phan Chu Trinh chủ trương "Pháp-Việt đề huề". C ụ Phan Bội Châu thì khác, chủ trương bạo động. Đặng Tử Mẫn nói: - ở Bắc Giang, cụ Hoàng Hoa Thám rất mạnh. Cụ Phan Bội Châu cũng định lên gặp cụ Hoàng. Cô đào Thu nín thở. Đặng Tử Mẫ n hỏi: - ông Tú! Ông nghĩ gì khi cụ Phan cho rằng "Lập thân tối hạ thị văn chương"? Tú Xương lại buột miệng: - Đa tạ cụ. Cô đào Thu lại xuýt bật cười. Tú Xương đưa mắt nhìn. Cô đào Thụ vơ tình chạm tay vào cái tay nải của Đặng Tử Mẫn. Đặng hỏi: - Ông Tú, tình cảnh ông hiện giờ thế nào? Tú Xương bảo.. - "Thê tróc, tử phọc" GIAI THOẠI VỢ BẮT , CON TRÓI Có người mang tặng Tú Xựơng một cái lồng chim. Thấy con chim bị nhốt, Tú Xương thương tình thả cho nó bay.

158

ông bảo: Ngã phóng, nhĩ phi, dực mao tác vũ " (Ta thả cho mày bay đi, lông cánh mặc sức bay nhẩy). Không dè bà vợ Tú Xương và mấy đứa con tưởng chim xổ lồng nên chạy lại, chộp được, lại nhốt vào lồng như cũ. Tú Xuơng cám cảnh, bật cười bảo: "Thê tróc, tử phọc, âu lộ hoàn lung" (Vợ bắt, con trói thế là con chim tự do lại quay vào lồng). Cô đào Thu bảo: - ông Tú. Em xuống nhà lấy đàn, lấy trống được không? Tú Xương bảo: - Được! Thế đã xong chưa? Cô đào Thu cười bảo: - Xong rồi. Đêm hôm đó, trong men rượu, giữa không khí lạnh của ngày giáp Tết, Đặng Tử Mẫn ngồi nghe Tú Xương gõ trống và cô đào Thu ngâm thơ. Thơ rằng: Sực tỉnh trông ra ngỡ sáng lòa Đêm sao đêm mãi thế ru mà. Lạnh lùng bôn bể ba phân tuyết Xao xác năm canh một tiếng gà. Chim chóc hãy còn vương cửa tổ Bướm ong chưa thấy lượn vườn hoa. Nào ai là kẻ tìm ta đó Đốt đuốc mà soi kẻo lẫn nhà!

ĐOẠN KẾT

159

Chợ Rồng chiều 30 Tết chật ních người. Ngoài cổng chợ bàyla liệt những hàng rau, hàng thịt. Trong nhà là các dãy hàng khô, hàng vải, hàng tạp hóa. Chỗ nào cũng thấy có những câu đối viết trên giấy điều. Mùi gạo thơm quện lẫn với đủ thứ mùi hàng hóa khác. Tất cả đều có hương vị thân quen nông nàn. Cô đào Thu đi sắm tết. Cô chuẩn bị về quê. Đến quầy bán mứt kẹo, anh chàng bán hàng chọc ghẹo gì cô đào Thu. Cô đào Thu cười ngặt nghẽo, đấm thùm thụp vào lưng anh chàng bán hàng. Cô bảo: Chỉ trách người sao chẳng trách mình Mình trung đâu đấy, trách người trinh. Xung quanh cười rộ lên. Có ai nói: - Lại Tú Xương! GIAI THOẠI CÔ ĐÀO THU Tú Xương quen cô đào Thu hay xin tiền. Tú Xương hứa giúp một chút vốn nhỏ nhưng chưa có dịp. May có một lần Tú Xương gặp Đặng Tử Mẫn, Đặng có tiền bèn trích một khoản nhỏ giúp cho cô đào Thu. Cũng có người nói rằng cô đào Thu trộm tiền của Đặng Tử Mẫn, Tú Xương biết nhưng lờ đi cho. Nhân việc này Tú Xương có bài thơ: Rước phải cô đào mới tẻo teo Rác tai đà làm sự ỳ èo Cầm, kỳ, thi, tửu, vui ra phá Điền sản, tư cơ mấy cũng nghèo Bạn ác không vay mà thúc lãi Thói thành dầu lịch cũng thành keo Thôi thôi xin kiếu cô từ đấy Chiều đãi thì tôi cũng váo đèo.

160

Cô đào Thu đi sắm Tết. Cô không biết rằng ở một góc chợ Tú Xương đang lặng lẽ ngắm nhìn cô. Tú Xương đi lẫn ở trong đám người đi chợ. Mọi người không ai biết ông...Một nhà sư khất thực chạm phải Tú Xương. Nhà sư lùi lại nói: - A di đà Phật! Tú Xương giật mình nhưng ông thấy buồn cười nên tự dưng buột miệng - Ca ki cà kật! Không biết mọi người xung quanh có nghe Tú Xương nói gì không nhưng tiếng cười cứ thế ran lên không ngớt. Tú Xương đi. Kìa Tú Xương đang đi... Ông "thõng tay vào chợ"...

161

CHĂN TRÂU CẮT CỎ Chùa Kiên Lao làng Hiền Lương là chùa nhỏ. Sư Tịnh ở chùa một mình. Năng hay đến chơi. Mẹ Năng bảo: Năng, mày có duyên với nhà Phật đấy. Năng cười, không nói gì. Một hôm sư Tịnh bảo: - Này Năng, con ở gần ta sáu năm. Nghe ta đọc kinh Phật có hiểu không? Năng bảo: - Có chỗ hiểu, có chỗ không hiểu. Sư Tịnh bảo: -Ừ Sư Tịnh bảo: - Ngày xưa, Lục tổ nghe kinh Kim Cương, chỉ nghe câu: ứng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm liền khai ngộ. Câu ấy có nghĩa là: Đừng bám vào cái gì mà để lòng vào. Con có hiểu không? Năng bảo: - Con đang nghĩ. Nói thế nhưng không nghĩ gì. Sư Tịnh bảo: - Nghĩ đi. Hôm ấy có sư Diệu Thủy ở chùa Sùng Khánh đến nghe giảng. Sư Diệu Thủy hơn Năng vài tuổi, quê ở Thái Bình, đã học hết phổ thông trung học. Hỏi vì sao đi tu? Sư Diệu Thủy bảo:

162

- Hồi ấy, trường học tổ chức đi du lịch ở Côn Sơn Kiếp Bạc. Ta đến, thấy các ni cô đang ngồi đóng oản. Không khí trong lành, cảnh chùa đẹp đẽ Lòng ta tự dưng rung động. Ta ước ao có ngày cũng được như những người kia. Thế là về nhà, ta lạy chào cha mẹ rồi đi. Năm ấy 17 tuổi. Sư Tịnh bảo: - Bằng tuổi. Năng bây giờ. Năng nghĩ: - 17 tuổi là tuổi ngốc nghếch. Sư Tịnh đọc được ý nghĩ của Năng. Sư Tịnh bảo: - Không ngốc đâu. Năng đỏ mặt. Năng đã coi thường sư Diệu Thủy chăng? Sư Tịnh bảo: - Hôm nay ta kể chuyện này. Lần ấy Lục Tổ đến chùa kia. Mọi người đang nghe giảng kinh, bỗng có ngọn gió thổi đến làm lay động lá phướn. Một thầy tăng nói: Gió động. Một thầy tăng khác nói: Phướn động. Thế là mọi người đua nhau tranh cãi.. Lục tổ bấy giờ mới bước lên nói rằng. Không phải gió động, cũng không phải phướn động. Chỉ có cái tâm của chư vị động mà thôi. Mọi người bấy giờ hết sức ngạc nhiên, tất cả sụp lạy Lục tổ. Sư Diệu Thủy về, Năng cũng về. Năng đi qua cánh đồng. Lúa sắp lên đòng nên có mùi thơm ngào ngạt. Trời nắng, thứ nắng đầu mùa hạ, không khô mà dịu. Thoạt nhiên bỗng mưa bóng mây. Mưa rất nhanh, ào ạt, chỉ khoảng độ năm mười phút. Giữa đồng không mông quạnh, chẳng biết trốn vào đâu, Năng ngồi thụp xuống bờ

163

cỏ, thé mà ướt đầu, ướt áo. Năng nhìn ra xung quanh, màu lúa như sẫm xanh hơn.. Năng đi đến bờ mương ngồi nghỉ. Không nghĩ gì, chỉ nhìn những gợn sóng lăn tăn đều đặn ở trong lòng mương. Nước như đứng lại, không biết chảy ngược hay xuôi. Từ phía phố Huyện có ba người đi đến. Năng nghĩ: - Không phải người làng. Ba người ngồi dưới gốc cây phi lao. Một người béo chừng năm mươi tuổi trải một tờ báo xuống đất, lấy thức ăn trong túi xách đặt lên. Một người gầy cũng lấy trong túi ra mấy hộp bia và hộp nước ngọt. Còn người thứ ba, thấp lùn thì đứng bên cạnh, càu nhàu: - Sao không vào quán mà ăn? Người béo cười: - Đánh chén ở đây khỏi phiền người ta. Họ cùng ngồi xuống ăn uống, nói chuyện. Người gầy nói: - Ông Trọng tháng mười một này nghỉ hưu. - Đáng lẽ về từ mấy năm trước nhưng ông ấy khai gian lý lịch để kéo thêm vài năm, ông ấy tuổi Sửu bằng tuổi chú Vượng tôi. Thế mà chú Vượng tôi đã chết được sáu năm rồi. Người béo nói:. - ông Trọng về là phải rồi. Cũng đã xây được nhà, con trai con gái đều đã lấy vợ lấy chồng. Thế là vinh thân phì gia, có của ăn của để. Người thấp lùn nói:

164

- Con gái bà chị tôi là con dâu ông Trọng, lấy thằng Điển. Hai vợ chồng nó đều dạy học ở thị xã, lại có cửa hàng ở chợ, thuê người bán hàng. Sống sung túc lắm. Người gầy nói: - Ông Trọng về nghỉ hưu thì ai lên thay chức ông ấy? Người thấp lùn nói: - Chắc lại ông Trung vây cánh của ông ấy thôi. Người béo nói: - Tôi đâm ra nghiện cái nước giải khát Coca Cola. Câu chuyện kéo dài, mỗi người nói một câu rồi họ đứng lên đi về phía Năng. Năng về nhà. Cơm nước xong thì mẹ Năng bảo: - Năm nay con có định thi vào Đại học không? Năng bảo: - Thôi mẹ ạ, con ngại học lắm. Con cũng không muốn xa mẹ. Mẹ Năng cười: - Anh tưởng anh còn bé à. Đi ra đời mà học khôn chứ! Bố Năng bảo: - Khôn dại làm quái gì! Cứ làm anh nông dân là tốt! Kệ nó! Nó lớn rồi nó biết nghĩ. Năng lên giường nằm.. Giấc ngủ kéo đến dịu êm và nhẹ nhàng. Trong giấc ngủ, Năng cảm thấy mình đang phiêu du ở đẩu ở đâu.. Buổi sáng, Năng dậy đi cắt cỏ trâu. Mang theo cái liềm với đôi quang gánh. Dọc theo bờ sông là bãi ngô với bãi mía. Năng cũng không biết cảnh vật ở đây đẹp hay không đẹp.

165

Bây giờ ở Hà Nội người ta làm gì, ở New York người ta làm gì, ở Tôkyô người ta làm gì? Năng cảm thấy mình đã ở những nơi ấy, thậm chí thuộc làu từng khu phố một. Cắt cỏ chỉ hơn tiếng đồng hồ. Cỏ mật rất thơm nhưng trâu không ăn. Sao trâu lại chỉ ăn cỏ gừng cay mà khô, chỉ ăn cỏ cật ráp và ngứa, cỏ nhằng là thứ cỏ dai ngoách?. Năng rẽ vào chùa. Sư Tịnh đang ngồi một mình, tựa như đang ngủ. Năng đặt nhẹ gánh cỏ xuống dưới gốc nhãn rồi nhẹ bước đi vào mà sư vẫn biết. Sư Tịnh bảo: - Năng đấy à? - Vâng. Sư Tịnh: - Đi cắt cỏ à? - Vâng. Sư Tịnh: - Có chuyện gì không? - Không. Sư Tịnh: - Đang nghĩ gì? Năng giật mình. Nghĩ gì? Có cần phải nghĩ một điều gì không? Sư Tịnh bảo: - Mỗi giây nghĩ đều không ngưng trệ. Sống. Biến đổi. Như dòng nước. Như mây bay. Như máu chảy. Có khách đến. Khách là ông giáo Hội. ông giáo Hội cũng là người làng.

166

Sư Tịnh hỏi: - ông giáo hôm nay không lên lớp à? Ông giáo Hội cười, lộ chiểc răng khểnh. Ông giáo Hội bảo: - Bạch thầy, hôm nay tôi không có giờ. Chẳng là có chai rượu của cậu học trò mang biếu. Nghĩ uống rượu một mình buồn nên mang lên chùa uống với thầy. Có được không ạ? Sư Tịnh bảo: - Được. Uống rượu một lúc. ông giáo Hội bảo: - Tôi là người phàm phu, trông lên Phật kính nhi viễn chi. Không dám đến gần. Tửu cũng ham, sắc cũng ham, danh lợi cũng ham. Biết là xấu mà không bỏ được. Bằng tuổi này đau đớn ê chề đủ cả. Nếu bằng tuổi thằng Năng bây giờ, tôi không gần đàn bà - đấy là toàn những bộ xương khô. Tôi không đọc sách báo - đấy toàn là thuốc ngủ, tôi không làm bạn bè với ai - đấy toàn là yêu quái. Sư Tịnh cười: - Thế ông làm gì? Ông giáo Hội không trả lời, hỏi vu vơ: - Thế sống là chạy đuổi theo thói xấu với người xấu à? Năng chào sư Tịnh và ông giáo Hội về nhà. Sư Tịnh bảo: - Tùy duyên, sao lại phân biệt tốt xấu để cho đau lòng? Năng gánh cỏ. Năng thấy gánh cỏ một bên nặng, một bên nhẹ. Để cân bằng phải lệch đòn gánh một bên. Gánh thế

167

không đi xa được nhưng may từ chùa về nhà chỉ dăm trăm thước. Trâu đang đợi cỏ, thấy Năng về vẫy đuôi rối rít. Năng đang cho trâu ăn cỏ thì chị Thư đến. Chị Thư là thủ quỹ của xóm chuyên đi thu tiền. Mẹ Năng ra tiếp. Chị Thư bảo: - Cháu đến thu tiền điện. Tiền điện tháng này của nhà hết 28 ngàn đồng. Tiền góp cho lễ Thánh mỗi nhà 5 nghìn đồng. Tiền tiêm chó 3 ngàn đồng. Cả thảy 36 ngàn đồng. Mẹ Năng cười ngượng ngịu: - Cả nhà còn mỗi 30 ngàn đồng. Hay tao bảo thằng Năng mang con gà ra chợ bán? Chị Thư bảo: - Con gà nhà mấy cân? Mẹ Năng bảo: - Làm gì mấy cân? Con gà ri trứng đẻ cứ vỡ. Bán giỏi lắm chắc được 15 ngàn đồng. Chị Thư bảo: - Thím bắt ra đây cho cháu xem nào. Đăng nào cháu cũng phải đi chợ mua thức ăn đãi khách ủy ban. Nếu thấy được thì cháu duyệt luôn. Nhất cử lưỡng tiện. Khỏi phải ra chợ. Mẹ Năng đi bắt gà. Năng bảo: - Con đánh trâu ra đồng cày. Được không mẹ? Chị Thư bảo: - Thằng Năng đảm việc thật. Về sau cô nào lấy được cậu ấy thì sướng cả đời.

168

Năng đỏ mặt. Nghĩ đến ông giáo Hội bảo đàn bà là đống xương khô lại bật cười. Người đàn bà nào gắn với số phận của Năng liệu có sướng không? Năng vác cày, đánh trâu ra đồng. Năng nhìn theo dấu con trâu bước đi chậm rãi. Sinh ra là kiếp con trâu Suốt đời tăm tối dãi dầu nắng mưa Thân tôi cổ cày vai bừa Nào thừng buộc, nào mõ khua rộn ràng Xin ông, ông xử nhẹ nhàng Tôi xin nộp đủ thóc vàng cho ông Chú nghé tơ có độc chiếc răng Còn chưa vực được, ông đừng vụt roi Tôi biết thân biết phận tôi rồi Tôi không hé miệng nửa lời với ai Gác sừng, rọ mõm, vểnh lai Cắn rơm cắn cỏ lạy ngài lượng cho Đêm năm canh tiết bốn mùa Chuồng xiêu, mái dột gió lùa vẫn cam Ai ơi bưng bát cơm vàng Xót thương trâu đứng bên đàng lẻ loi Khi nào trâu giết tế Trời Miếng thịt bùi ngùi trâu hỡi là trâu... Năng cày ruộng. Năng biết cày hết thửa ruộng cũng phải quá trưa nhưng Năng không vội. Nước xâm xấp bờ. Con trâu im lặng, lầm lũi như đang nghĩ ngợi, khắc đi khắc đến. Năng cũng im lặng, chăm chú vào việc lái cày cho thẳng. Đất lật sang một bên thành từng hàng như sóng. Năng cố gắng để không nghĩ ngợi, không xét đoán. Chợt nhớ sư Tịnh có lần khuyên rằng không nên xét đoán hay dở, đúng sai, xấu tốt. Ta đã chắc gì mình ở đẩu, ở đâu? Năng cày một mình không nghỉ. Đứng bóng thì xong thửa ruộng, đánh trâu xuống sông tắm mát. Năng lấy cỏ kỳ cọ

169

cho trâu. Con trâu dim mắt lại. Năng bơi một lát, thấy đói cồn cào. Năng về nhà. ăn cơm xong thấy ông giáo Hội ngật ngưỡng xiêu vẹo đi vào. Ông giáo Hội bảo: - Cho bác nghỉ nhờ ở đây một lát. Về nhà thấy toàn những khuôn mặt cũ, chán lắm! Năng bật cười. Nhà ông giáo Hội có tiếng nền nếp: vợ đảm đang, những đứa con rất ngoan, hiền lành, nhà cửa khang trang, ngăn nắp. Ông giáo Hội nằm võng. ông giáo Hội bảo: - Lúc nãy ở chùa nói chuyện với sư, giật mình nghĩ lại thấy mấy chục năm nay mình đi dạy học, dạy trẻ con toàn thứ láo khoét. Phen này xuống ngục A-tỳ là chắc. Thôi ngày mai bỏ về cày ruộng. Ông giáo Hội nói xong thì ngủ. Năng không nói gì. Năng biết ông giáo Hội chỉ nói thế thôi, ngày mai sẽ lại lên lớp dạy học như thường. Năng đã nghe ông giáo Hội nói thế không phải một lần. Có lần ông giáo Hội bảo trường học là nơi tu hành theo lối hưởng lạc. Năng ra đồng. Lại phải đi cắt cỏ cho trâu. Mẹ Năng bảo: - Bố mày ra đình từ sáng. Ngày mai làng tế Thành hoàng. Sớm hôm sau, mới gà gáy nhà Năng đã dậy. Cả những nhà bên cũng thế. Mẹ Năng thổi xôi, luộc thịt. Năng tắm gội sạch sẽ rồi ra đình làng. Hôm nay hội đình, việc này đã dược chuẩn bị từ hơn tháng trước. Các cụ ông, cụ bà ở trong đội tế đã thay áo quần, tề tựu cả. Đám thanh niên gồm mười tám trai tân với mười tám gái tân cùng chuẩn bị nhập hội tế. Năng cũng ở trong số này.

170

Năng vào phòng hóa - trang thay quần áo. Hội đình năm nào cũng diễn sự tích của Thành hoàng làng. Chuyện rằng ngày xưa Trời làm hạn hán, ở dưới mặt đất dân tình đói khổ. Dân làng theo một chàng trai bắc thang đánh Trời. Trời sai Thiên Lôi mang sấm sét thiên la địa võng dánh lại. Ba lần chàng trai đều thắng Thiên Lôi. Cuối cùng Trời phải làm mưa, dân tình thoát khỏi tai nạn hạn hán. Chàng trai cùng dân làng vui vẻ cày bừa, trở lại cuộc sống bình thường. Nhưng Thiên Lôi đợi khi chàng trai không đề phòng thì tới đánh lén. Khi chàng trai chết, dân làng đã thờ chàng làm Thành hoàng. Khoảng 9 giờ sáng bắt đầu hội tế. Người đông nghìn nghịt sân đình. Cờ, hoa, các mâm lễ vật bày la liệt. Không khí náo nhiệt. Năng cùng đám thanh niên vác những cái thang ngắn ra giữa sân đình. Điệu múa thang đã được tập luyện công phu từ mấy tháng trước. Câu chuyện cũ được diễn lại rất tao nhã, đẹp mắt và sôi nổi. Năng cầm thang đứng trong đội múa khi tiến, khi lùi, rẽ ngang, rẽ trái đều theo nhịp trống. Các ông già đóng vai Thiên Lôi và sấm sét cầm đao búa, kiếm kích cũng tiến cũng lùi, rẽ phải trái theo nhịp trống. Trận đánh diễn ra theo những nghi lễ ước lệ. Năng thấy bố mình cũng đóng vai một tướng nhà Trời. Trông ông rất hung dữ, khác hẳn với lúc bình thường. Năng bị một quả chùy đánh thốc vào ngực. Đòn đánh rất hiểm. Nếu Năng ngã xuống thì thật xấu hổ ê chề. Trông ra thấy sư Tịnh đứng ở góc sân cười tủm tỉm. Diễn tích xong thì đến rước kiệu. Năng vịn vào vai kiệu. Kiệu đi vùn vụt như trong mơ. Đám đông la hét điên cuồng. Ai đó kêu to: - Kiệu bay! Cuộc vui kéo dài đến hết buổi chiều. Năng về đến nhà thì tối. Năng tắm giặt, ăn cơm rồi xuống thả trâu.

171

Trăng non bắt đầu mọc. Gió thổi nhẹ. Năng thấy lòng mình trống rỗng. Năng dắt trâu ra bãi cỏ ven đê rồi nằm dài xuống vạt cỏ mềm. Bây giờ mới thấy người đau ê ẩm, cởi áo ra thấy có vết tím ở ngực trái: rõ ràng vết của quả chùy. Năng nhìn lên trời cao, Năng không biết mình đang ở đẩu, ở đâu? Con trâu gặm cỏ bên cạnh, nhẫn nại bình thản. Nó đang nghĩ gì. Nó đang ở đẩu, ở đâu? Bóng tối lan tỏa trên cánh đồng. Có gió thổi, rõ ràng là có gió thổi. Nghe rõ cả tiếng phần phật của cờ, của phướn.

172

HẠC VỪA BAY VỪA KÊU THẢNG THỐT Không hề ai biết hắn là một thi sĩ. Hắn đến bến đò lúc 3 giờ chiều, giữa lúc nắng gay gắt. Hắn ở trên chiếc ô tô chạy than bước xuống, chiếc ô tô chở khách từ thị xã về bến đò rồi lại từ bến đò ngược về thị xã, mười ngày một bận. Chiếc ô tô sơn đen cà khổ, lèn chặt được mời sáu người cùng với đồ đạc. ống khói xả than gò bằng tôn ở dưới đuôi xe dựng đứng lên trời. Không hề ai biết hắn là một thi sĩ Hắn đội chiếc mũ cát trắng rộng vành, chiếc mũ đã cũ ngả màu cháo lòng. Hắn không có đồ đạc gì cả ngoài một chiếc hộp sắt tây đựng bánh bích quy đã cũ, sơn đỏ trên có vẽ hình một cô gái mặc váy đang múa balê. Hắn cắp chiếc hộp ở nách như ông thầy bói vẫn cắp tráp sơn. Không hề ai biết hắn là một thi sĩ. Hắn đứng tần ngần một lát ở giữa ngã ba như để nhận đường rồi đi la cà dọc dãy phố chợ. Hắn hỏi một ông đứng trước cửa tiệm thuốc bắc. Thưa ông, đây có phải là bến đò Vân không? ông này trả lời Vâng bến đò Vân. Hắn cám ơn ông ta rồi quay đi. Chừng như không yên tâm, hắn lại hỏi bà bán trầu cau ngồi cách đấy một đoạn: Thưa bà, đây có phải bến đò Vân không? Bà này trả lời: Vâng, bến đò Vân.

173

Hắn cám ơn rồi quay đi, hắn gật gật đầu, cời tủm tỉm. Hắn rẽ vào một quán ăn ven đường. Giờ này quán ăn vắng khách, chẳng có ma nào. Bà chủ quán đang ngồi ngủ gà ngủ gật ở trên một chiếc ghế gỗ đặt nơi góc nhà. Hắn đằng hắng. Bà chủ quán giật mình tỉnh dậy, tươi cười chạy ra đón khách. Hắn hỏi lại câu hỏi cũ: Thưa bà, đây có phải bến đò Vân không? Vâng bến đò Vân. Bà cho tôi mượn một cút rượu, lạc rang, thuốc lào, một tờ giấy trắng, một chiếc bút chì. Hắn ngồi ở chiếc bàn cạnh cửa sổ. Hắn để chiếc hộp sắt tây đựng bánh bích quy trước mặt. Thưa ông, rượu của ông đây! Lạc rang, thuốc lào...giấy với bút chì thì cháu không có... Bà chủ quán rụt rè mang các thứ bày lên mặt bàn. Thế nhà ta không có ai đi học cả à? Thưa ông, chẳng cứ nhà cháu...ở đây toàn người thất học. Người ta chỉ có biết mỗi tiền thôi! Hắn cười như mếu. ở đây đều thất học. Người ta chỉ biết mỗi có tiền thôi. Không hề ai biết hắn là một thi sĩ. Hắn nói: Bảy năm trước, tôi đã đến bến đò này. Hồi ấy quang cảnh vùng này còn thưa thớt lắm. Tôi nhớ chỗ này ngày xưa là một vườn cải.

174

Vâng vườn cải nhà Tư Sửu. Nhà Tư Sửu bán đất cho nhà cháu, nhà cháu mở quán bán hàng đuợc ba năm nay. Bà chủ quán đi. Hắn thở dài. Hắn đã nếm trải bao nhiêu thay đổi trên đời. Hắn rót rượu. Hắn lấy ngón tay chấm vào ly rượu rồi hắn viết lên mặt bàn mấy chữ nắn nót. Ngón tay hắn run run. Hắn viết: "Chén ứa men lành, lạnh ngón tay" 1 Không hề ai biết hắn là một thi sĩ. Vừa lúc ấy có mấy chiếc xe tay dừng trước cửa quán. Trên xe bước xuống là ba mẹ con nhà kia. Bà mẹ trạc 50 tuổi, rõ ràng là bậc mệnh phụ phu nhân. Hai đứa con đi theo mẹ là cô con gái 18 tuổi mặc áo dài trắng và cậu con trai 14 tuổi mặc quần soóc, áo cộc tay. Người lão bộc lặc lè xách vào hai chiếc va-ly. Phu nhân nói: Qua đò là về đến nhà. Mấy mẹ con ta vào đây nghỉ đã. Họ vào quán. Phu nhân có vẻ thông thạo phong thổ vùng này vì đây là quê hương bà. Bà chủ quán chạy ra vồn vã: Con lạy chào bà tham... con chào cô, con chào cậu... Phu nhân tươi cời: Chúng tôi chào thím... cho chúng tôi ngồi chờ một lát, đợi lát nữa có người ra đón... thế vợ chồng thím dạo này có khoẻ hay không? Làm ăn thế nào? Thưa bà... vợ chồng con vẫn khoẻ, còn làm ăn thì kém lắm! Bà với hai cô cậu có dùng gì không để chúng con hầu?

175

Không... không dùng gì... thím mang cho lão bộc đây một cốc chè xanh là được rồi. Ba mẹ con ngồi trên chiếc ghế dài kê ở sát tường. Người lão bộc ngồi ở bậc cửa. Họ ríu rít nói truyện đi đường, chuyện về những chiếc xe tay và người kéo xe. Cậu con trai nói một câu tiếng pháp: Que diable est-ce que tout cela? 2 Đấy là cậu muốn ám chỉ chiếc hộp bánh bích quy của người khách lạ ngồi bên cửa sổ. Không hề ai biết hắn là một thi sĩ. Hắn mở chiếc hộp bánh bích quy và lấy trong đó ra những cánh bướm đã ép khô lần lợt xếp lên bàn thành chữ "L". - Ai đấy ? Phu nhân khẽ hỏi bà chủ quán. - Dạ con không biết. Cậu con trai không cưỡng nổi tò mò, thốt lên: - Bướm đẹp quá... Thưa ông, ông là người sưu tập phải không? Không, tôi làm thơ! Hắn trả lời. Hắn ngẩng mặt lên. Phu nhân sợ sệt vì hắn chẳng nhìn ai cả, chẳng có ai đáng nhìn, hắn chỉ nhìn chằm chằm có mỗi cô con gái bà. Cô gái tán thưởng: - Làm thơ ? Phu nhân lo ngại, đưa tay kéo hai đứa con sát lại gần mình.

176

- Thưa ông, nghề nghiệp của ông thật nguy hiểm - người lão bột rụt rè nói. Hắn mỉm cười. Hắn cười vì nhận ra ở mép cô gái có một nốt ruồi chứ không phải vì câu nói của người lão bộc. - Sao lại nói thế? - phu nhân nhẹ nhàng quở trách. Thưa bà, con nghe quan chánh cẩm nói với ông nhà là hễ mà loạn là bắt ngay những người làm thơ trước đã. Phu nhân lặng im. Cảm thấy không ổn, bà hỏi dè dặt: Thưa ông, nghề nghiệp của ông có dễ dàng không? Hắn không trả lời. Hắn lại huyển những cánh bớm từ chữ "L" sang chữ "N". Phu nhân hỏi tiếp: Thưa ông, tôi muốn hỏi ông kiếm sống có dễ dãi không? Hắn nói: Không, tôi làm thơ! Cậu con trai cảm thấy thú vị về người khách lạ. Cậu hỏi: Thưa ông, làm thơ có khó hay không? Khó với người không có tài!- hắn nói mà không ngẩng đầu lên. Hắn lại chuyển những cánh bớm từ chữ "N" sang hình trái tim. Cô gái đáo để: Thưa ông, người ta nói "chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài" là thế nào ạ? Hắn nhìn cô gái và cô đỏ bừng mặt vì xấu hổ. Cô chợt nhận ra câu hỏi của cô thật sự quá thể vô nghĩa. Nó là thói quen a dua với thói đời chứ đâu phải câu hỏi mà cô muốn nói, không phải câu hỏi từ đáy lòng cô. Cô xúc động

177

vì nỗi u hoài tê tái trong đáy mắt hắn. ánh mắt của hắn như muốn nói rằng: Này cô gái, cô trẻ trung trong trắng thế kia mà sao cô lại đi hỏi một câu rắc rối, rỗng tuếch của người lớn như thế làm gì? Đấy là câu hỏi của một cành cây khô héo chứ đâu phải của một bông hoa? Xin lỗi ông - cô gái bối rối nói - tôi không muốn hỏi thế! tôi muốn xin ông một câu thơ được không ? Hắn bảo: Được! Hắn nhỏm người lên. Phong độ cử chỉ của hắn bỗng nhiên hào phóng như một ông hoàng cho tiền bố thí. Tuy vậy, hắn không có giấy bút nên hắn lúng túng. Cậu con trai tinh ý vội mang lại mấy tờ giấy và chiếc bút máy. Hắn gật đầu, hắn nói: Để tặng tiểu th... tiểu thư tên là Nhi phải không? Cô gái giật mình: Chết! sao ông lại biết tên tôi...? Hắn không trả lời, hắn cời tủm tỉm. Hắn viết: "Những một mình em uống rượu hồng..." Cậu con trai tán thưởng: Tuyệt vời! thơ hay quá! tôi cũng muốn xin ông một câu thơ được không? Hắn mỉm cời vui vẻ. Hắn viết lên một tờ giấy khác: "Sòng đời thua nhẵn cả thơ ngây"

178

Cậu con trai sung sướng cầm cả hai tờ giấy giơ lên như giơ hai bông hoa, như hai báu vật. Vẻ hân hoan của cậu làm bà mẹ vốn bản tính dè dặt cũng phải mỉm cười Cô gái trở nên bạo dạn: -Thưa ông, sao ông lại nói "những một mình em"? còn " rượu hồng" có nghĩa là cuộc đời có phải không? Hắn cắn môi lại. Người con gái này chưa biết thế nào là nỗi cô đơn. Năm nay nàng 18 tuổi. Phải 18 năm nữa nàng mới biết "những một mình em" là thế nào. Cậu con trai thốt ra một câu tiếng pháp: I Inest de bonheur que dans les voies communes 3. Thưa ông, có phải câu thơ của ông nhắc tôi như thế phải không? Hắn không nói năng gì. Thưa ông- bà mẹ hỏi- tôi hỏi khí không phải, ông chắc không phải là người ở đây... Thế ông ở nơi xa xôi đến nơi này làm gì ? Hắn nói: Tôi đi đưa dâu. Thưa ông, vậy ông có ngời quen ở vùng này à ? Không. Thưa ông, vậy ông đi đưa dâu ai ? Một người con gái. Tôi đã hẹn với cô ta từ bảy năm trước... ngày này, giờ này... lát nữa đám cưới cô ta sẽ đi qua đây... Cậu con trai ngạc nhiên kêu lên: ồ...ồ thật lạ lùng !

179

Cô con gái thì thào vào tai cậu con trai: entre nous... 4 lãng mạn quá chừng... bấy giờ có mấy người lái đò từ dưới bến sông đi lên có vẻ như muốn tìm ai. Một người đứng ở cửa quán nói vọng vào: Thưa các bác, thưa các già... ở đây có vị nào tên là Hồ Điệp, hay Trang Sinh, hay Điệp Lang không ? Hắn nói: Có đấy ! Bác lái đò mừng rỡ: Thưa ông, có phải ông nhắn người thuê chín chiếc đò ngang để chở đám cưới hay không? Hắn bảo Phải. Bác lái đò nói: Thưa ông, chúng tôi đã tề tựu cả dưới bến rồi. Hắn bảo: Được, cứ chờ! Mấy người lái đò kéo nhau xuống bến. Phu nhân và hai người con sửng sốt. Vẻ phấn khích làm cho má cô gái và cậu con trai đỏ ửng như có than hồng. Phu nhân hỏi: Thưa ông, tôi lại hỏi khí không phải nữa, thế cái người con gái mà ông hẹn bảy năm trước hình dạng thế nào. Chẳng là tôi người ở vùng này, nói đến ai là tôi biết liền... Hắn đăm chiêu cau có: Trắng trẻo, môi đỏ, khô chân gân mặt, trông dáng vẻ như người đĩ thoã. Có cái nốt ruồi ở chỗ này, chỗ này...

180

Hắn chỉ đâu đó lên ngời cô con gái làm cô đỏ bừng cả mặt. Phu nhân băn khoăn. Hay nhà Dung? hay nhà Oanh? Bà chủ quán nói: Thôi chết... đúng cô Oanh rồi... Thưa ông, có phải ngày xưa cô ấy chít khăn mỏ quạ, mặc quần nái đen phải không? Hắn bảo: Phải. Có phải ông bảo người ta chân quê hay không? Hắn bảo: Phải. Bà chủ quán khóc oà lên: Ông ơi, nó chết ba, bốn năm rồi, còn đâu mà đón đưa dâu... hồi ở tỉnh về là nó chết liền... Nó tự vẫn... Nó đắm đò... Câu thơ ông viết cho nó, nó xé ở vạt áo ra để lại đây này... Bà chủ quán lôi trên bàn thờ xuống chiếc ống quản, chiếc ống sơn đã cũ vẫn dùng để cất gia phả hay văn tự mua bán. bà ta lôi ra một miếng vải lụa nhỏ bằng bàn tay. Thưa ông, có phải là chữ của ông đây không? Cô gái và cậu con trai xúm lại. Hắn thở dài nói: Đúng! Cậu con trai đọc:

181

"Tuổi son má đỏ môi hồng Bước chân về đến nhà chồng là thôi". Tất cả mọi người lặng đi. Tiếng kể của bà chủ quán xen lẫn với tiếng nức nở: Năm nó chết, nó 25 tuổi... nó tuổi quý sửu... tuổi con trâu... ba ngày sau người ta mới mò được xác của nó ở dưới chợ xuôi... Hắn bước ra ngoài. Mọi người tránh đường cho hắn đi ra. Bóng chiều xuống dần. Sẽ không có đám cưới nào qua bến đò Vân hôm ấy. Mấy người lái đò khi nãy trở lại quán ăn: Cái vị tên là Hồ Điệp, hay Trang Sinh hay Điệp Lang còn ở đây không? Sao có đám cưới mà chờ đến tối cũng không có nhỉ? Vậy ai trả tiền đò cho chúng tôi đây? Tôi xin trả!- phu nhân nói. Bà quay ra bảo người lão bộc lấy thuyền rồi mang valy xuống bến. Cô gái và cậu con trai chạy ra ngoài đê. Họ thoáng thấy có người vừa phất tay áo chấm một nét lẻ loi nghiêng lệch góc trời. Vừa chớp mắt lại đã chẳng thấy bóng người ấy ở đâu nữa. Vừa chớp mắt đã lại thấy chỗ ấy có một cánh hạc vừa bay lên trời. Hạc vừa bay vừa kêu thảng thốt. Về sau này, cậu con trai khi ấy đã thành một giáo sư văn học đã viết như sau trong một ghi chép của mình: "Với một quãng thời gian không dài lắm ở ta trong thế kỷ XX phiền muộn và tàn nhẫn này may có dăm ba thi sĩ tài năng gắng gỏi xây nên một lâu đài văn học nhì nhằng bằng những câu thơ tuyệt vời in dấu sâu đậm trong tâm hồn ngời Việt vốn chẳng lấy gì làm đặc sắc, nhiều phần

182

ngơ ngẩn hẹp hòi. Thi sĩ là người thế nào ? Tiếc thay, một số ít lại là những vị thánh bị bôi bẩn trong đám đông phàm phu tục tử mạnh mẽ lịch sự, nhiều tri thức và đầy kiêu hãnh. Chúng ta phải bán tín bán nghi về những cuộc đời bê bối, vớ vẩn và thê thảm của đôi người nhưng những cái gì thiếu mập mờ và khẳng định được đâu có phải thơ? Je ne peux plus vous faire d autres cadeaux que ceux de cette lumiere sombre...5"

-------------------------------Tất cả những câu thơ trong truyện này đều là 1 mượn của Nguyễn Bính. 2 Cái gì kỳ cục thế này ? Chỉ trên những con đường tầm thường mới tìm 3 được hạnh phúc. 4 Nói nhỏ với nhau. Tôi chẳng thể hiến tặng gì ngoài ánh hào quang 5 tăm tối ấy...(Louis aragon)

183

KHÔNG KHÓC Ở CALIFORNIA Anh cố hình dung ra cuộc sống của cô ở đấy. Thành phố. Những dãy nhà. Đường phố xe đi như mắc cửi. Trời xanh. Một cụm mây biếc mắc lại trên cây cối. Chiếc cầu treo nổi tiếng thế giới. "Tự tử trên cầu này - cô nói - vèo một cái, bảo đảm chết 100%". Anh cười, lòng nhói lên cảm giác xót xa. Con người ở đâu cũng phải giáp mặt với cái chết. Em lúc nào cũng chờ đợi anh. Tình yêu là chờ đợi bứt rứt, hồi hộp, say mê. Khi gặp anh...anh à, anh ơi...là em đã chờ đợi, trong sự lười biếng, khoái trá và hạnh phúc. Anh không hiểu gì cả... anh à, anh ơi...anh là thằng ngốc 100%. Thôi được! Anh là thằng ngốc. Chắc chắn anh là thằng ngốc 100%. Anh không biết khi cô gặp anh là ở đằng sau cô đã có một thời gian đằng đẵng, lẫn lộn ở đấy bao đau đớn vui buồn, bao chuyện sinh tử. Ở đấy, người ta không nói thứ tiếng Việt Nam man di, mọi rợ của cô. Cô nói tiếng Anh. Chỉ khi nào thất bại, chỉ khi nào một mình, khi nào nhục nhã ê chề lắm cô mới bật ra tiếng nói mẹ đẻ của cô. Ồ - dĩ nhiên, đấy là một tiếng chửi thề, một câu tục tĩu. Anh không hiểu gì cả. Anh là thằng ngốc 100%. Anh đâu biết cô đã từng bị sốt rất dữ, đã nôn mửa, run rẩy, thậm chí ngất đi. Cô đã tái mặt vì sợ hãi... Day dứt, dĩ nhiên rồi. Cười như mọi người. Khóc như mọi người. Đọc sách như họ. Lái xe như họ. ứng xử với luật pháp. Với cảnh sát. Với đạo đức. Với khoai tây. Với cá thu và cá hồi. Với đồ lót. Niềm ham muốn lớn lao và đẹp đẽ... anh à, anh ơi... cả hy vọng sâu xa muốn thấy anh. Giọt nước mắt tràn ngập bờ mi... Anh không hiểu gì cả. Buổi chiều đó, em rón rén đi

184

trong nỗi xúc động khôn tả trong lòng để đến với anh, giống như người làm xiếc đi trên dây thừng... anh à, anh ơi... một con chim nhỏ vụt qua, làm cho nghẹn lời, thót tim lại, sởn da gà... Anh là thằng ngốc. Đúng rồi. Anh là thằng ngốc 100%. Anh khác chi một kẻ phàm phu tục tử. Anh nói vớ vẩn gì đó về thời tiết, về cơm niêu, về bệnh đậu mùa, về chó dại, về sổ hóa đơn, về quần đùi, về 48 thế võ "Su mô" của người Nhật Bản. Anh nghĩ gì? Anh đến nhà cô đúng lúc cô cho con ăn. Ngượng nghịu, anh do dự nhìn mũi giày dính bụi của mình trước lúc bấm chuông. Cô ra mở cửa: - Thưa ông, ông nhầm rồi. Tôi đã ở đây 24 năm... Tôi không quen ai thế cả... Chồng cô ngó đầu qua cửa sổ hầm hừ: - Một tên trộm... Không! Không phải thế. Cô ra mở cửa và nói: - Vâng! Thưa ông, ông cần gì? - Cần gì ư! Không cần gì cả! Nhưng mà em... - Xin ông thứ lỗi, thưa ông, tôi còn bận việc. - Vâng, vâng... Xin lỗi cô... Mà em... Tôi ở xa đến, một nơi rất xa, cô không hiểu xa đến thế nào đâu... như từ ký ức... Tôi nhầm, chắc chắn thế... Anh cười, mặt nhăn lại. Thế giới có hàng tỷ người. Trong ký ức nào của cô có anh? Anh à, anh ơi... Sự mập mờ, quý giá biết bao, vì nó chẳng rõ rệt gì, chẳng phải thề nguyền, đầy rẫy hy vọng... Anh không hiểu gì về những hy vọng nơi người đàn bà, nơi tha hương... Anh à, anh ơi... Khi chúng ta bị tách ra khỏi quên lãng, những ảo vọng tuyệt đối cũng sẽ giá trị như tách cà

185

phê này, như cây đèn này, như tấm áo lót ngực thơm mùi da thịt... Ồ, lại nói chuyện cà phê. Tất cả mọi thứ ở quê hương đều đậm đặc. Những cây nhãn có màu xanh đậm đặc...ớt cay hơn... Mùi mắm tôm trong hàng chả cá đậm đặc... Quai guốc gỗ bằng cao su cắt ra từ lốp ôtô xiết chặt bàn chân... Những cái xiết tay tựa như dính nhựa. Sự đậm đặc... Trực tiếp. Ráo riết. Những đòi hỏi rút gọn... Cà phê đậm đặc... Cô không uống được và phải lựa chọn trong các loại cà phê để xem thứ nào hợp vị với mình. Cà phê đen nóng, đen đá, cà phê sữa, cà phê trứng, cà phê tan... Anh mua một bịch cà phê tan. Cô uống có một gói nhỏ 20 gam, uống không hết. Khi cô đi rồi, anh đã ngồi một mình uống 23 gói nhỏ cà phê còn lại, cả thảy 460 gam, đắng ngắt trong lòng. Ồ thật là kỳ, tất cả việc dè xẻn cử chỉ, lời nói... Được gặp nhau là điều kỳ diệu nhất từ trước tới nay... Anh à, anh ơi... Điều gì khiến anh phiền muộn. Vẫn biết thừa nhận sự kiềm chế... Nhạy cảm với sự phiền muộn và tình yêu... Em chẳng biết gì... Cô đơn khôn tả... Anh không xứng đáng với cô. Tâm hồn anh đen tối. Cư xử thiếu dịu dàng, nhiều khi thô bạo. Thích thú dục vọng. Đạo đức giả. Anh đã lén ngắm nếp áo trễ tràng và thân hình mảnh dẻ của cô... Một tên trộm... Rõ ràng là một tên trộm... Chồng cô nói đúng... Nhưng khi ấy anh lại nói về Bill Clinton và Đặng Tiểu Bình. Ngay những tên tuổi lừng danh thế giới lúc này cũng vớ vẩn, nhảm nhí, chẳng ra gì. Anh không có quyền gì... Anh ngờ là cả chồng cô cũng chẳng có quyền gì cả. Tại sao hắn lại hầm hừ gọi anh là trộm trong khi chính hắn cũng trộm cướp chẳng kém gì anh? Hắn được cô 100%. Đấy là may mắn của hắn hay là tai họa?

186

Nào! Hãy kiên nhẫn! Anh biết, cô vẫn kể chuyện cổ tích cho con mình nghe. MẸ KỂ CON NGHE: Xứ ta là xứ nhiệt đới. Mưa nhiều. Nắng cũng nhiều. Lòng người hay thay đổi. Ngày ấy, ở rừng kia có cái giếng Tiên. Giếng ở nơi khuất nẻo. Những đêm trăng, hoặc vì vui vẻ, hoặc vì phiền muộn - thường thì phiền muộn nhiều hơn vui vẻ - các cô tiên thường xuống giếng tắm. Khi xuống tắm, các cô tiên thường phải trút bỏ bộ cánh để lại trên bờ. Đúng rồi, ướt cánh thì không bay được. Tựa như mơ mộng và phiêu lưu, thậm chí cả lòng cao thượng - rất sợ những định kiến vướng bận cồng kềnh. Bấy giờ, ở cõi trần có một chàng trai làm ăn chăm chỉ, sống một mình (giời ạ! ai chẳng sống một mình, từ xửa từ xưa cũng đã thế rồi). Hôm ấy, chàng trai vào rừng đốn củi. Chàng gặp một con yêu tinh. Không phải! Yêu tinh thì chàng đã gặp ngay từ niên thiếu, không phải một lần. Chàng gặp một con chó sói. Có thể lắm. Nhưng chó sói sẽ tránh được chàng vì chúng biết chàng cô đơn hơn chúng và như thế nghĩa là chàng sẽ quyết liệt hơn nhiều người. Hôm ấy, chàng trai gặp một nàng tiên xuống tắm. Nàng tiên xuống tắm ở giếng. Nàng trút bỏ bộ cánh trắng xóa để ở trên bờ. Chàng trai nhìn thấy, chàng rón rén bò lại, lấy trộm bộ cánh giấu đi. Tắm xong, nàng tiên lội lên bờ. Thấy mất cánh, nàng ngơ ngác đi tìm khắp mọi nơi. Vừa lúc ấy chàng trai từ trong chỗ nấp bước ra. Nàng liền kêu lên: - Thập thò, thập thò, không lo thì chết!

187

Chàng trai không phải là người sợ chết! Chết có gì đâu (vèo cái là xong, bảo đảm 100%. Sống mới khó! Chàng trai nhìn nàng tiên và ánh mắt chàng khiến nàng bối rối, lo lắng). - Trả cánh cho tôi! - Nàng cầu khẩn - Tôi còn một cuộc sống khác. - Không được! - Chàng trai trả lời - Thênh thang ngồi đám cỏ xanh. Bao giờ nên yến nên oanh rồi về.. Nàng tiên theo chàng trai về nhà. Chàng trai giấu kỹ bộ cánh rồi ra sửa soạn cơm nước, áo quần, chăn chiếu cho nàng. Họ đứng ở trước bàn thờ, mùi hương sực nức. Chàng trai nhìn thấy nàng tiên đúng trước ánh đèn, gò má đỏ lên thẹn thò. Họ ăn cơm trong buồng. Nàng ăn nhỏ nhẹ và nàng nhận ra khi có người yêu thương cùng ăn thì bữa cơm ngon hơn hẳn bữa cơm thường. Đêm ấy họ nằm bên nhau. Chàng trai chưa bao giờ thấy dễ chịu thế. Nàng tiên cũng nhận ra rằng khi nằm mà bỏ cánh ra thì không vướng. Họ trò chuyện. Những điều họ nói với nhau có phần ngốc nghếch: - Thế là chúng ta thỏa lòng mong ước, chàng có vui không? - Có... Nếu mãi thế này... - Ngộ nhỡ có việc gì... Nếu thiếp xa chàng, chàng có còn thương thiếp hay không? - Thương. - Thương nhiều hay thương ít? - Thương mãi mãi. - Thiếp chết rồi, liệu chàng còn thương nữa không?

188

Chàng hãm lại lời nói của nàng bằng một nụ hôn. Chàng thấy cay cay nơi sống mũi. Chàng thầm hứa sẽ làm cho nàng bất tử. Chàng không nói to ra điều ấy vì chàng không phải là người tự tin. Thấm thoắt, hai người có một đứa con. Rồi chàng phải đi xa nhà. Trước khi đi, chàng dặn: - Mẹ con ở nhà, có ăn thì ăn đụn lúa vang, rồi sang đụn lúa ré, chớ ăn đụn lúa rẹ, có tổ ong vò vẽ, đốt cả mẹ lẫn con. Thực ra, chàng trai giấu bộ cánh của nàng tiên ở đụn lúa rẹ nên nói thế thôi. Khi chàng trai đi rồi, đứa con ở nhà nghịch ngợm tìm lôi ra bộ cánh của mẹ trong đụn lúa rẹ. Nó thích thú cười. Nàng tiên mắng: - Cười sằng sặc có khi rặc cổ, cười ha hả có khi rã xương! Nhìn thấy bộ cánh của mình, nàng tiên mừng rỡ. Nàng lắp cánh vào và thấy ngường ngượng. Đã lâu không bay, nàng cảm thấy vụng về khi cất cánh. Nàng phải tập luyện rất lâu rồi mới bay được. Nàng nhớ lại nơi ở cũ của mình. Sáng hôm sau, nàng tiên dậy sớm làm rất nhiều bánh để lại cho con. Nàng nói: - Con ở nhà, hễ khi nào đói vào buồng lấy bánh mà ăn. Con đừng đòi mẹ con ơi Mẹ còn có cả bầu trời tự do Thôi con, con chớ khóc to Bao công việc cha sẽ lo liệu giùm. Nàng tiên để lại chiếc vòng tay và dặn: - Con nhớ giữ lấy cho cha. Dứt đoạn, nàng vỗ cánh bay bổng lên trời.

189

Khi chàng trai trở về nhà, không thấy nàng tiên, chỉ thấy chiếc vòng tay thì đoán ra nông nỗi: con chim trời đã bay về tổ cũ của mình. Từ đấy hai cha con côi cút, bơ vơ. Một lần, nhớ nàng tiên, chàng trai bế con trở lại giếng Tiên. Rất may, họ gặp một bà già trên trời xách thùng xuống giếng múc nước. Chàng vội cầu khấn: - Hỡi bà tiên! Bà hãy thương tôi. Hãy giúp cho tôi gặp được vợ tôi. Chàng trai kể chuyện cho bà tiên nghe. Chàng lấy ra chiếc vòng tay làm tin. Bà tiên bảo: - Ta biết rồi. Nàng tiên ấy nay ở trên trời. Nàng cũng nhớ chồng con da diết. Ta sẽ mang chiếc vòng tay này về báo cho nàng. Hai cha con chờ đến hôm sau thì thấy có hai người từ trên trời xuống. Họ mang theo các thứ dây túi để đưa hai cha con lên trời. Họ dặn phải nhắm mắt lại và giữ im lặng. Đến giữa canh khuya, cả bọn bước vào cõi trời. Nàng tiên ra đón, mừng mừng, tủi tủi.. Hai cha con ở lại hai ngày. Lệnh của Ngọc Hoàng không cho người trần ở lại. Nàng tiên thương chồng, thương con vô hạn nhưng cũng đành phải chia tay. Hôm sau, nàng tiên gạt nước mắt trao cho hai cha con một cái trống, một mo cơm. Nàng dặn: "Hễ chân chạm đất thì cứ đánh ba tiếng trống để trên này biết mà cắt dây thừng". Hai cha con xuống được nửa đường thì đã quá trưa. Thấy thằng bé đói, chàng trai dừng lại giở mo cơm đặt lên mặt trống. Đứa con bốc cơm ăn làm vãi cơm trên mặt trống. Bấy giờ có một đàn quạ bay qua bèn sà xuống mổ lấy mổ để những hạt cơm rơi trên mặt trống. Trên trời, nghe thấy tiếng trống, nàng tiên lại tưởng hai cha con đã xuống đến

190

nơi, bèn cứ thế cắt dây thừng. Dây đứt, hai cha con rơi xuống đất chết tươi. Đàn quạ sợ hãi bay vọt lên trời kêu la ầm ĩ. Sự việc không ngờ xảy ra đớn đau như vậy. Sau này, Ngọc Hoàng cho đón chàng trai lên trời. Chàng trai được làm công việc chăn trâu, gọi là Ngưu Lang, hay Ngâu Lang. Nàng tiên gọi là Chức Nữ. Mỗi năm, Ngọc Hoàng cho hai người gặp nhau một ngày vào ngày mồng Bảy tháng Bảy. Đàn quạ có lỗi hôm ấy phải bắc cầu cho hai người gặp gỡ gọi là chiếc cầu ô thước. Từ đấy, cứ đến ngày mồng Bảy tháng Bảy, trời thường có mưa, người ta gọi là mưa Ngâu. Đồn rằng đó là những giọt nước mắt của hai người. Họ gặp nhau rồi lại ly biệt chờ đến năm sau. °°° Cô nói: - Ngưu Lang, Chức Nữ gặp nhau còn có định kỳ. Còn em chẳng có định kỳ nào cả. Cô thở dài. Tiếng thở dài não nuột làm anh tê tái. Tình yêu là gặp gỡ, là chia tay. Vẫn biết thế mà sao đau lòng vậy? Tình yêu đối với quê hương... Anh à...anh ơi... là thứ tình cảm lạ lùng, không biết diễn đạt thế nào. Thoáng xót xa, trìu mến. Cả căm giận, tự hào: cả khinh bỉ, vui buồn... Tất cả một núi cảm xúc, một bể cảm xúc trào dâng... bóp nghẹt tim, làm run rẩy... muốn làm khuỵu ngã ngay khi ở trên máy bay bước xuống... Anh im lặng. Anh cảm động nhìn cô hít thở rất sâu không khí ở trên cánh đồng. Cô kêu to khi nhận ra mùi đất ải nồng nàn và mùi rơm rạ ẩm ướt - Anh...

191

Cô đưa tay níu lấy vai anh. Anh hoảng hốt. Anh nhận ra một tia ánh sáng tựa như lửa than nơi khóe mắt cô. Anh sợ. Anh sợ đến toát mồ hôi. Anh nói lắp bắp và nhảm nhí: Tôi... tôi không đại diện cho ai... Không phải đất nước... Không phải quê hương... Không phải chính quyền... Cô cười. Anh hiểu ra nụ cười ấy: bây giờ dù anh có bướu cổ, có sâu răng, có bợm bãi, lạm phát, rượu chè, suy thoái, buôn heroin hay chậm phát triển... cô đều tha thứ cho anh. Anh có tởm lợm cũng không sao hết. Miễn là... Được rồi. Anh đỏ mặt nói. - Tôi sẽ không như thế nữa. - Anh hứa chứ? - Không trộm cướp và tham nhũng thì khó - Anh cau có nói - Thôi được, sẽ không còn đê tiện và lêu lổng nữa. Họ cười phá lên làm những con chim sẻ bay vụt lên trời. Anh ngồi đây. Bây giờ anh đang ngồi đây một mình. Anh thấy bơ vơ quá. Bây giờ thì cô đã ở cách xa anh nửa vòng trái đất. Xa quá. Xa lắc xa lơ... Anh nhắm mắt lại. Anh nghĩ đến cô. Cô có thân hình mảnh dẻ. Mắt đen láy, thoáng vẻ mệt mỏi. Cử chỉ bẽn lẽn. Sự dịu dâng và mùi hương xa xăm. Cô mặc chiếc váy liền áo may bằng vải lụa tơ tằm, khoác thêm chiếc áo jắc két bên ngoài. Cô thích nói chuyện và cười nhưng vẫn giữ gìn sự mập mờ của tình bạn và hiện thực. Anh bị những hiểu biết văn hóa và những cử chỉ của cô quyến rũ. Cả tiếng thở dốc sau những câu nói dài rất đặc biệt lạ lùng chỉ cô mới có. Chưa bao giờ trong anh có một cảm giác rõ rệt đến thế: chắc chắn sẽ có sự mất mát tức khắc khi thổ lộ những lời si mê điên cuồng. Yêu mà không hiến thân, hiến thân mà không sa sút và tàn tạ, điều ấy có thể được chăng? Còn gì nữa.

192

Cả hai đều sợ hãi, đều ghê tởm nếu sự tầm thường xám xịt thường nhật xúc phạm. Một sự gặp gỡ mà không biến chất, không rạn nứt. Anh lo lắng nhìn cô: những đau đớn, sự nhạy cảm về mất mát và nhiều điều khác không biết gọi tên là gì làm cô trở nên rất khó an ủi. Anh thấy đắng ngắt trong lòng và cảm thương đến ứa nước mắt. Trưóc mắt anh là người đàn bà khó an ủi nhất hành tinh. Cô sẽ khóc. Sẽ khóc mất. Sẽ khóc về cảnh tha hương ở nơi đất khách quê người... Sẽ khóc về Anh ngữ và Việt ngữ... Sẽ khóc vì những lo toan trong cảnh gia đình... Sẽ khóc vì chồng con, bạn bè... Sẽ khóc vì những phù du, bội phản... Sẽ khóc cho kiếp làm người... - Mạnh mẽ lên - Anh nói - Không khóc ở California. Không khóc ở California. Không khóc. Không khóc ở Louisiana. Không khóc ở quận 13 Paris. Không khóc Không khóc ở Beclin, ở Sydney, ở Tokyo Những người Việt không khóc ở California Em không khóc Em không khóc ở California Em không khóc Kìa mưa rơi, mưa rơi và lá bay Em lái xe đi Con đường hun hút và mưa bay bay Kính xe mở Ai huýt sáo một bài hát bên đường Nhớ anh, nhớ quê hương Em không khóc Em không khóc ở California Em không khóc Ở chốn xa xăm cuối nơi chân trời

193

Nơi mẹ sinh ra gọi là quê hương Em gọi tên là nhớ thương Người ta gọi là cội nguồn Sao em lẩm cẩm như một bà già Em sẽ không khóc Không khóc ở California Anh ạ, Em lớn lên rồi, không còn thẹn thùng Em mặc một chiếc áo rộng Em sẽ mua hoa Xếp đặt đồ vật trong nhà Em yêu mọi người Mọi người không khóc Không khóc ở California Anh ạ, hôm nay tiệm cà phê vui hơn Có ai gật đầu chào em. Có phải anh gật đầu chào em rồi mỉm cười Em đưa tay ra Biết rằng anh vừa nắm tay em... Em thấy hơi ấm Em thấy ổn rồi, rất ổn... Em lớn lên rồi, không còn thẹn thùng Em soi trong gương Giữ gìn nhan sắc, giữ gìn thói quen Có người vừa đi xa về, Mang cho em một chút gió, một chút nắng Em sưởi mình trong kỷ niệm Và cười trong mơ. Anh hôn vào nụ cười ấy... Nụ cười xa xăm Em lớn lên rồi, không còn thẹn thùng Em ra siêu thị Em xuống trung tâm Em mua một gói kẹo nhỏ

194

Và liếm chiếc kẹo như liếm vết thương Anh tan biến trong miệng em Em cười một mình. Và soi trong gương Không khóc Không khóc ở California Cho dù cách xa... Anh biết rằng anh sẽ không an ủi được gì. Không ai an ủi được ai. Anh biết. Anh biết chắc chắn thế mà! Vì sao ư? Vì chính anh cũng là người cần an ủi. Hôm qua ơi, em đi rồi Hôm nay ơi, ta nhớ người Một làn mây xanh trôi qua đời anh Thương thì thương Chốn tha hương Muôn dặm trường Em ghé lại Nụ cười vấn vương Em đi rồi Như trong màn sương Tái tê vô chừng Tái tê không cùng... Anh à...Anh ơi...Hôm qua ở đây có tuyết rơi. Nhưng hôm nay thì nắng. Náng ấm. Có lẽ California là nơi đẹp nhất trên đời... Anh đi...Anh nhớ cô. Cô có những tật xấu nhưng anh không để ý đến điều ấy. Cô luôn nhắc anh phải nhớ đến cô. - Em. - Anh nói - Những bất hạnh trong số phận em cũng là những bất hạnh trong số phận anh. Có hiểu không? Em có hiểu không? Em có hiểu được như thế không?

195

Kìa có ngọn gió bay qua...Và nắng ấm. Rồi em lại về... Phải không em?

196

TRUYỆN TÌNH KỂ TRONG ĐÊM MƯA Hồi ở Tây Bắc, tôi có quen một người Thái tên là Bạc Kỳ Sinh. Tôi quen Bạc Kỳ Sinh trong dịp tình cờ. Sự việc như sau: Hôm ấy, tôi đi chợ Mường La. Chợ Mường La họp ngay bên đường phố núi. Chợ khá sầm uất, vàng giả thật lẫn lộn. Các cô gái Thái, gái Xá ngồi bán đào, mận, mắccoọc...hái ra từ trong núi. Những sạp vải hoa, phích nước, xoong nồi...buôn từ Trung Quốc sang bày bán la liệt. Những người đàn ông, đàn bà H mông dắt ngựa, gùi những gùi,a. nhân, đẳng sâm, ba kích...gùi cả nhừng gùi nếp tan là thứ gạo nếp đặc sản có một không hai của họ, mầu hồng hồng như nhuộni phẩm, rất thơm và dính. Chợ Mường La họp từ sáng sớm, khi sương mù đang còn dày đặc, người đi chợ như đi trong mơ, cách một sải tay chẳng nhìn thấy gì. Sương mù ở rùng núi cao khác với sương mù ở vùng đồng bằng: nó dày dặc, nó như màn sữa loãng, mênh mông bí ẩn, không hoang tưởng, không làm hại ai, nó là khí núi tan ra rồi tụ lại; nó không phải hơi nước, hơi bụi và mưa nhỏ mà ta vẫn gọi là sương ở dưới đồng bằng. Khoảng gần trưa, khi sương tan đấy là khi chợ náo nhiệt nhất. Người H’mông xúm xít quanh nồi thắng cố, uống rượu, thổi khèn bè. Người Thái, người Xá cũng uống rượu, thổi khèn bè. Người La Hụ thổi khèn lá. Các cô gái Thái, gái Xá, gái Dao đứng tụm lại hát đối, hát ghẹo, hát giao duyên với các chàng trai. Có vài người nổi hứng bắn lên trời mấy loạt súng kíp, đám đông xung quanh chạy dạt ra như ong vỡ tổ.

197

Tôi đi chợ cũng chẳng định mua bán gì. Cũng có nhiều người đi chợ như tôi. Chợ miền núi là nơi gặp gỡ, giao tiếp, là lễ hội nhỏ, là nơi đi chơi, nơi người ta thoát ra khỏi nếp sống thường tẻ nhạt. Tôi đi dọc phố chợ, đi hết chợ rồi ngược trở lại. ở giữa chợ có một ông già người Hoa đang ngồi xem bói. Trước mặt ông già có một cái đa đựng ba viên súc sắc. Người xem bói đặt tiền rồi cho ba viên súc sắc vào một quả bầu khô lắc mạnh, sau đó đổ ra đa gọi là "gieo quẻ". ông già căn cứ vào tổng số điểm trên ba viên súc sắc để nói về định mệnh của họ. Người ta xuýt xoa, trầm trồ, sợ hãi. Tất cả đều thành thực, tin tưởng. Có cái gì vừa như huyền bí, vừa như đe dọa, lại vừa như lường gạt trắng trợn lơ lửng đâu đây ở trên đầu đám đông. Tôi thấy vui vui, thấy hồi hộp lạ lùng và cũng định xen vào để thử vận hạn. Ngay khi ấy có người níu lấy tay tôi. Tôi quay lại, thấy một gã người Thái mặc quần áo chàm, đội mũ nồi, khuôn mặt thật thà, nói tiếng Kinh rất sõi lắc đầu: - Đừng có tin Lừa dối đấy! Mời ông xem cái này! Gã giơ ra trước mặt tôi một vật đen đen ám khói bếp, bẩn và hôi không tưởng tượng được, trông giống như một cái mề gà sấy khô: Đây là mật gấu 100%. Tôi bắn được con gấu này ở trong Xốp Cộp. Nặng 137 cân. Tôi để cho ông giá rẻ... Tôi cười lắc đầu. Tôi đã biết người ta làm giả mật gấu bằng mật lợn như thế nào. Tôi còn biết người ta đã dùng xilanh để rút mật gấu thật ra rồi bơm vào đầy nước lã ra sao. Gã người Thái nài nỉ vài câu, cuối cùng tỏ ra thất vọng. Gã giơ hai tay lên trời, phàn nàn vài câu bằng tiếng Thái rồi bỏ đi Tôi quay lại chỗ cũ, nhận ra chiếc đồng hồ đeo tay đã biến mất từ lúc nào. Tôi vừa tức giận vừa bực mình. Đấy là vì khi ấy tôi còn trẻ tuổi! Cảm giác bị kẻ khác lường gạt, bị lỡm, bị hố, bị xỏ mũi chỉ vì mình cả tin thật

198

thà khiến tôi mất cả bình tĩnh. Với một giáo viên quèn, chiếc đồng hồ đeo tay khi ấy với tôi là một gia tài, một của quý, một sĩ diện, dù chiếc đồng hồ ấy luôn chạy sai giờ. Tôi đi xuyên qua chợ, tìm gã bán mật gấu, tôi định sẽ cho hắn bài học đích đáng. Bỗng tôi thấy một cô gái Thái dắt một con ngựa tiến lại phía tôi. Cô gái Thái trẻ trung, xinh đẹp, đôi mắt nông, hoang vắng và tinh khôn có phầ n dạn dĩ. Đi sau cô gái có hai ông già tay ôm hai con gà chọi. Cô gái chào tôi: - Hầy à...Thưa ông, em muốn nhờ ông giữ hộ con ngựa một lát được không? Tôi lúng túng, không biết trả lời ra sao thì cô gái đã giúi cương ngựa vào trong tay tôi. Cô gái nói: ông đứng ở vệ đường này. Chỉ một lát thôi là em quay lại... Cô gái cười, nụ cười rất nhiều hứa hẹn rồi chạy bỏ đi. Hai ông già đi theo cô gái ngồi thụp ngay xuống lòng đường rồi thả gà ra. Lập tức, hai con gà xông vào đánh nhau túi bụi. Đám đông bu lại thành một vòng tròn, lộn xộn, điên cuồng, phấn khích không tưởng tượng được. Có tiếng la hét dẹp đường rồi một chiếc xe "com măng ca" đi tới. Trên xe có mấy cảnh sát chở một người tù bị khóa tay bằng còng số 8. Chiếc xe phải dừng lại vì bị đám chọi gà cản đường. Mấy cảnh sát vừa bước xuống xe thì đám đông ồn cả lên, bao vây quanh họ, bụi cát mù mịt tung trời. Một tổ ong vàng không biết ở đâu xuất hiện, vỡ tung ngay trên đầu đám đông. Người ta hò nha u chạy, ngã dúi ngã dụi vào nhau. Tôi chưa kịp định thần thì thấy cô gái Thái lúc này xuất hiện giằng lấy tay cương. Người tù trên xe nhảy ào lên lưng con ngựa. Tôi chỉ thoáng thấy anh ta để tóc dài, mặc bộ quần áo chàm xanh. Cô gái Thái nhảy

199

lên theo và họ lập tức phi ngựa băng qua các mẹt hàng, sạp hàng chạy về phía đường rừng Tạ Bú, tả ngạn sông Đà. Tôi bị bắt gia m vào đồn canh sát. Người ta coi tôi là can phạm trong vụ cướp tù, cuối cùng không đủ chứng cớ quy tội nên chuyển tôi làm nhân chứng. Tôi phải ký tên vào một tờ khai chữ nghĩa hết sức rắc rối mập mờ. Tôi được biết người tù kia là một tên thổ phỉ, một kẻ sống ngoài vòng cương tỏa xã hội. Hắn tên là Bạc Kỳ Sinh. °°° Trường học miền núi nơl tôi ở nằm trên một qủa đồi trọc gọi là đồi Thông mặc dầu trên ấy chẳ ng có một ngọn thông nào. Trên một vạt đất bằng phăng người ta dựng lên ba dãy lớp học làm bằng gianh tre nứa lá có phần nào giống một trại nuôi bò. Khu nhà giáo viên gần kề ngay đó lợp ngói, vách trát "toocsi " nhưng khi mưa xuống dột còn nhiều hơn cả mái nhà lợp gianh. Vốn thích độc lập, tôi tự mình dựng một ngôi nhà nhỏ cách biệt hẳn ra, có hàng rào bao quanh cẩn thận. ở riêng một chỗ, tôi có cái thú của kẻ tự do, nghĩa là tha hồ buông xuôi ở trong cảm giác cô đơn mà không để người khác nhòm thấy, không làm lụy ai cả. ở ta, tự cô đơn là cách rẻ rúng nhất, vô hại nhất để tạo ra ảo giác về tự do, một điều xét cho cùng cũng chẳng ra gì nhưng thiết yếu để rèn luyện nhân cách cho tuổi trẻ vốn lắm mê say và dễ sa ngã. Mùa hè năm ấy, tôi phải ở lại trông nom, bảo vệ trường học. Mưa lũ kéo dài từ đầu tháng 7 đến giữa tháng 9 khiến nơi tôi ở không khác gì một ốc đảo. Số gạo dự trữ sắp hết. Tôi rất buồn rầu và thương thân mình. Tôi có thể ốm rồi chết ở nơi khỉ ho cò gáy này vô ích. Tôi đã thấy mộ những giáo viên vô danh chết như thế ở Mường Hum và Chiềng Cọ, cả ở trong bản Chi cuối đường 19 nữa. Suy đi tính lại, tôi quyết dịnh vượt qua thung lũng Chiềng Sạ vào

200

bản Pò Mật tìm người giúp đỡ. Tôi mặc áo mưa, mang theo khẩu súng săn đã han rỉ và bị hóc đạn bên mình, mang đi theo để cho oai chứ thực ra chẳng có tác dụng gì cả. Tôi tìm đường đi xuống thung lũng. Loay hoay hết buổi, tôi không làm sao vượt qua được thung lũng ngập đầy nước. Tôi không dám liều mạng bởi tôi không thuộc địa hình địa vật ở đây, nếu bị nước cuốn vào một khe hẻm coi như toi mạng. Tuyệt vọng, tới gần tối tôi quay về nhà, ngạc nhiên thấy ở trong nhà mình có sáng ánh đèn. Trong nhà tôi, ở giữa nhà có một đống lửa mới được nhen lên. Một người đàn ông Thái đang ngồi thản nhiên nướng thịt gà rừng. Thấy tôi, y chẳng buồn nhìn mặt mà chỉ liếc xéo trông chừng khẩu súng săn của tôi với vẻ đề phòng. - ông là chủ nhà à? - Y hỏi tôi sau khi tôi đã treo súng lên tường. Tôi chán nản gật đầu. Người đàn ông Thái nói: - Chúng tôi sẽ ở đây ba ngày đợi lũ rút đi. Tôi hơi ngạc nhiên vì y dùng chữ "chúng tôi". Như vậy, chắc y không phải chỉ có một mình. - Tôi không còn gì ăn cả. - Tôi thông báo trước với khách như vậy, không tỏ ý thiện cảm chút nào. - Tôi biết rồi, - người đàn ông Thái gật đầu với tôi - trước khi ông về tôi đã lục lọi khắp trong nhà này. Cô Muôn đang đi lấy gạo. Tôi hơi phật ý vì thái độ tự nhiên của khách. Chừng như nhận ra, y mỉm cười giới thiệu: - Tên tôi là Bạc Kỳ Sinh. Tôi hơi giật mình. Bạc Kỳ Sinh nói:

201

- Tôi đi với cô gái. Cô ấy là Muôn. Đúng lúc ấy, cô gái Thái mà tôi đã gặp trước đây ở chợ Mường La bước vào, vai đeo gùi, người ướt như chuột lột. Bạc Kỳ Sinh đứng dậy đỡ lấy gùi gạo. Tôi không hiểu họ moi đâu ra gùi gạo trắng tinh ở giữa trời mưa, ở giữa nơi mênh mông đầy nước ngập này. Bạc Kỳ Sinh và cô gái nói chuyện với nhau bằng tiếng Thái. Cô gái nhìn tôi mỉm cười: - Em nhận ra ông rồi! Ông đã giúp em giữ ngựa ở chợ Mường La. Bạc Kỳ Sinh lấy gạo thổi cơm, còn cô gái lui vào buồng trong thay áo. Tôi nghe thấy tiếng lục lọi đồ đạc rồi cô gái thò đầu ra cửa hỏi tôi: - ông gi áo! Ông cho em mượn cái áo của ông được không? Tôi nhìn Bạc Kỳ Sinh và thấy y có vẻ tán thành nên nói: - Được! Tôi ở miền núi đã lâu, tôi biết đàn ông Thái nhiều người có máu ghen tuông ghê gớm! Anh có thể chết như bỡn vì một nhát dao nếu như vô tình ghẹo cô gái có chồng đã "tằng cẩu " tức là đã buộc ngược tóc lên đỉnh đầu. ở Yên Châu vài năm trước đây đã có một vụ như thế: có một tay giáo viên người Kinh quê ở Hưng yên đã bị xẻo mất "của quý" bằng con dao quắm to bản dùng để chẻ lạt, gã "pháo thủ" không bao giờ còn ra trận được nữa, gã phải "hồi hưu" khi gã mới hai mươi tuổi. Tôi không muốn như thế, năm ấy tôi mới hai mươi mốt tuổi đầu, chưa biết tí ti gì về chuyện "phong hoa tuyết nguyệt". Một lúc sau, cô gái ở trong buồng trong bước ra, mặc chiếc áo "phông" sặc sỡ của tôi và chiếc váy mới. Trông

202

cô rất đẹp, vẻ đẹp vừa hoang vắng, vừa mê đắm lại vừa man rợ. Chúng tôi ngồi ă n cơm và cùng trò chuyện với nhau. Bạc Kỳ Sinh ít nói, đôi mắt của y lạnh lẽo, căng thẳng như mắt diều hâu, thỉnh thoảng lại sáng rực lên như có tia chớp, tia lửa. Chỉ khi nào ánh mắt của y gặp ánh mắt của Muôn nó mới dịu đi đôi chút, nó mới có vẻ như ánh mắt người. Bạc Kỳ Sinh có nụ cười dè dặt, lúc nào cũng có vẻ như giễu cợt bản thân mình hay giễu cợt ai. Chúng tôi ngồi nói chuyện về các sản vật ở vùng Tây Bắc, về phong tục người Thái, về việc người Kinh lên đây làm ăn sinh sống. Bạc Kỳ Sinh có vẻ không thích thú lắm với việc ngày càng có nhiều người Kinh lên Tây Bắc "đi xa hơn nữa", "khai hóa văn minh", "thắp lên ánh sáng văn hóa". Muôn thì khác, cô tỏ ý chê bai lối sống khép kín, quá gần tự nhiên, thậm chí có phần tăm tối của dân miền núi. Qua câu chuyện, tôi thấy hai người hiểu biết nhiều thứ, không hề ngơ ngẩn hoặc quá hẹp hòi như cách thức mà dân thành thị chúng ta vẫn hình dung về "người dân tộc". Cơm nước xong, Bạc Kỳ Sinh dựa lưng vào vách, màt đăm đăm nhìn vào đống lửa bập bùng. Ngoài trời đêm mưa vẫn không ngớt. Bạc Kỳ Sinh hát ê a một bài hát bằng tiếng Thái, lời lẽ rất ấn tượng. Có nhiều đoạn, cô Muôn cùng hát với y. Tôi nghe loáng thoáng, cố gắng tìm cách sắp xếp lại lời của bài hát này: Pò mệ ơi! Bố mẹ ơi... Pò mệ sinh con từ hang núi. Nơi ấy có nhiều gió, lạnh lắm Đêm mưa, nhiều gió lạnh lắm Tiếng hổ gầm, tiếng chó sói hú Những con rắn con trăn tìm mồi Bọn cáo chồn hôi hám rình mò Con don, con dím nấp trong hang

203

Con mình trần thân trụi run rẩy Gió lạnh lùa vào ngực con Con nhen lửa, gió làm tắt lửa Con sờ soạng trong bóng đêm Và nhặt được một vật mềm, ướt át Con sợ hãi, không biết vật gì Nó phập phồng trong tay con Ôi đau quá, đau nhói ở đây Cái vật mềm, ướt át ấy Là trái tim con rơi trên đất Mặt đất ấy nhiều gió, lạnh lắm Pò mệ ơi, ai thương con Pò mệ ơi, ai thương pò mệ... Tiếng hát của Bạc Kỳ Sinh rất lạ, đơn giản như lời người nói. Tôi chưa thấy ai hát như thế bao giờ: người hát không lấy hơi, không rán sức, khi nhấn lời hoặc ngân nga thì dịu dàng không sao kể xiết; ngậm ngùi, tê tái mà không mủi lòng; tâm trạng cô đơn lạnh buốt lẫn lộn với những khao khát nồng nàn. Tiếng hát sóng sánh, đặc như những giọt mật ong. Mỗi từ là một giọt mật. Tôi nghe hát mà nước mắt cứ thế chảy ra ràn rụa, tự nhiên không kìm lại được. Bài hát chấm dứt. Tất cả lặng đi. Tiếng mưa rơi và tiếng côn trùng bỗng nhiên ùa vào trong nhà riết róng nghe rõ mồn một. Không ai nói năng gì cả. Tiếng hát vẫn còn như lơ lửng bay trong không gian, vướng vào mái nhà, kèo nhà, vướng vào mái tóc, vướng vào đôi môi, cháy xèo xèo trên ngọn lửa đỏ rực. Bạc Kỳ Sinh hát xong, y cười một nụ cười nhợt nhạt thất thần, hình như bao nhiêu sinh lực của y đã trút hết vào cho bài hát. Một lúc sau như không chịu đựng nổi sự yên lặng, Muôn cũng ê a hát. Bài hát này cũng xót xa tê tái chẳng kém gì bài hát của Bạc Kỳ Sinh:

204

Ing noọng ơi, ing noọng ơi Nếu em xây nhà Thì đó là ngôi nhà nhỏ với cửa sổ rộng Trong nhà có bếp lửa hồng Trên bàn có cắm bông hoa đỏ và bông hoa trắng Chăn đệm mới thơm tho Bên cạnh em có anh En muốn anh ở bên cạnh em Đấy là ước mơ của em Anh yêu ơi, bây giờ đi đâu rồi Ma rùng bắt anh hay ngọn lửa nào gọi anh Anh đi về hướng nào Không có ai đợi anh ở đấy Anh yêu ơi, về đây với em Ta xây ngôi nhà nhỏ với cửa sổ rộng Anh yêu ơi, bây giờ đi đâu rồi Người thương ơi, bây giờ đi đâu rồi? Tôi lặng nghe Muôn hát, thấy giọt nước mắt lăn trên gò má của cô. Bạc Kỳ Sinh có vẻ xúc động. Y đưa tay ôm lấy bả vai cô gái kéo về phía mình. Khi Muôn hát xong, y nói một câu tiếng Thái rất nhanh, tôi không nghe rõ nhưng đoán là một lời chửi rủa hay một lời thề độc. Muôn trừng mắt nhìn y rồi ngồi xích ra có vẻ bất bình. Họ nói về một người nào đó có tên là Ngân. Đêm về khuya, mưa càng ngày càng nặng hạt. Mưa thấm vào đất, vào vách nhà, vào lòng người... Chúng tôi ngồi yên như thế rất lâu. Lát sau Bạc Kỳ Sinh lên tiếng trước. Y phàn nàn về những điều kiện sinh sống khốn khổ ở nơi nào đó, chắc là ở quê hương y. Vùng Tây Bắc tôi đã đi nhiều, điều kiện sống của con người ở đây thật khắc nghiệt. Dân nhiều nơi chỉ đủ gạo ăn có ba tháng, còn chín tháng trong năm phải vào rừng đào củ mài. Săn bắt và hái lượm vẫn là những hình thức kiếm sống phổ biến của

205

nhiều tộc người ở đây hệt như một ngàn năm trước. Nạn du canh du cư và triệt phá rừng làm cho quang cảnh rừng núi ngày càng thêm tiêu điều. Tôi cố tình dò hỏi tông tích, gốc gác của Bạc Kỳ Sinh. Y trả lời dè dặt, y nói chung chung: - Tôi là đứa con hoang của rừng. Y nói câu đó thì thầm như lời thú tội, có phần nào chán chường nhưng vẫn ngấm ngầm một niềm kiêu hãnh đặc biệt. Tôi gợi lại chuyện xảy ra bữa trước ở chợ Mường La thì y mỉm cười: - Rắc rối cho ông ghê lắm phải không? Y ngượng nghịu xoa tay vào nhau rồi nói tiếp: - Tôi đã mang ơn ông. Sau đó y chỉ vào Muôn: - Nhờ có con nhím này! Mãi về sau, do nhiều người kể lại tôi mới biết rõ về câu chuyện xảy ra hôm ấy. Đêm về khuya, tôi ngủ ở bên bếp lửa, nằm thao thức nghe tiếng mưa rơi. Trong giấc mơ, tôi cứ chập. chờn về hình ảnh trái tim mềm mại, ướt át, phập phồng rơi trên đất lạnh và ngôi nhà nhỏ có cửa sổ rộng. Những hình ảnh ấy phải chăng là nỗi ám ảnh thân phận tình yêu đôi lứa của hai người? °°° Bạc Kỳ Sinh là hậu duệ của dòng họ Bạc đất Mường Vài. Đây là một dòng họ quý tộc xa xưa, đồn rằng ông tổ là người Kinh đã từng làm chức thượng thư, bỏ lên Tây Bắc vì chán thời thế. Đấy là vào khoảng thế kỷ XVIII, thời vua Lê, chúa Trịnh, một thời nhiễu nhương trong lịch sử. ông

206

tổ của Bạc Kỳ Sinh lấy vợ người Thái, lập trang trại, sống nhờ vào việc buôn bán thuốc phiện với người Lào và người Hoa. Đến đời Bạc Kỳ Sinh, thời thế thay đổi, chính quyền mới đang tồn tại cùng chúng ta đây thành lập. Một đồn biên phòng đóng ngay ở đất Mường Vài. Việc buôn bán thuốc phiện bị cấm. Những người lính biên phòng thường xuyên xuống bản, giúp dân làm ăn, dạy học cho trẻ và giữ gìn trật tự an ninh trong vùng. Đồn trưởng biên phòng là Lò Văn Ngân, người Thái ở Yên Châu, một thiếu úy mẫn cán và sắt đá. Số phận éo le, giữa Lò Văn Ngân và Bạc Kỳ Sinh có những mối quan hệ thật trớ trêu. Một lần, vào dịp Tết cổ truyền, người ta tổ chức một cuộc đua ngựa cho thanh niên trong vùng. Chặng đua khá nguy hiểm, phải vượt qua nhiều suối và núi đá tai mèo. Có nhiều giải thưởng, giải nhất là một con ngựa tuyệt đẹp. Muôn là cô gái xinh đẹp nhất đất Mường Vài sẽ trao dây cương cho người thắng trận. Mười bảy kỵ sĩ tham gia cuộc đua, trong đó có Lò Văn Ngân và Bạc Kỳ Sinh. Hai người ganh đua từng phân một và họ bỏ xa các ky sĩ khác. ở chặng cuối cùng, nguy hiểm nhất là phải băng qua vực đất sụt. Nghe nói dưới đó có mạch nước ngầm từ xa xưa, mạch nước ngầm này còn lớn hơn cả con sông Đà, nhiều chỗ mạch nước ngầm phun lên làm nơi đó biến thành bùn lầy vô cùng nguy hiểm. Lò Văn Ngân là kỵ sĩ giỏi. Con ngựa anh cưỡi là con ngựa giống sông Đông ở Nga. Hồi ấy loại ngựa này chỉ nhập vào Việt Nam có sáu con để phối giống, được nuôi ở trại ngựa Bá Vân, Thái Nguyên theo tiêu chuân đặc biệt, người ta tìm cách nhân nó lên để cung cấp cho lính biên phòng. Con ngựa này phi rất nhanh, nếu đường sá tốt có thể phi tới 300 cây số một giờ, bước nhảy của nó xa tới 4 mét. Nó cao gấp rưỡi con ngựa bình thường. Bạc Kỳ Sinh cưỡi con ngựa của người miền núi Tây Bắc, chân

207

thấp, tướng mạo xấu xí, trông giống một con la già, chạy không nhanh nhưng dai sức, khi leo núi thì không khác gì sơn dương. Loại ngựa này đặc biệt nhạy cảm với địa hình miền núi, nó ăn rất ít và chịu được khát. Khi qua đèo, con ngựa sông Đông của Ngân chạy song song với con ngựa của Bạc Kỳ Sinh. Đường rất hẹp, hai con ngựa chèn nhau khi vượt khúc quanh ở hem núi. Gió thổi mạnh, con ngựa sông Đông khỏe hơn nên hất con ngựa của Bạc Kỳ Sinh xuống khe núi. Bạc Kỳ Sinh thoát chết nhờ vào sự nhạy cảm thần kỳ của con tuấn mã. Con ngựa chụm bốn vó lăn tròn ở vạt dốc nghiêng, không hiểu làm sao móc được một ch ân vào thân cây dâu da. Sau này Bạc Kỳ Sinh kể lại: "Lúc đó mạng sống thật là "ngàn cân treo sợi tóc". Con ngựa hình như cũng biết điều đó, nó chỉ doãi cẳng chân ra là cả hai sẽ lao xuống vực sâu 300 mét. Gió thổi, đá cào làm nó lột xước hết cả da. Nó rnn bắn lên, mồ hôi túa ra đầm đìa. Mắt nó như muốn dò hỏi: "Tại sao? Tại ao lại chết vô lý thế này?" Thế là nó vùng vẫy sức lực của nó như được nhân lên gấp bội... Loay hoay mãi, Bạ Kỳ Sinh móì gỡ được mình ra và dìu được con ngựa từ trên cây xuống. Bạc Kỳ Si n h bị thương khá nặng: xương đùi gãy, một chân bị trẹo khớp. Nhưng một kỵ sĩ miền núi thì chẳng bao giờ bỏ cuộc. Y vẫn tiếp tục cuộc đua. Để đến đích, nếu theo con đường cũ dễ dàng thì thất bại là chắc chắn: với hơn 20 cây số đường rừng như vậy thì người và ngựa sẽ kiệt sức vì mất máu. Bạc Kỳ Sinh quyết định vượt qua núi đá tai mèo để về thung lũng: đường ngắn hơn, chỉ có hơn hai cây số nhưng làm như thế nghĩa là "leo núi" chứ không phải còn là "đua ngựa" nữa. Được cái cuộc đua không hề quy định lộ trình bắt buộc. Từ xa xưa, dâ n miền núi đã quen chỉ xác định hướng đi chứ không xác định sẽ đi như thế nào,

208

con người phải tự mò mẫm một mình và chỉ có linh cảm, trực giác mới giúp họ vượt qua tất cả. Bạc Kỳ Sinh vượt qua vách núi tai mèo, nghĩa là cầm chắc cái chết trong tay, hy vọng sống trong một phần nghìn. Không hiểu làm thế nào mà Bạc Kỳ Sinh vượt qua được. Máu loang lổ bết đầy người và ngựa. Y đến đích không khác gì một con ma rừng. Cuộc đua kết thúc. Không ai trao giai thưởng cho con ma rừng. Giải thưởng thuộc về Lò Văn Ngân và con ngựa giống sông Đông. Bạc Kỳ Sinh chỉ được sự tán thưởng ngầm của ít người dân miền núi lầm lì nhất, họ có cách đánh giá riêng cửa họ về các giá trị con người. Bạc Kỳ Sinh dưỡng bệnh ở nhà ông Sùng là bố của Muôn. ông là thầy thuốc biết chữa bệnh bằng nhiều thứ lá cây rừng. Tình yêu của y với Muôn bắt đầu nảy nở trong những ngày đó. Nhưng Lò Văn Ngân, viên thiếu úy đồn trưởng biên phòng cũng rất yêu Muôn. Bạc Kỳ Sinh khỏi bệnh vào cuối mùa thu. Lúc ấy rừng đang thay lá. Rặng cây sau nhà Muôn từ màu xanh chuyển sang màu đỏ như mận và màu đỏ của máu. Hoa đinh lăng là thứ hoa đơn ở rừng có màu vàng như là hoa tai vàng nở rất nhiều ở hàng rào đầy những dây tơ hồng cũng màu vàng như màu nhẫn vàng. Bạc Kỳ Sinh ngồi bên cửa sổ. Muôn ngồi xe sợi ở ngoài chái nhà, cô ê a hát bài hát mà cô ưa thích: "Ing noọng ơi, ing noọng ơi Nếu em xây nhà Thì đó là ngôi nhà nhỏ với cửa sổ rộng Trong nhà có bếp lửa hồng" Ông Sùng hỏi Bạc Kỳ Sinh:

209

- Này Sinh, mày có nghĩ rằng dân miền núi sẽ có hạnh phúc hay không? Bạc Kỳ Sinh cười: - Khi còn mê muội... Muôn hỏi: - Vậy văn minh? - Không tốt gì! - Một người đàn ông Thái vừa bước lên cầu thang vừa nói. Đây là Lò Văn Cường, em trai ông Sùng, chú ruột của Muôn. Ông ta gùi một gùi hàng nặng. Ông ta vẫn buôn thuốc phiện từ Tam giác vàng qua đường Thượng Lào sang Tây Bắc. Đêm hôm đó, Lò Văn Cường ngủ ở nhà anh trai mình. ông bảo Bạc Kỳ Sinh: - Cháu Sinh ạ, tao đã thấy mày đua ngựa với người của chính phủ. Theo tao đi! Mày là ma rừng phải đi đường hẻm. Mày muốn con Muôn thì hãy nghe tao! Mày hãy đi gùi hàng lên Hoàng Su Phì! Hãy nghĩ đến tự do và tiền bạc rồi sau hãy nghĩ đến đàn bà. Con Mnôn nó sẽ giết mày! Nửa tháng sau, Lò Văn Cường bị bắn chết. Những người lính biên phòng do Lò Văn Ngân chỉ huy phục kích đã bắn chết ông ta khi mang thuốc phiện vượt qua biên giới. Lò Văn Ngân được thăng chức trmg úy. Ngân cưõi con ngựa sông Đông đến chơi nhà Muôn. Anh tặng Muôn đôi vòng tay bạc. Muôn hỏi: - Nếu giết được một người thì được tăng một chức à? Ngân bảo: - Điều ấy tùy vào người bị giết là ai. Muôn nói: - ông ta là chú tôi.

210

Ngân bảo: - Tôi không biết. Khi Ngân đi xuống cầu thang thì con ngựa sông Đông của anh đã bị cắt mất gân chân đang nằm gục bên hàng rào. Ngân chạy lên cầu thang rút súng chĩa vào Bạc Kỳ Sinh: - Mày giết ngựa! Mày có biết con ngựa ấy đáng giá bằng mấy mày không? Bạc Kỳ Sinh nói: - Cần thì tao cắt gân mày chứ không cắt gân con ngựa! Bạc Kỳ Sinh bị bắt. Muôn than thở: - Anh ta đang ốm. Ngân nói: - Con ngựa này mỗi ngày ăn hết 20 cân thóc, 6 lít sữa với 2 cân đường. Cả nước bây giờ chỉ còn hai con như thế! Bạc Kỳ Sinh bị giam chín tháng trong tù. ở trong tù, những người bạn của Lò Văn Cường chỉ cho y các mối hàng, cách đi rừng, cách chơi gái sao cho không bị mang bệnh, cách trốn lính biên phòng, cách phân biệt tiền giả thật, tiền bạt Thái Lan và tiền kíp Lào, rất nhiều thứ mà người ta không biết phân biệt đấy là những kiến thức về tự do hay sự từng trải phóng đãng. Một tay ăn trộm người Dao tên là Triệu Phú Đại rủ Bạc Kỳ Sinh vượt ngục. Đêm hôm ấy trời mưa to, hai người rỡ mái tôn chuồn được ra ngoài luồn rừng chạy về phía rừng Thuận Châu trốn tránh. ít ngày sau Bạc Kỳ Sinh tìm đường về đến nhà Muôn. Triệu Phú Đại cằn nhằn: - Chúng ta phải chuồn sang Thượng Lào ngay lập tức. Loanh quanh ở đây rồi chết có ngày.

211

Bạc Kỳ Sinh nói: - Mày biết gì về tình yêu? Triệu Phú Đại thở dài: - Đấy là thứ tình cảm không lương thiện. Muôn chạy ra đón Bạc Kỳ Sinh, trên tay đeo đôi vòng bạc của Ngân tặng cô. Bạc Kỳ Sinh hỏi: - Cô yêu nó à? Muôn nói: - Không biết! Em chỉ thích bộ quân phục. Bạc Kỳ Sinh và Triệu Phú Đại ở nhà Muôn ba ngày. Triệu Phú Đại bảo Bạc Kỳ Sinh: - Mày lựa chọn đi. Hoặc đi Thượng Lào. Hoặc ở đây rúc váy con Muôn để đợi thằng Ngân đến bắt. Năm giờ sáng, lính biên phòng bao vây nhà Muôn. Triệu Phú Đại và Bạc Kỳ Sinh nấp trong buồng kín. Triệu Phú Đại nói: - Phen này chết là chắc. Tao không tiếc gì. Chỉ tiếc mày mới hai mươi lăm tuổi. Bạc Kỳ Sinh nói: - Khi thằng Ngân bước lên cầu thang tao sẽ dí dao vào cổ nó...Khi người ta đưa ngựa tới, mỗi thằng chạy về một phía... Bạc Kỳ Sinh treo người ở trên chái nhà giống như con dơi. May cho y là 5 giờ sáng thì trời vùng núi còn tối như mực. Lúc ấy trời lại đổ mưa to. Hai người chạy thoát sang đất Thượng Lào. Bạc Kỳ Sinh nói: - Chắc cha con ông Sùng bị bắt mất.

212

Triệu Phú Đại cười: - Có con Muôn thì chẳng sợ. Biết "mèo nào cắn mỉu nào"! Bạc Kỳ Sinh buôn bán dọc ngang ở vùng Thượng Lào, nhiều khi sang cả Thái Lan. Y có tiền, có nhiều thứ nhưng trong lòng khôn nguôi nhớ Muôn và nhớ quê hương. Thỉnh thoảng y tìm đường liều lĩnh về thăm đất Mường Vài. Một lần về y bị bắt và xảy ra vụ trốn chạy ở chợ Mường La mà tôi chứng kiến. °°° Bạc Kỳ Sinh và Muôn trú ở nhà tôi sang ngày thứ hai thì họ cãi lộn với nhau. Cả hai đều mất bình tĩnh. Tôi không hiểu lắm vì họ nói bằng tiếng Thái rất nhanh, tôi chỉ lõm bõm biết một số từ. Tôi đoán hai người đã không đồng ý về cách giải thoát tình trạng hiện thời. Muôn nài nỉ điều gì đó nhưng Bạc Kỳ Sinh dứt khoát chối từ. Một lúc sau, Bạc Kỳ Sinh cũng nài nỉ điều gì đó nhtng Muôn không chịu. Cuối cùng Bạc Kỳ Sinh đứng lên tru một tiếng khủng khiếp như chó sói hú. Trông y rất đau đớn. Muôn ôm mặt chạy ra ngoài trời mưa. Lúc ấy trời đâ khuya lắm. Bạc Kỳ Sinh chạy theo. Họ giằng co nhau một lúc lâu rồi Muôn chạy về phía rừng. Bạc Kỳ Sinh quay vào nhà, y nằm vật ra ở bên đống lửa. Tôi ngồi lặng lẽ chứng kiến hai vị khách trọ. Tôi mơ hồ thấy một nỗi thương cảm xót xa. Tại sao lại phải dày vò mình, phải dày vò nhau như thế? Hồi ấy tôi còn trẻ tuổi, tôi chưa nếm trải vị ngọt cũng như vị đắng tình yêu. ôi tình yêu! Sau này tôi mới biết đấy là thế nào! Bạn trẻ, bạn hãy yêu đi! Nó sẽ làm cho bạn hóa rồ hóa dại, nó sẽ làm cho bạn tốt lên hoặc xấu đi thì tôi cũng chẳng biết nữa nhưng tôi biết chắc chắn đó là một điều tuyệt vời nhất trên đời, đó là thứ giá trị nhất trong mọi thứ giá trị mà Thượng đế ban cho con người. Bạn trẻ! Bạn đừng tin những kẻ nói

213

với bạn rằng tình yêu là sai lầm! Không có tình yêu sai lầm...Đấy là những kẻ ghen tị với tình yêu, những kẻ không có cơ hội để có tình yêu, vu khống, xúc xiểm tình yêu... Suốt đêm hôm ấy chúng tôi không thấy Muôn trở lại. Bạc Kỳ Sinh ngồi bên bếp lửa như hóa đá. Tôi cố gợi chuyện y. Y thở dài: - Cô ấy sẽ không trở lại...Đàn bà rất thích những ngôi nhà có cửa sổ rộng để chuồn ra ngoài... Trầm ngâm một lúc, y nói tiếp: - Về bản chất, đàn bà đứng về phía trật tự... Không có trật tự nào dung được tình yêu to lớn... Tôi lấy củi chất thêm vào đống lửa. Mưa rất to. Hai chúng tôi ngồi bên đống lửa đến tận sáng bạch. Bạc Kỳ Sinh đã kể cho tôi nghe về tình yêu nồng cháy của y. Y nói về phụ nữ, về cuộc đời, về nhiều thứ khác. Y nói: - Không ai mang lại cho tôi nhiều hạnh phúc và đau khổ như Muôn. ông đã yêu bao giờ chưa? Tình yêu dạy cho ta bước đi của hổ, của báo, cho ta sức mạnh của mãnh thú. Nó dạy cho ta sự giảo hoạt của cáo, của rắn độc...Nó khiến ta nhân đạo hơn hoặc độc ác hơn...Những kẻ hèn hạ không có tình yêu. Tôi dò hỏi Bạc Kỳ Sinh về Muôn. Y nói: - Cô ta cũng giống như mọi người đàn bà khác. Tôi quá điên rồ, quá nguy hiểm đối với cô ta. Trước sau gì cô ta cũng sẽ trèo qua cửa sổ để về với một môi trường tầm thường hơn nhưng an toàn hơn. Cô ta chết chậm hơn tôi. Nhưng thôi, tất cả những điều tôi nói không có ích gì, sau này rồi ông sẽ hiểu... Bạc Kỳ Sinh ở với tôi đến trưa hôm sau. Y dứt khoát trả tôi tiền trọ. Món tiền khá lớn, bằng tổng số tiền lương giáo

214

viên của tôi trong nhiều tháng. Tôi và Bạc Kỳ Sinh chia tay nhau. Y nói rằng y sẽ đi Thái Lan ngay hôm ấy. Cả hai không nghĩ rằng rồi sẽ gặp nhau. Tôi cũng không ngờ hai mươi lăm năm sau, tôi đã gặp Bạc Kỳ Sinh trong một hoàn cảnh lạ lùng kỳ dị. ít năm sau, tôi có dịp quay lại Mường La. Tôi gặp Lò Vàn Ngân, bấy giờ đã lên chức thiếu tá. Ngôi nhà của Ngân ở ngay cổng chợ Mường La, ngôi nhà thiết kế giống như những ngôi nhà khác ở thành phố, tầng dưới để bán hàng hay để cho thuê văn phòng, tầng trên để ở. Ngân và Muôn lấy nhau, họ có hai đứa con, cả hai đang học Đại học. Tôi gặp Ngân nhưng anh tiếp chuyện tôi dè dặt, thậm chí có phần lạnh lùng. Chúng tôi không nói gì về chuyện cũ. Lựa dịp thuận tiện, tôi tìm cơ hội để gặp riêng Muôn. Muôn còn rất đẹp. Cô mặc quần áo sang trọng theo lối dân thành phố. Tôi gợi lại chuyện về Bạc Kỳ Sinh thì Muôn thất kinh, hốt hoảng nói: - Bò hụ...! Ai nhá nhắc lại chuyển cẩu nưa... (Không biết! Anh chớ nhắc lại chuyện cũ nữa). Tôi quay lại chợ Mường La. Cũng không khác xưa nhiều lắm: các cô gái Thái, gái Xá...ngồi bán đào, mận, mắccoọc...hái ra từ trong núi, những người đàn ông, đàn bà người H’mông gùi những gùi sa nhân, đẳng sâm, ba kích, nếp tan...ở góc chợ vẫn có ông già người Hoa ngồi xem bói. Không có đám đông nào vây quanh ông già. Tôi đến gần ông già đặt tiền, gieo quẻ và hỏi về số phận của Bạc Kỳ Sinh. ông già đọc cho tôi nghe một bài thơ chữ Hán: - Ngộ bất ngộ Phùng bất phùng Nguyệt trần hải để Nhân tại mộng trung... 1

215

Tôi thở dài quay đi ngẫm nghĩ. Tôi tự hỏi mình: - Này số phận! Những gì tạo nên số phận? Điều gì giá trị? Điều gì vô giá trị? Điều gì trên đời này có ý nghĩa nhất cho một con người? °°° Tôi đã gặp Bạc Kỳ Sinh tình cờ khi tôi đến Mỹ mấy năm trước đây. Hôm ấy ở New York, tôi đến một quán cà phê nơi vẫn tụ tập khá nhiều nhà thơ và nghệ sĩ. ở đấy có một người Việt Nam chơi đàn ghita rất điệu nghệ. Người này hát những bài hát bằng tiếng Anh và tiếng Việt. Khi nghe một bài hát tôi đã lặng đi không thể tin được. Đấy chính là một phần bài hát tôi từng được nghe ngày nào: Pò mệ ơi! Bố mẹ ơi... Pò mệ sinh con từ hang núi. Nơi ấy có nhiều gió, lạnh lắm Đêm mưa, nhiều gió lạnh lắm Ôi tụ do, tình yêu, quê hương Những con đường chông gai, nhọc nhằn Con mình trần thân trụi run rẩy Và sờ soạng trong bóng đêm Con nhặt được một vật mềm, ướt át Con sợ hãi, không biết vật gì Nó phập phồng trong tay con Đau quá, đau nhói ở đây Con ngửa mặt lên trời và hỏi: Đâu tình yêu? Đâu tự do? Đâu quê hương.. Pò mệ ơi... Pò mệ sinh con từ hang núi... Người đánh đàn ghita và hát là Bạc Kỳ Sinh. Tối hôm ấy, Bạc Kỳ Sinh đưa tôi về nhà. Đó là một ngôi nhà nhỏ với cửa sổ rộng trên gác của một chung cư. Ngôi nhà khá đầy đủ tiện nghi. Bạc Kỳ Sinh thuê ngôi nhà này ở đây và sống

216

độc thân. Sau lần gặp tôi, y sang Thượng Lào, sang Thái Lan rồi tới định cư ở Mỹ. Chúng tôi uống rượu suốt đêm. Bạc Kỳ Sinh hỏi tôi rất nhiều về vùng Tây Bắc Việt Nam. Tôi hỏi Bạc Kỳ Sinh xem có cơ hội trở về Việt Nam hay không. Y buồn bã lắc đầu, chỉ vào ngực mình: - Tôi không biết. Tôi vẫn thường đau ở trong ngực này... Y cười, vẫn nụ cười như diễu cợt ai hay giễu cợt mình. Trên tường nhà Bạc Kỳ Sinh có treo ảnh Muôn. Nước ảnh đã cũ, đã ố vàng nhưng Muôn trông rất đẹp. Tôi không nỡ nói với Bạc Kỳ Sinh là ở Việt Nam, Muôn đang sống hạnh phúc. Bạc Kỳ Sinh ép tôi uống rượu mạnh. Cả tôi và y đều say khướt. Tôi hỏi y thế nào là tình yêu. Bạc Kỳ Sinh bảo: - Tin tôi đi! Đấy là một hung thần... Đêm hôm ấy ở New York trời mưa rất to, mưa như ở vùng Tây Bắc Việt Nam, một thứ mưa nhiệt đới dai dẳng, tưởng như không dứt, tưởng như không thôi, tưởng như không bao giờ hết được...

-------------------------------Gặp như không gặp Được như không được 1 Như trăng dưới biển Người ở trong mộng...

217

ÐƯA SÁO SANG SÔNG Bà Hai Thoan bán nước, lại thêm cả nghề chứa trọ ở cổng sau chợ Niệm. Chợ Niệm đây là chợ Niệm Nghĩa, nằm ở bên sông Cửa Cấm. Chợ Niệm Nghĩa trước chỉ họp mỗi tháng bốn phiên, nhưng gần đây hàng buôn lậu Trung Quốc sang nhiều nên cũng họp lung tung thất thường. Giáp Tết, chợ ngày nào cũng họp. Phiên sáng, phiên chiều... nếu có tàu trở hàng lậu về đêm thì thêm cả phiên tối. Không có điện thì có máy nổ phát điện, điện giăng như sao sa . . . Trên bến, dưới thuyền, mua mua, bán bán, này anh, này chị, này chú, này cô, "hảo lớ"... hàng Đài Loan, hàng Hồng Kông, hàng Trung Hoa lục địa, hàng Nhật Bản, hàng Sài Gòn... "thượng vàng hạ cám" chẳng thiếu thứ gì . Bà Hai Thoan mắt kém, hơi lãng tai nhưng được cái khoẻ mạnh. Bà ngồi một chỗ bán nước nhưng dưới "trướng" của bà có hai con bé con giúp việc lúc nào cũng nhanh thoăn thoắt làm đủ mọi việc trên đời, đâu ra đấy, không chê vào đâu được . Giáp Tết, trời chuyển gió bấc, mưa phùn, rét như cắt ruột. Mưa suốt từ đầu tháng Chạp đến 27 Tết. Sáng 27 Tết nắng ấm dần lên. Hàng về nhiều. Chưa bao giờ chợ Niệm đông như phiên hôm 27 Tết năm ấy. Bà Hai Thoan ngủ dậy, vừa mở cửa hàng thì người đàn ông ấy đến. Ông ta vừa bước vào thì mọi đồ vật trong nhà như ríu cả lên: cái chổi để ở góc nhà tự dưng ngã vật ra, chiếc đồng hồ báo thức hỏng đã nửa năm nay bỗng dưng đổ chuông ầm ĩ, chiếc đèn dầu hở ống muống bỗng cháy đùng đùng... Người ấy như người từ thời thượng cổ bước ra: thô nhám, đơn sơ, rất cồng kềnh. Ông ta mặc áo da, cổ đeo

218

caravat, giày da cá sấu. Ông ta nhìn bà Hai Thoan, chẳng chào hỏi gì. Ông ta nói: - Nhà ta nắng dột vào trưa... 1 Thế là từ bấy giờ bà Hai Thoan như người lên đồng, người khách lạ như hớp mất hồn, bà chẳng còn "tỉnh táo, lạnh lùng, dứt điểm" giống như ngày thường, giống như cách bình luận bóng đá trên tivi, giống như cách nói của hai con bé con giúp việc cho bà. Ông khách nói: - Tôi muốn thuê phòng trọ. Có được không? Bà Hai Thoan nói: - Nhà chỉ có một phòng, một giường. Hiện có hai chú "cửu vạn" người Thái Bình trọ. Ông thuê ban ngày thì được, chứ ban đêm thì các chú ấy về đây ngủ . Ông ta bảo: - Tốt! Tôi chỉ ở đây đến tám giờ chiều. Tôi trả bà tiền trọ 100 nghìn, tiền ăn trưa 100 nghìn. Tôi có hai người. Hai hai là bốn. Bốn trăm nghìn. Xong chưa. Bà Hai Thoan cười, gật gật đầu. Bà nghĩ bụng: - Chắc lái buôn! Chắc mới "trúng quả"? "sộp" ra "sộp"! Trông cái "cà vạt" kìa, lụa tơ tằm hẳn hoi, đúng là "xịn"! Bà Hai Thoan ngồi tựa lưng vào vách bán hàng. Chỗ vách thủng, bà đã kín đáo "ngụy trang" bằng một tấm lịch Trung Quốc in hình "Vạn lý trường thành", vì thế dù có ngồi bán hàng nhìn ra đường cái bà vẫn quan sát được trong nhà và trong phòng trọ . Người đàn ông loay hoay ở trong phòng trọ một mình. Ông ta chỉ có mỗi cái cặp số. Chắc đựng tiền. Chắc có nhiều tiền. Bà Hai Thoan thấy ông ta

219

mở khoá cặp ngần ngừ một lát rồi lại khoá lại, lại mở ra, cười một mình, cứ thế mấy lần. - Năm nay Tết nhất có vẻ "xôm", phải không bà? Bà Hai Thoan giật mình. Ông khách đã ngồi ở trước mặt bà từ lúc nào, miệng hỏi, mắt lơ đãng trông ra ngoài đường. - Vâng, Tết nhất năm nay đông vui hơn mọi năm... Bà Hai Thoan trả lời - Ông làm cốc rượu "cuốc lủi", cho nó thơm râu, ông nhá! - Được, bà cứ rót đi... quang cảnh ở đây vẫn cứ như xưa... Cây thì vẫn đứng thế thôi. Hàng thì bán đứng bán ngồi chen nhau... - Thì nhà quê mà! - Bà Hai Thoan chép miệng - Sống già cả đời mà chẳng thấy có văn minh gì cả. Ông nên xơi thêm quả trứng luộc, ông ạ... - Vì người ta đã dìm thuyền... - Ai dìm thuyền? ông xơi thêm quả trứng luộc nữa, ông nhá... - Được! Chốc nữa thế nào cũng giông/ Sang đò tôi đến giữa đồng là mưa... - Chẳng mưa được, ông ạ... mưa suốt từ đầu tháng Chạp đến nay còn gì... Thế ông chờ hàng về hay ông đợi ai? - Gọi em một tiếng tưởng xong/ Không ngờ ai nấp trong lòng trộm nghe... - Chết! Có trộm à? - Bà Hai Thoan hỏi. Hai con bé con giúp việc cho bà Hai Thoan ôm nhau cười ngặt nghẽo. Một đứa vừa cười, vừa giải thích cho bà Hai Thoan hiểu: - Đấy là bác ấy đọc thơ... bà chẳng hiểu gì... cứ tưởng bác ấy nói chuyện...

220

Bà Hai Thoan cũng cười: - Không hiểu con mẹ mày! Cái gì mà tao không hiểu... Bà cũng thơ văn chứ! Ông ạ... thế ông bảo ai dìm thuyền? Thế ông bảo ai ăn trộm? Ông khách lạ nháy mắt với hai con bé con: - Đời! Rồi thời gian! Bà lão ạ... Đời bạc lắm... Người bạc lắm... Dìm đi hết! Trộm đi hết! Cánh hoa sắc một lưỡi dao/ Vì yêu tôi cứ cầm vào như không... Đứa bé gái giúp việc cho bà Hai Thoan mắt một mí, môi đỏ như thoa son, hỏi ông khách: - Sao bác cứ lúc lắc đầu , cứ ngoáy tai mãi thế? Ông khách khổ sở: - Nó cứ kêu... ở trong tai... - Cái gì kêu - Thơ... Khổ thế... Nó cứ kêu trong tai... Hai con bé con lại cười ngặt nghẽo. Ông khách lạ cũng cười. Bà Hai Thoan cũng cười... - Cái lão rồ này! Sao lại có thơ bay ở trong lỗ tai như thế? Này ông... Hay là ông bị bệnh xay lúa ? ở Quán Toan có ông Ngọng, lúc nào trong tai cũng ù ù như xay lúa... - Không... không phải ù ù... Cứ một câu sáu, một câu tám... Đến khổ... Bên nhau sà sã suốt ngày/ Vừa đi nửa bước đã đầy nhớ thương... Cầm lòng bán cái vàng đi/ Để mua những thứ nhiều khi không vàng... - Vẫn thế thôi , ông ạ... Vàng đâu mà nhiều thế? Có mà mạ vàng! Thế ông đợi hàng về hay ông đợi ai mà cứ ngong ngóng từ sáng đến giờ... có lẽ cũng đến quá Ngọ mất rồi còn gì...

221

- Quá rồi! Quá rồi . . sắp chiều rồi, sắp đêm rồi! - Ông khách rền rĩ - Tôi già rồi, sắp hết đời rồi! Bà lão đoán tôi năm nay bao nhiêu tuổi nàỏ Đến tuổi tôi là tuổi phải mạ vàng tất cả... - Chịu, ông ạ... Dễ thường ông phải đầu năm? - Còn các cô bé? Các cô đầu mấy? Hai con bé con lại ôm nhau cười ngặt nghẹo: - Đầu một! Chúng cháu đầu một! - Đầu một là đầu một ơi/ Có chung giọt nước mắt rơi xuống lòng/ Đừng buông giọt mắt xuống sông/ Anh về dẫu chỉ đò không cũng chìm... Các cháu ạ, chúng mày chẳng biết gì về thời gian! Cứ cười đi! Đồ nỡm! Đồ giặc cái! Bao giờ cho đến đầu năm rồi mới biết nhau... Thôi đành bầu rượu nắm nem/ Nghiêng trời uống cạn để xem chiều tà/ Vẫn còn ngòn ngọt tiếng gà/ Chưa chi tóc đã tà tà sương phai... Có bóng ai mặc áo hoa đỏ thấp thoáng chen ở giữa chợ . Ông khách nhớn nhác đứng dậy . Hai con bé con dọn đám vỏ trứng luộc cho vào thùng rác . Bà Hai Thoan hỏi: - Chúng mày đếm xem mấy quả ? Hai con bé con lại cười ngặt nghẹo: - Những sáu quả bà ạ! Bà Hai Thoan lắc đầu: - Có tuổi mà lại ăn tham như mõ thì cho chết! Tao bán hàng bao nhiêu năm nay, chưa thấy ai ăn sáu quả trứng vịt luộc một lúc bao giờ . Xế trưa, khách vào hàng của bà Hai Thoan tấp nập . Uống nước, ăn quà... chuyện tầm phào . Giá vàng xuống, từ 480 nghìn đồng một chỉ hạ so với ngày hôm trước 2 nghìn

222

đồng . Bà Hai Thoan mải bán hàng, cũng chẳng để ý ông khách lạ đi đâu... Mãi, nghe tiếng thì thào ở trong phòng trọ, bà mới vén tấm lịch "Vạn lý trường thành" để ngó mắt xem . Trong phòng trọ, ông khách lạ đang ngồi với một cô gái mặc áo hoa đỏ, dáng vẻ nhà quê . Gớm! Cái lão ma bùn này, cũng giai gái ra trò! Để xem họ nói những gì! - Chờ suốt từ sáng... mỏi cả mắt . Đã bảo ở cổng sau mà lị . Tớ đã định bỏ về... ! - Khổ, ai biết đâu... cứ tưởng người nào thơ văn thì phải "quang minh chính đại" chứ, nếu có chờ thì chờ ở cổng trước chứ sao lại ở cổng saủ Em cứ loay hoay ở cổng trước đến mấy tiếng đồng hồ... - Đấy là thời thế, giời ạ "Quang minh chính đại" có mà mất xơi... Thế chồng con rồi đằng ấy thế nàỏ - Cũng bình thường... như người ta thôi... Còn anh, anh vẫn làm thơ đấy chứ... - Khổ... vẫn không bỏ được cái nghề ấy... Vẫn nhì nhằng, một câu sáu, một câu tám... - Buồn cười... Hồi nào có anh gì trên Hà Nội bảo anh vốn liếng có 600 từ... - Làm gì được 600... chỉ có ngót nghét 500... Bí lắm! Hồi nhỏ có được học hành đâu . ít chữ nên phải vất vả hơn người . Cứ xào xáo từng ấy từ, nhiều khi cũng ngượng... thiếu lương thiện... - Làm thơ cũng giống như đi buôn nhỉ? "Buôn tài không bằng dài vốn"... - Thôi! không nói chuyện ấy nữa... Thế là mấy năm mới gặp lại nhau . Hồi đưa sang sông bảo đi về quê lấy chồng cũng giáp Tết như thế này đây... Chiều nay Hồ Tây có giông...

223

- Buồn cười! Cứ như thông báo thời tiết... - Không phải thông báo thời tiết mà là thông báo thơ... thông báo hoàn cảnh và tâm trạng thơ... Thơ là xúc cảm cá nhân trong một hoàn cảnh, là kinh nghiệm cộng đồng trong một tình huống . Tôi ngồi trên sóng mà không thấy chìm... "Ngồi trên sóng" đấy là thơ! Đấy là xúc cảm... là sự tê tái cao nhã, là kinh nghiệm xót xa của một cộng đồng đàn ông đa tình đa cảm . Đại để thế... Cũng "nhặm" lắm! Phiền lắm! - Ôi dào, chẳng hiểu gì... - Thì hiểu làm gì. Thế đằng ấy hàng ngày làm những việc gì? - Nhì nhằng... toàn việc không tên. Làm ruộng. Nuôi lợn... Thả tôm giống... Đầu tắt mặt tối... chẳng như ngày xưa... Lại thằng bé con... gấu lắm... Cũng khổ... Nhưng mà là khổ một bề... Hồi trẻ chưa lấy chồng thì khổ nhiều bề. - Hồi ấy, đằng ấy cứ như con chim sáo ấy... Bây giờ chim sáo sang sông mất rồi... - Bây giờ thành mẹ mướp rồi... - Chưa... vẫn còn giòn lắm. Này! Lên giường đi! Cứ ngồi thế này khó chịu quá... - Xin anh... em xin anh... Đừng làm như thế... Em có chồng rồi, con sáo đã sang sông rồi... - Mẹ khỉ! Có chồng càng dễ chơi ngang... - Không được... Anh là người thơ văn, anh phải biết chứ... Con sáo đã sang sông rồi! - Hay là tôi già? - Chết thật! Đừng nói thế... Em kính trọng anh... Em kính trọng ông cơ mà...

224

- Vứt cái kính trọng của cô đi... Nhưng em đã bỏ đi rồi/ Cái mênh mông ấy vừa rơi vừa chìm... - Không phải bỏ đi... là chuyện phải thế... không xuống âm phủ giời bắt tội cho, khổ lắm... - Thôi! Không nói nữa! Em bỏ chồng về ở với tôi không? - Đấy là thơ... làm thế sao được... - Vứt thơ đi! Em bỏ chồng về ở với tôi không? - Em lạy anh... Em lạy ông... cho em về nhà. Chiều rồi, tối nay nhà em còn luộc bánh chưng... - Thế nhất định không lên giường à? - Không... không được! Không làm thế được! Bà Hai Thoan cười thầm. Con mẹ này! Gan quá! Có khí tiết đây! Phải! Mày làm thế là phải, con ạ. Không có sợ gì... Thế mới là bậc tiết phụ, nghĩa phụ chứ! - Hôm nay tôi chết ở chợ Niệm Nghĩa... Có ai đi chôn tôi không... Chỉ mong ngày âý mưa to/ Bước chân em có ngại đò đường trơn... - Sao cứ ác khẩu mãi thế... Anh ơi, anh buông ra đi. Anh phải nhắm mắt lại, phải buông xuôi tay dần đi... - Thế là phải bạc tình đấy chứ gì? Cô khuyên tôi phải chết chứ gì? Mẹ khỉ! Mười năm tỉnh giấc Dương Châu/ Nổi tiếng làng chơi khách bạc đầu... Thôi! Bai bai! Cầu chúc cho em mọi sự tốt lành... Này! Cầm lấy ít tiền. Khi mê tiền chỉ là tiền/ Ngộ rồi mới biết trong có tiền có tâm 2. - Thôi... sao nhiều thế... - Cứ cầm lấy... Thế là đưa sáo sang sông... Đi đi... cút đi... Xéo đi! Xéo về với trật tự đạo lý của các người đi! Rồi cô sẽ phải khóc trong sung sướng cho mà xem!

225

- Em xin anh... xin ông... - Xéo đi ra khỏi mắt ta... Về với tổ ấm của mi đi! Thưa các ông, thưa các bà... Chúng ta trằn trọc trên cái giường bổn phận của chúng ta. Chúng ta ca hát, làm thơ trên ấy... Cao thượng cái nỗi gì... Ta đã tóm được mi rồi, hôm nay, trong căn phòng trọ tồi tàn ở một nơi chốn hẻo lánh, nhơ nhuốc này... Em ơi, may mà em ít chữ và ngu dốt... Ta cũng ít chữ và ngu dốt chẳng kém gì em... Nếu không, hôm nay ở đây sẽ phải xảy ra một án mạng... Ông khách nằm vật xuống giường, sùi cả bọt mép như thể động kinh. Người con gái mặc áo hoa ngồi nép một chỗ sợ hãi, tay cầm món tiền rấm rứt khóc. - Những giọt nước mắt ấy sẽ làm cho con già đi trước tuổi mất thôi, con ơi - Bà Hai Thoan nghĩ - Con ạ, con cứ khóc đi... Đàn bà chúng ta làm gì an ủi được bọn đàn ông mông muội này Ông khách đã ngồi nhỏm dậy: - Nào! Về đi chứ? Về với tổ ấm của cô đi chứ... Con sáo sang sông, con sáo sổ lồng, con sáo bay xa... - Em xin ông... Hay là em lên giường bây giờ một lúc... Để em cởi áo ra vậy... - Không... Em đừng làm thế... Em hiểu sai tôi mất rồi... Thi nhân... Người thơ... Một thi nhân sa đà ngày tháng 3. Em đi đi hãy giữ gìn mình! Em đi đi, nếu không tôi sẽ đập đầu vào cột cho xem... Ông khách đẩy cô gái ra khỏi cửa một cách khá thô bạo. Bà Hai Thoan ngậm ngùi nhìn người thiếu nữ mới có một con mà tóc đã bơ phờ, hông và chân đã lệch cả đi vì phải làm quá nhiều việc nặng. Tội nghiệp. Bóng áo hoa phấp phới ở trong chiều mưa rét. Cô gái đi về phía bến sông,

226

bước thấp bước cao, vừa đi vừa ngoái đầu lại mà mắt ướt nhoè. Bà Hai Thoan gọi hai con bé con giúp việc lại bảo: - Chúng mày cầm hộp mứt Tết đuổi theo cái cô mặc áo hoa kia đưa cho cô ta tận tay cho bà. Đứa bé con mắt một mí, môi đỏ cứ như thoa son, hỏi xỏ bà lão: - Đưa cho hộp mứt rồi lấy tiền một cách "tỉnh táo, lạnh lùng, dứt điểm", phải không bà? Bà Hai Thoan cười: - Mẹ cha mày! Ranh con! Đây là quà của bà cho khách đa tình đấy, con ạ... ! Chúng mày có hiểu gì đâu! Hai đứa bé con dắt tay nhau, vừa cười ngặt nghẹo, vừa đuổi theo cô gái về phía vệ đê. Bà Hai Thoan quay vào phòng trọ. Ông khách lạ đã bỏ đi từ lâu rồi, có mỗi cái cặp số vứt lại. Bà Hai Thoan mở cặp, thấy trong ấy có một đôi quần lót phụ nữ để trong hộp giấy bóng kính loại 30 nghìn đồng một đôi, hàng chợ của Thái Lan mới nhập vào trước Tết ít ngày. - Chắc cái lão ma bùn này định làm quà nhưng quên mất Bà Hai Thoan cười độ lượng - Thôi thế là hai đứa bé con giúp việc cho bà cũng có quà Tết rồi đây... Bà Hai Thoan quay ra dọn nhà. Bà đã ở độc thân trên bến sông này ở chỗ chợ quê này bao nhiều năm rồi. Bao nhiêu nước sông đã chảy, bao nhiêu người đã qua đây. Phải! Bao nhiêu nước sông đã chảy, bao nhiêu người đã qua đây! Đã bao nhiêu xuân về! Mà Tết nào cũng vui như Tết... Lẻ loi ấy một cánh chim/ Viết câu thơ để sống nghìn năm sau/ Mải mê tính chuyện không đâu/ Gió thương tình đội lên đầu vầng trăng...

227

Ngoài sông gió xuân thổi. Kìa gió xuân thổi bơ phờ trên mặt sông xanh ơi là xanh. Hà Nội, 1999

-------------------------------Tất cả những câu thơ trong truyện này đều là 1 mượn của Đồng Đức Bốn. Thơ Nguyễn Bảo Sinh: "Khi mê bùn chỉ là bùn/ 2 Ngộ rồi mới biết trong bùn có sen/ Khi mê tiền chỉ là tiền/ Ngộ rồi mới biết trong tiền có tâm". Thơ Vũ Toàn: "Một thi nhân sa đà ngày tháng/ 3 Thấy xuân về lai láng hồn thơ..."

228

SỐNG DỄ LẮM Trường Sư phạm tỉnh miền núi mở lớp tập huấn cho giáo viên vùng cao vào cuối tháng 7. Có 11 người và họ đều là những giáo sinh trẻ lần đầu đi dạy học. Bạn đọc ở đô thị chắc hiểu ít về các trường học vùng cao cách đây ba, bốn mươi năm.Tôi chỉ có thể nói với bạn rằng không ở đâu buồn tẻ hơn và ít vụ lợi hơn ở đấy, còn việc hình dung và dành tình cảm cho nó ra sao tuỳ bạn. Cuối tháng 7, ở Tây Bắc mưa nhiều và những đợt lũ quét bất ngờ có thể gây nên những tai hoạ không thể lường trước được. Người ta cử ông giáo Chi mang những tài liệu sách vở đến giảng cho lớp tập huấn nhưng trên đường từ tỉnh lị về trường, khi qua suối, ông giáo Chi bị nước cuốn sạch đồ đạc. Mười một giáo sinh ra đón ngài thanh tra giáo dục, họ nửa khóc nửa cười khi thấy một ông già gày gò, mình trần thân trụi ướt như chuột lột đang ngồi rét run cầm cập. Tất cả những nghi lễ và dự định cho lớp tập huấn giáo dục bỗng vứt đi hết vì lí do bất ngờ, những qui định ứng xử giữa ông giáo Chi và đám trẻ bỗng xoay ra hướng khác hẳn. Ông giáo Chi được các cô con gái thân mật gọi là " bố " mặc dầu ông nửa đùa nửa thật nói rằng mình thích được coi là " bạn thân " hoặc " anh giai " hơn. Các cô con gái trổ tài may vá và ông giáo Chi lập tức có ngay hai bộ quần áo được " cải tạo " từ đám quần áo cũ của họ. Hai cậu con trai không tỏ ý thân thiện gì với " bố ", dưới mắt họ ngài thanh tra giáo dục " xuống cấp ", trở thành một tay dấm dớ chẳng ra gì. Tuy nhiên, đúng ngày đúng giờ, lớp tập huấn giáo dục vẫn được bắt đầu như thường lệ, y như qui định của Bộ giáo

229

dục tận mãi Thủ đô. Ông giáo Chi vốn xuất thân là lính, ông coi nhiệm vụ trên hết và không có gì ngăn cản ông làm nhiệm vụ được giao. Không có giấy bút gì, ông giáo Chi đĩnh đạc đứng lên bục giảng có các cô con gái vây quanh, hai cậu con trai bất đắc dĩ phải ngồi cùng, không phải vì nể ông giáo mà vì nể các cô con gái. - Dạy học là nghề sống dễ lắm ! - Ông giáo Chi bắt đầu bài giảng của mình. - Nếu lương ít, lại không có thực phẩm thì làm sao ? Ở các vùng cao lấy đâu ra chợ ? - Các cô giáo trẻ lần đầu sống xa nhà lo lắng hỏi ông. - Phải trồng rau chứ ! - ông giáo Chi trả lời. Nuôi lấy vài con gà... Ngày xưa, tớ (ông giáo Chi xưng " tớ " chứ không xưng " bố ")... tớ nuôi cả lợn. Chiều ba mươi Tết thịt lợn, đánh tiết canh... thật không có gì vui như thế... vui như Tết ! - Tất cả là do tự nhiên điều chỉnh hết ! - ông giáo Chi nói Mình cứ sống thôi ! Sống dễ lắm ! Cứ nhìn vào mắt bọn trẻ con mà sống...Cũng cần phải biết một ít kĩ năng, như cách thiến gà... Phải biết một số cây thuốc cầm máu, biết phân biệt các thứ nấm độc...Tớ có kinh nghiệm không nên tin cái gì đẹp đẽ quá... Ông giáo Chi đưa bọn trẻ vào rừng, ông chỉ cho họ cách tìm các cây rau ăn được, các cây thuốc, cách tìm phương hướng khi lạc rừng nhờ vào việc xác định rễ ở các gốc cây. Buổi tối, họ ngồi tập hát, ông giáo Chi dạy họ bài hát về nghề dạy học : "Tôi không quên những giờ lên lớp đầu tiên Khi bước về ngôi trường xa Trang sách trắng tinh

230

Với nét phấn đơn sơ vụng về đừng hỏi vì sao tôi yêu dấu..." - Dạy học không có gì khó cả ! Sống dễ lắm ! - Ông giáo Chi lại nói - Mình cứ hình dung mình là đứa bé, đứa bé cần gì thì dạy thứ ấy... đừng dạy nó thứ không cần... - Sống dễ lắm ! - Ông giáo Chi lại nói - Giáo dục... nghĩa là tha bổng... Hễ có tội là tha... trẻ con không có tội gì... Sống nghĩa là sai lầm, là mắc tội... Mình phải yêu mạng sống của chúng như yêu mạng sống của mình... - Thế còn tình yêu ? - Những cô gái trẻ náo nức hỏi. - Tớ không biết... - ông giáo Chi lúng túng trả lời - Nhưng có sự hi sinh... nghĩa là cay đắng...Tình yêu là mang cho nhau lời nguyện cầu tốt đẹp, những cử chỉ thân tình âu yếm, dục vọng, lòng ham sống... tóm lại là cảm giác... - Nói dối ! - Một trong hai cậu con trai sầm mặt lại, chửi thề rồi nói khẽ qua kẽ răng. Đấy là Dân, tay thanh niên sinh ra ở thành phố - Nó hơn thế nhiều... - Cậu thì bao giờ cũng coi cậu đúng còn mọi người là dối trá hết ! - Ông giáo Chi buồn bã nói - Cậu không dạy học được.Cậu chỉ đi chiếm đoạt và áp chế người...Cậu giống " sếp " của tôi. - Để xem - Anh chàng Dân trả lời - Nhưng dạy học đâu có phải là nghề tốt nhất trên đời phải không ? - Tớ không biết ! - Ông giáo Chi thừa nhận - Có lẽ thế thật ! - Nhưng chúng ta đang nói chuyện về tình yêu cơ mà ? Các cô giáo trẻ vẫn không bằng lòng với cách giải thích của ông giáo Chi.

231

- Hỏi làm gì ? Rồi trước sau ai cũng biết hết... - Cậu con trai tên là Hiếu bẽn lẽn chen vào. Khác với Dân, anh chàng Hiếu là một thanh niên nông thôn rụt rè. - Đúng đấy ! Trước sau gì ai cũng biết hết... Rồi sẽ được ăn đòn cả thôi ! Đừng có vội ! Đừng có sốt ruột ! - Anh chàng Dân nói xong thì cười nửa miệng. Các cô gái trẻ đòi ông giáo Chi kể về tình yêu. Ông giáo Chi từ chối mãi không được, cuối cùng ông đành nói : - Có lẽ tớ đã yêu rất sớm... - Ông giáo Chi đỏ mặt thú nhận - Từ khi tớ còn là học trò...Mà người tớ yêu lại là cô giáo. Cô giáo đi vào lớp, tớ ngắm nghía như muốn nuốt chửng cô ta. Sau này tớ rất xấu hổ, rất ân hận... Hai cậu con trai tỏ vẻ khinh bỉ đứng lên bỏ ra khỏi lớp. Ông giáo Chi ngồi im. Ông biết ông đã dại dột nói ra điều không nên nói. Ông là một nhà giáo dục thất bại. Các cô gái an ủi ông : - Bố lại bịa, phải không ? Sao bố lại đi bịa như thế để cho người ta coi thường bố ? Chúng con biết bố có một tình yêu cao thượng, có phải không ? - Ừ ừ... - Ông giáo Chi trả lời - Cao thượng... riêng tư... nhưng tớ có lỗi... tớ ích kỉ... mà lại hèn...Cô ấy là người rất kiên nhẫn mà cuối cùng cũng phải chán tớ. - Cũng tại bọn đàn bà hay đòi hỏi cơ ! - Các cô gái than thở - Người ta vẫn nói đàn bà với tiểu nhân là một... - Không phải thế đâu... - Ông giáo Chi cười đau đớn - Đấy là Khổng Tử. Ông ấy là tay say mê chính trị, hắn không có tình yêu, hắn yêu lễ hơn cả tình yêu... mà tình yêu là thứ vô lễ nhất. Tình yêu rốt ráo thậm chí còn là vô luân... - Thế cũng phải dạy cho bọn trẻ con những điều như thế phải không ? - Các cô gái lại hỏi.

232

- Phải dạy chứ ! - Ông giáo Chi nói - Nhưng tốt nhất cứ để tự nhiên điều chỉnh là hơn... Sống dễ lắm ! Cứ nhìn vào mắt bọn trẻ con mà sống.Có điều phải trung thành với công việc... Đừng có như hai thằng trời đánh kia ! Tớ thề rằng chúng nó sẽ phản bội nghề dạy học. Cô nào yêu chúng rồi sẽ đau khổ... Chúng nó thì có dạy ai ?Bọn đàn ông, tớ biết rất rõ... Một phần cũng bởi tại giới nữ các cô kích động nữa cơ, chúng nó là bọn láo khoét, không có phúc đức gì đâu... " Phúc đức tại mẫu ", đã hiểu chưa ? Không hiểu thì rồi sẽ hiểu. Trong lớp học có Mạ là cô gái mà ông giáo Chi yêu mến nhất. Cô gái nhà nghèo, bỏ quê lên vùng cao dạy học, lúc nào cũng nhường nhịn mọi người, lúc nào cũng tranh làm những việc nặng. Mạ ít tuổi nhất lớp nhưng cô lại có vẻ đàn chị nhất lớp. Sớm mồ côi, phải nuôi hai em nhỏ nên Mạ sớm tháo vát hơn người. - Con ạ... Sao mày cứ đi làm tranh việc của người khác như thế ? - Ông giáo Chi hỏi cô. - Con không biết... tại số con nó thế... - Thôi cũng được... - Ông giáo Chi ngậm ngùi thở dài Nhưng cũng phải thương lấy thân mình.Thương người là rồi rước hoạ vào thân... Cứ như thế, từng ngày một, trong nửa tháng trời ông giáo Chi truyền cho đám giáo sinh trẻ những kinh nghiệm, những nguyên tắc sơ khai về giáo dục theo cách của ông. Ông đã từng sống một mình trong gian khó, phải đấu tranh với cái đói, sự hiểm nguy. Ông là giáo viên tiểu học, một viên chức thấp nhất trong ngành giáo dục, ông rất dễ bị tổn thương, rất dễ bị người khác sỉ nhục hoặc coi thường, ông nói ra những kinh nghiệm của ông để bảo vệ thân phận, bảo vệ miếng ăn cũng như nhân cách của ông.

233

Đơn giản mà kiên quyết, không có chút gì khoa trương và khoan nhượng hết. - Không nên tin ai ! Sống dễ lắm ! Trong gian khó mà tin người là chết ! Tất cả mọi người có khả năng phản bội, kể cả phản bội những đức tính cao quí nhất, vì thế mới có cái chết chứ... Chỉ có một sự bất tử duy nhất là huyền thoại... trong huyền thoại thì tình yêu là thứ huyền thoại vĩ đại và cay đắng nhất... Khi lớp học tan thì mọi người đã thân thiết với nhau lắm, thậm chí anh chàng Dân còn khoe rằng đã hôn được tất cả các cô gái ở trong lớp học. Họ ghi vào sổ tay của nhau những lời chúc tụng tốt đẹp, những bài thơ... Các cô con gái chép cho nhau cả những bài hát để khi về trường dạy lũ trẻ con... Rồi khóc lóc... Rồi chia tay... Rồi tiễn nhau ra bờ suối. những cánh chim bay đi. Vùng cao xa mờ trong mây núi. Các thày cô giáo trẻ tuổi bịn rịn lên đường, vừa háo hức, vừa sợ hãi, cả vui với buồn lẫn lộn. Ông giáo Chi lội suối trở lại tỉnh lị báo cáo với trên về việc mở lớp " tập huấn " của mình. - Không có tài liệu ! Không có sách vở ! Không có chương trình ! Mình trần thân trụi ! Thế ông làm những trò gì cho những giáo sinh ở vùng cao ấy ? - Người ta hỏi ông. - Tôi nhen lửa... nghĩa là thổi vào lòng họ vài ngọn gió... Tôi bảo họ sống dễ lắm ! Chỉ có thế thôi ! Người ta cười phá lên : - Ngọn gió ! Thật là đồ ngu ! Đồ dối trá ! Sống dễ lắm ! Ông đã làm hỏng toàn bộ phương pháp. Rồi ông sẽ biết thế nào là sống dễ lắm ! Ông giáo Chi bị cách chức, bị chuyển đi làm việc khác. Người ta bảo ông :

234

- Mắt xích giáo dục, ông già ạ, trong chuỗi mắt xích giáo dục thì ông đã làm cho mắt xích vùng cao mất toi, chẳng ra cái gì... Ông giáo Chi ngậm ngùi xếp đồ đạc vào chiếc ba lô bạc màu ngày trước của ông. Người lính già cảm thấy lòng mình tan nát. Ông đành thôi việc về quê. Sống dễ lắm chẳng phải là một câu nói đùa cửa miệng cho vui sao ? Vùng cao xa xôi trong ông chỉ còn mơ hồ là những đám mây trắng trong dãy núi xa xôi, tiếng cười vô tư lự của đám giáo sinh trẻ tuổi, hình ảnh cô bé Mạ năm nào, cái cô giáo cấp một chịu thương chịu khó có thân hình gầy gò bé nhỏ trông chẳng khác gì một đứa trẻ chăn trâu ở trong xóm núi... Ba mươi năm sau, ông giáo Chi khi ấy đã thành một ông lão quá tuổi " thất thập cổ lai hi " chỉ loanh quanh nơi vườn nhà. Một hôm ông có khách, khách là hai mẹ con nhà kia từ nơi xa xôi đến chơi. Chưa bao giờ ông vui như thế : cô giáo Mạ ngày nào đưa con gái về thành phố đi thi đại học ghé lại thăm thày giáo cũ. Ông giáo Chi cười không thành tiếng : - Thế nào ? Vẫn còn nhớ ta ư con ? Sống dễ hay khó hả con ? Cô giáo Mạ vừa lôi trong túi xách ra những gói quà đặt lên mặt bàn vừa cười : - Kể cũng thất điên bát đảo nhưng xét cho cùng thì sống dễ lắm ! Bố có nhớ không ? Lớp học ngày ấy có 11 người... chết mất một nửa rồi... Ông Dân bây giờ lên chức to lắm nhưng không còn làm trong ngành giáo dục. Ông Hiếu nghiện nặng, nghiện thuốc phiện, bị đuổi khỏi ngành vì đi sàm sỡ với cả học trò...

235

- Tớ biết ngay mà ! - Ông giáo Chi than thở - Thằng Dân tham vọng quá, nghề dạy học là nghề quá bé nhỏ với nó. Những tên lưu manh bao giờ cũng phải khua khoắng ở nơi đất rộng có người chen chúc. Thằng Hiếu thì tình cảm quá, không thắng được những bản năng...Chà ! Lũ đàn ông ! Thày bậy thày bạ ! Phúc đức gì lũ chúng mày ! Ông giáo Chi khổ sở, bận rộn với những ý nghĩ trong đầu y như trước mặt ông đang có 11 đứa con giống như ở trên lớp học vùng cao ngày nào.Ông mỉm cười với người học trò mà ông yêu mến nhất, đứa con gái trung thành của ông : - Hãy kể chuyện đi, con gái... Sống dễ là như thế nào ? - Cũng đói... Cũng rét... Cũng khổ đủ đường nhưng rồi cứ nhìn vào mắt bọn trẻ con mà sống... - Thế những đứa khác thế nào ? - Cũng thế...Bố còn nhớ con bé Thảo không ? - Cái con bé trắng trẻo, vẫn hay nói lắp chứ gì ? - Đúng rồi ! Nó yêu ông Dân...Tình yêu đơn phương... Nó bỏ vào rừng, nó cứ đi mãi, nó sa vào tổ ong đất rồi chết. Chỗ ấy mặt đất rất sạch, lại rất phẳng phiu, bên trên không có một ngọn cỏ nào... Cái hố toàn ong là ong sâu hơn bốn mét... - Khổ ! đã bảo không được tin vào cái gì sạch sẽ cơ mà ! Ông giáo Chi rên rỉ, nước mắt ròng ròng - Cái con bé xinh thế ! Thật tội nghiệp ! Thế bây giờ mộ nó ở đâu ? - Vẫn ở trên ấy, bố ạ... Bố còn nhớ dãy núi Đầu Hổ không ? Nó nằm ở đấy 30 năm rồi... - Thế những đứa khác thế nào ?

236

Cô giáo Mạ ngồi im một lát như muốn nhớ lại từng người bạn cũ ngày xưa, cô nói : - Được cái không ai bỏ nghề dạy học... Nhưng hễ đứa nào dính đến yêu đương là chết... Khổ thế đấy ! Đứa nào an phận thủ thường thì cũng vung vinh hơn người... - Ta đã bảo mà ! - Ông giáo Chi gật đầu - Cứ để cho tự nhiên điều chỉnh là hơn ! Cứ mơ mộng hão huyền là chết... Đừng có lãng mạn viển vông gì cả... Thế còn con ? Con gái của con năm nay thi vào đại học ? Thế bố nó đâu ? Bố nó làm gì ? Cô giáo Mạ đưa mắt nhìn cô con gái.Cô con gái biết ý bẽn lẽn đi ra ngoài sân. - Bố nó ngày xưa cũng là thanh tra giáo dục - Cô giáo Mạ thì thào - Anh ấy đi về trường con có mỗi một lần... cũng y như bố, buồn cười, mình trần thân trụi... Ông giáo Chi cảm thấy nghẹt thở, nước mắt chảy ra ràn rụa. Ông cười không thành tiếng : - Ừ... Vậy nó là thanh tra giáo dục...Thế nó nói gì ? - Không nói gì cả... - Thằng ông mãnh ! Thế là nó khôn... - Được cái thật thà...Mà khoẻ lắm ! Cứ như lực điền... - Đúng rồi...Tất cả là ở cảm giác... - Hồi ấy mùa thu...Hoa cúc nở vàng như mê như man trong thung lũng. Mật ong thì nhiều vô kể... Lũ học trò mang đến cho con bao nhiêu là hoa với mật ong... - Ừ ừ... ta hiểu... Thế cũng xơi chứ ? - Vâng... Ăn tham không tưởng tượng được. Toàn mật ong rừng thuộc loại ác chiến...

237

- Có phải nó đặc sánh mà lại vàng như ánh nắng ở dưới mặt trời phải không ? - Vâng... vàng như hổ phách... Mà trong suốt. Cô giáo Mạ ngồi lặng im một lát không nói năng gì. Mãi lúc sau ông giáo Chi mới húng hắng ho. Ông nói nho nhỏ : - Ở vùng cao ấy, con ạ, không khí rất sạch, rất tốt cho trẻ con đấy ! Cô giáo Mạ như bừng chợt tỉnh, mỉm cười : - Vâng... được cái không khí thì sạch lắm. Hồi đẻ con bé, con tự làm lấy hết... tự cắt rốn cho nó, tự may vá lấy... - Thế lúc ấy không có ai à ? - Không có ai... May mà cũng không nhiễm trùng... Hôm ấy trời mưa rất to... Ông giáo Chi đỡ lấy chén nước mà cô giáo Mạ vừa rót cho ông, ông nói : - Con bé của con xinh lắm ? Thế nó ngoan chứ ? Có hiếu chứ ? - Vâng... Được cái cháu nó cũng ngoan, cũng biết thương mẹ. Con nghĩ thi được đại học thì thi, không được thì thôi... - Ừ... phải nói với nó là sống dễ lắm... đừng làm nó sợ... - Con hiểu... - Cô giáo Mạ tần ngần nhìn ông giáo Chi, tự dưng nước mắt ứa ra - Bố già rồi... Thế bố có còn nhớ gì về những nơi ở ngày xưa của bố hay không ? Ông giáo Chi gật đầu, ông nói rất khẽ cứ như là ông tự nói để cho mình nghe : - Có... nhớ chứ ! Toàn núi là núi nhỉ ? Mà toàn núi xanh mây trắng...

238

Một lúc sau, hai mẹ con cô giáo Mạ từ biệt ông giáo Chi để trở về nhà, trở về trường học cũ của họ. Giống như ngày xưa : lại nước mắt, những lời li biệt... Ông giáo Chi tiễn người học trò rồi mà cứ thẫn thờ tần ngần đến suốt mấy tiếng đồng hồ. Hôm sau, hôm sau nữa ông cứ lơ lửng như người mất hồn. Nhiều lúc, ông giáo Chi bỗng thấy người mình tựa như nhẹ bỗng, nhẹ đến nỗi tưởng như có thể bay lên được kia ! Chao ôi ! Ước gì ông có thể bay lên trời được ! Như những ngọn gió ! Nếu bay lên được thì ông sẽ bay đến những dãy núi xanh xa xôi tít tắp kia, nơi ấy lẩn khuất trong mây trắng và sương mù, nơi ấy không khí rất sạch và khoáng đạt, nơi mà hoa cúc dại nở vàng rực rỡ như mê như man đầy trong những thung lũng hoang vắng không có một bóng người nào. Phải ! Điều cốt nhất là phải không có một bóng người nào ! Như thế thì sống dễ lắm ! Nhất định rồi ông sẽ về đấy mà ! Ông sẽ về đấy... Ông nghĩ như thế ? Cho ngày mai...Mai...

239

240

Table of Contents Bìa Sách Thương Cả Cho Đời Bạc - Nguyá»…n Huy Thiệp Chương 1 Chương 2 Chương 3 Chương 4 Chương 5 Chương 6 Chương 7 Chương 8 Chương 9 Chương 10 Chương 11 Chương 12 Chương 13 Chương 14 Chương 15 Chương 16 Chương 17 241

240 1 2 11 24 59 79 90 102 113 124 131 142 162 173 184 197 218 229